Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN_Coi trọng tính chất thực hành trong giờ tập viết chữ cái hoa ở lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.67 KB, 16 trang )


Họ và tên: Tô Thị Huân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Chu Văn An
MỤC LỤC
STT Nội dung Trang
1 I. Tóm tắt đề tài
- Coi trọng tính chất thực hành trong giờ tập viết chữ cái hoa lớp 2
2
2 II. Giới thiệu
Điều tra hiện trạng
3
3 III. Phương pháp
1. Khách thể nghiên cứu
- Những công việc thực tế đã làm
- Biện pháp thực hiện
2. Quy trình nghiên cứu
3. Đo lường và thu thập thông tin
4. Phân tích dữ liệu và bàn luận kết quả
5. Kết luận và khuyến nghị
- Bài học rút ra qua thực nghiệm sáng kiến
- Một vài đề xuất
4
5
7
8
9
4 Tài liêu tham khảo 11
5 Phụ lục của đề tài 12
6 Bảng điểm của HS 15
I. Tóm tắt đề tài:


1

Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu
học, nhất là đối với các lớp đầu cấp. Phân môn tập viết trang bị cho học sinh bộ
chữ La Tinh và những yêu cầu về kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái này trong học
tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, tập viết không những có quan hệ mật thiết tới
chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong
những kỹ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường đó là kỹ năng
viết chữ. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi
chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu, chậm sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập.
Mặt khác tập viết là phân môn có tính chất thực hành mà tính chất thực
hành có mục đích của việc dạy học tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí
quan trọng của phân môn này ở trường tiểu học.
Ngoài ra tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh
những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỉ luật và khiếu thẩm mĩ.
Cố vấn Phạm Văn Đồng có nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết
người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện
cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và
bài vở của mình”.
Đặc biệt theo chương trình sách giáo khoa mới ở tiểu học và theo quyết
định số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về mẫu
chữ viết trong trường tiểu học thì tính chất thực hành của phân môn tập viết
càng thể hiện rõ. Chính vì vậy mà trong phạm vi bản sáng kiến này, tôi chỉ đề
cập đến mẫu chữ cái viết hoa.
Chữ hoa theo mẫu hiện hành là chữ hoa đẹp nhưng lại rất khó viết, đặc
biệt là đối với các em học sinh lớp đầu cấp; các nét cong, nét lượn mềm mại và
thay đổi liên tục trong một con chữ. Để tạo dáng thẩm mỹ, các nét cơ bản ở chữ
cái viết hoa thường có biến điệu, không “thuần tuý” như ở chữ cái viết thường.
Qua việc thực hành của học sinh, người giáo viên lại một lần nữa rèn cho

học sinh tính cẩn thận và khiếu thẩm mỹ của các em. Cũng bởi lẽ đó mà tôi chọn
đề tài về: “Coi trọng tính chất thực hành trong giờ tập viết chữ cái hoa ở lớp
2”
II. Giới thiệu
2

* Điều tra thực trạng
Năm học 2012-2013 là năm học thứ 9 thực hiện dạy viết chữ hoa cho học
sinh lớp 2 theo chương trình và sách giáo khoa mới bằng mẫu chữ hiện hành.
Số bài và thời lượng học: Mỗi tuần có một bài tập viết, học trong một tiết.
Trong cả năm học, học sinh được học 31 tiết tập viết.
Về nội dung: Ở lớp 2 học sinh học viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục luyện
cách viết các chữ viết thường và tập nối nét chữ từ chữ hoa sang chữ thường.
Về hình thức rèn luyện: Trong mỗi tiết tập viết, học sinh được hướng dẫn
và tập viết từng chữ cái viết hoa, sau đó tập viết cụm từ hoặc câu ứng dụng (có
nội dung phù hợp với chủ điểm và tương đối dễ hiểu) có chữ hoa ấy.
Số lượng, nội dung và hình thức như vậy là phù hợp với học sinh lớp 2.
Tuy nhiên, thực tế giảng dạy cho thấy học sinh lớp 2 học môn tập viết để viết
đẹp là rất khó. Ở lớp 1 các em mới làm quen với chữ hoa qua hình thức tập tô
trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ II. Chính vì vậy khi viết chính tả,
chữ hoa của các em mới dừng ở mức độ gần giống với hình dáng theo mẫu chữ
quy định, một số em còn thao tác ngược hoàn toàn với quy trình viết (Chữ O, ¤,
¥) hoặc nhấc bút tuỳ tiện (Chữ N, M, U, ¦, ), không biết đâu là điểm nhấn của
con chữ để tạo độ mềm mại, đẹp. Còn một lý do nữa là trong giờ dạy tập viết
còn nhiều giáo viên chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của học
sinh, mà đi sâu quá vào việc giải thích qui trình viết chữ, nên học sinh không
được luyện viết nhiều và luyện viết còn mang tính hình thức.
Vì vậy để học sinh lớp 2 viết đúng, tiến tới viết đẹp chữ hoa hiện hành, từ
đó trình bày đẹp một đoạn văn, đoạn thơ là mối quan tâm và trăn trở rất lớn của
tôi cũng như các đồng nghiệp.

Đầu năm học 2012-2013 lớp 2 mà tôi đảm nhiệm có tổng số học sinh là 22
em. Qua khảo sát đầu năm về việc viết chữ hoa đẹp, đúng quy trình chữ viết
chưa kết quả cụ thể như sau:
TSB Giỏi Khá TB Yếu
22
SL % SL % SL % SL %
4 18 6 27 8 37 4 18
III. Phương pháp
1. Khách thể nghiên cứu:
3

Trước hiện trạng đó, tôi đã phân tích và tự đặt ra cho mình một câu hỏi:
phải làm gì? Làm như thế nào? Để khắc phục tình trạng đó để nâng cao chất
lượng chữ viết cho học sinh. Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tiến hành sử dụng
phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu đó là: Phương pháp luyện tập (một
trong 3 phương pháp: trực quan, đàm thoại gợi mở, luyện tập) là phương pháp
có vai trò quan trọng trong hoạt động dạy học phân môn tập viết ở lớp 2, vì chữ
viết của học sinh là sản phẩm của quá trình vận động có sự phối hợp đồng bộ
của nhiều bộ phận cơ thể (mắt nhìn, óc nghĩ và điều khiển cơ quan vận động, cơ
và xương bàn tay hoạt động, đồng thời có sự “lan toả” ảnh hưởng tới một số cơ
quan khác đối với cơ thể học sinh ở lứa tuổi tiểu học).
* Những công việc thực tế đã làm
Từ yêu cầu thực tiễn của môn tập viết nói chung và rèn kĩ năng thực hành
viết chữ cái hoa cho học sinh lớp 2, tôi đã tự đặt cho mình nhận thức đầy đủ tầm
quan trọng, yêu cầu của bộ môn, đặc biệt về nội dung và phương pháp thực hành
viết chữ cái hoa cho học sinh lớp 2.
Trong giảng dạy môn tập viết, qua nhiều năm gần đây, tôi đã tích cực
nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, cách truyền thụ kiến thức, đặc biệt
là rèn luyện kĩ năng viết chữ hoa cho học sinh. Muốn rèn cho học sinh viết tốt,
trước hết trong mọi giờ tập viết giáo viên cần hướng dẫn học sinh từ tư thế ngồi

viết, cách cầm bút, viết trên không, sau đó mới yêu cầu học sinh luyện viết chữ
hoa
* Biện pháp thực hiện
Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định chung về cách tổ chức lớp. Qua
tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh về lựa chọn, đặc biệt là về kĩ
năng viết, nhất là kĩ năng viết chữ cái hoa và phân loại học sinh theo 3 đối
tượng:
- Đối tượng 1: Học sinh viết chữ đúng mẫu tương đối đẹp
- Đối tượng 2: Học sinh viết chữ đúng nhưng chưa đẹp.
- Đối tượng 3: Học sinh viết chữ còn sai mẫu.
Dựa vào đó, tôi đã sắp xếp chỗ cho học sinh, những em viết chữ chưa đúng
ngồi cạnh những em viết chữ đúng mẫu để đôi bạn cùng tiến. Tôi tiến hành công
việc tiếp theo là giới thiệu cấu tạo chương trình môn tập viết để các em nắm
được trong từng học kì và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu
cơ bản của việc rèn luyện kĩ năng viết chữ cái hoa. Hướng dẫn mỗi em mua
thêm một quyển vở luyện viết chữ hoa để các em luyện viết thêm.
4

2. Quy trình nghiên cứu
Sau khi tiến hành như vậy, tôi đưa vào giảng dạy để việc luyện tập thực
hành của học sinh có hiệu quả, sản phẩm là chữ viết của các em đúng và đẹp, tôi
tiến hành như sau:
1. Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc
hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao, từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết
đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và
đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng
bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở các phân môn của bộ
môn Tiếng Việt và ở các môn học khác.
2. Khi học sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần luôn luôn chú ý uốn nắn

để các em cầm bút và ngồi viết đúng tư thế. Bài viết đẹp phải đi kèm vớí tư thế
đúng, rèn cho trẻ viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn cách ngồi viết là một thiếu
sót lớn của giáo viên. Trong quá trình luyện tập của học sinh, tôi thường lưu ý
các hình thức luyện tập cơ bản sau:
Hình thức thứ nhất: Luyện các thao tác chuẩn bị viết chữ
Học sinh dùng que chỉ “đồ” trên mẫu ở phần hướng dẫn qui trình viết;
viết bằng ngón tay vào khoảng không trước mặt, nếu cần có thể tập viết nét khó,
nét đặc biệt chú ý để chữ viết hoa được đúng và đẹp.
Hình thức thứ hai: Luyện viết chữ hoa trên không
Hình thức tập viết chữ trên bảng lớp có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách
viết chữ hoa và bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ hoa của học sinh. Hình thức
này thường dùng trong một quá trình viết từ và cụm từ ứng dụng. Qua đó giáo
viên phát hiện chỗ sai của học sinh (về hình dáng, cách viết, thứ tự các nét ) để
uốn nắn chung cho cả lớp hoặc đánh giá, cho điểm.
Ví dụ: Khi dạy bài: Chữ hoa M
Học sinh được luyện tập viết trên bảng lớp khi kiểm tra bài cũ (giáo viên
yêu cầu học sinh viết chữ A )
Sau khi giáo viên viết mẫu chữ M, học sinh viết chữ hoa trên không, giáo viên
quan sát xem học sinh đã viết theo đúng qui trình chưa (nét móc ngược trái, nét
thẳng đứng, thẳng xiên và nét móc ngược phải), học sinh đã chú ý vào điểm
nhấn của chữ để con chữ này mềm mại và đẹp chưa (nét thẳng đứng hơi lượn
sang trái ở phần cuối của nét 2).
5

Sau khi giáo viên hướng dẫn viết chữ hoa cỡ nhỏ và từ cũng như cụm từ
ứng dụng, giáo viên gợi ý học sinh viết trên không. Giáo viên quan sát học sinh
đã biết từ chữ hoa cỡ nhỡ chuyển sang chữ hoa cỡ nhỏ đã đúng chưa (đây là chữ
mà các em sử dụng thường xuyên khi viết), hay học sinh đã biết nối giữa nét
móc của chữ M với nét hất của chữ i chưa.
Hình thức thứ ba: Luyện viết chữ hoa trên bảng con của học sinh

Học sinh luyện tập viết chữ hoa bằng phấn trên bảng con trước khi học
sinh tập viết vào vở. Học sinh có thể tập viết chữ cái hoa, tập viết chữ ghi tiếng
ứng dụng (có chữ cái hoa). Luyện nối chữ ở trường hợp khó (nếu cần). Khi sử
dụng bảng con, giáo viên cần hướng dẫn các em cách lau bảng từ trên xuống
dưới, cách sử dụng và bảo quản phấn (phấn phải để vào hộp riêng cho khô),
cách lau tay sau khi viết để giữ vệ sinh (phải có giẻ ẩm để lau bảng, một giẻ
khác chỉ dùng để lau tay). Viết vào bảng xong, học sinh cần giơ lên để giáo viên
kiểm tra, nhận xét, sửa lỗi vào ngay bảng của học sinh (nếu có).
Hình thức thứ tư: Luyện tập viết trong vở tập viết 2
Học sinh phải viết chữ cái hoa M , chữ ghi tiếng ứng dụng theo cỡ vừa và
cỡ nhỏ, viết cụm từ ứng dụng theo cỡ nhỏ .
Muốn cho học sinh sử dụng vở tập viết có hiệu quả, giáo viên cần hướng
dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu kỹ năng của từng bài. Quá trình hướng dẫn học
sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần hết sức lưu ý rèn các thói quen cho học
sinh: ngồi viết đúng tư thế, để vở đúng quy cách và biết xê dịch vở khi viết, cầm
bút (viết) đúng quy định.
Ví dụ: Khi học sinh luyện viết vở bài: Chữ hoa M
Ở dòng đầu tiên viết chữ hoa M cỡ nhỡ, giáo viên yêu cầu học sinh quan
sát kỹ chữ viết mẫu trong vở để xác định điểm đặt bút, độ lượn của phần đầu và
độ uốn của phần lưng chữ. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh viết từng chữ một,
chữ sau rút kinh nghiệm của chữ trước để viết đẹp hơn. Cũng hướng dẫn tương
tự với dòng chữ cỡ nhỏ (học sinh viết từng dòng một).
Trước khi học sinh luyện viết chữ ghi từ ứng dụng, giáo viên yêu cầu học
sinh quan sát kĩ cách nối từ chữ sang chữ, học sinh cũng viết từng chữ một để
khắc sâu trí nhớ và rút kinh nghiệm cho chữ sau.
Ở dòng đầu của chữ ghi cụm từ ứng dụng giáo viên cần cho học sinh nhắc
lại khoảng cách giữa các chữ trước khi luyện viết.
6

Việc đảm bảo tốt các công việc trên sẽ giúp các em viết tốt hơn ở những

dòng sau.
Hình thức thứ năm: Luyện tập viết chữ hoa khi học các môn khác
Ngoài các giờ tập viết, giáo viên còn phải luôn nhắc nhở học sinh tập viết
các chữ hoa ở các phân môn khác, tập viết mọi lúc, mọi nơi. Có như thế việc
luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ thường xuyên, nhằm nâng cao
chất lượng chữ viết và hình thành ở học sinh những phẩm chất tốt như tính kiên
trì, cẩn thận, khiếu thẩm mỹ. Việc làm này đòi hỏi ở giáo viên ngoài những hiểu
biết về chuyên môn còn cần sự kiên trì, tính cẩn thận và lòng yêu nghề, mến trẻ.
3. Đo lường và thu thập dữ liệu::
Qua quá trình giảng dạy, nhờ đã kiên trì nghiên cứu, bền bỉ áp dụng
những biện pháp rèn kĩ năng thực hành viết chữ hoa như đã nêu trên. Tôi đã tiến
hành khảo sát và có số liệu ở học sinh lớp tôi như sau:
Lớp 2 Sĩ số: 22 học sinh
Điểm dưới 5
Điểm TB
(5,6)
Điểm khá
(7,8)
Điểm giỏi
(9,10)
Đầu năm
sl % sl % sl % sl %
4 18 6 27 8 37 4 18
Cuối học kì I 3 14 4 18 9 41 6 27
Giữa học kì II 0 3 14 10 45 9 41
Qua kết quả khảo sát và số liệu ghi chép tôi rất phấn khởi thấy trong các
giờ tập viết học sinh say mê học và lớp học chăm chú, các em tập trung vào bài
viết của mình hơn và hứng thú với môn tập viết và kĩ năng viết chữ hoa được
nâng cao rõ rệt. Tuy thời gian thực nghiệm sáng kiến này chưa được nhiều song
kết quả đạt được của học sinh lớp 2 về môn tập viết (chữ cái hoa) là đáng khả

quan.
Từ chỗ nhiều học sinh viết chữ hoa xấu, sai quy trình nhưng đến nay các
em đã viết tương đối đẹp, ít sai quy trình, chữ hoa của các em đã mềm mại và
đẹp hơn (kể cả các chữ hoa viết khó như chữ B, D, E, £, G, M, P, Q, R, X, )
7

Tôi mong rằng cuối học kì II này sẽ không còn học sinh viết chữ hoa sai
quy trình nữa.
4. Ph©n tÝch d÷ liÖu vµ bµn vÒ kÕt qu¶:

Tiêu chí phân tích
Khảo sát
trước
Khảo sát sau tác động
Giữa kì I Cuối kì I Giữa kì II
Điểm trung bình 6,36 7,32 7,59 7,82
Chênh lệch giá trị TB 0,95 1,23 1,45
Độ lệch chuẩn 1,65 1,59 1,22 1,18
Ttest phụ thuộc (P) 0,0284 0,00391 0,00088

Căn cứ các kết quả đã phân tích ở trên, giá trị P của cuối kì I và giữa kì II đều
nhỏ hơn 0,005 chứng tỏ có ý nghĩa của việc tác động. Do vậy chất lượng môn
tiếng việt của học sinh lớp tôi có tiến bộ rõ rệt. Hầu hết các em đã có kĩ năng
thực hành viết chữ hoa ở lớp cũng như ở nhà. Những em viết xấu, sai mẫu chữ
dần dần biến chuyển thành những em viết đẹp, đúng mẫu. Qua động viên khích
lệ của cô giáo cũng như của các bạn trong lớp, các em đã cố gắng hơn trong các
tiết tập viết. Qua việc kiểm tra viết tôi thấy các em có kĩ năng viết đúng và đẹp
hơn, ít có em viết sai. Số học sinh yếu giảm số học sinh khá giỏi tăng lên.
5. Kết luận và khuyến nghị
Trên đây là phương pháp coi trọng tính chất thực hành trong giờ tập viết

chữ cái hoa cho học sinh lớp 2. Để đạt được những kết quả trên qua kinh nghiệm
giảng dạy tôi tự rút ra một số kết luận sư phạm như sau:
Về phía GV:
- Nắm vững quy trình dạy tập viết lớp 2, đặc biệt là cách hướng dẫn học sinh
luyện viết từng chữ cái và từng tiếng trong cụm từ ứng dụng.
8

- Nắm được cấu tạo từng chữ cái, từng nét cơ bản của chữ cái để hướng dẫn
học sinh viết đúng từng nét, từng chữ cái. Đặc biệt giáo viên cần sáng tạo trong
giảng dạy, có nhiều biện pháp luyện viết các chữ cái và cụm từ ứng dụng để học
sinh học có hiệu quả cao.
Về phía HS:
- Trong giờ tập viết các em học tập rất sôi nổi hào hứng.
- Các em mạnh dạn hơn trong quá trình tìm từng nét trong chữ cái, nắm
được nghĩa của các cụm từ ứng dụng tốt hơn.
- Chữ viết của từng em ngày càng đúng và đẹp hơn.
* Kết quả về tình cảm với bộ môn:
- Các em rất thích học môn học này, đến tiết tập viết là các em hăng hái
học tập
* Kết quả về năng lực học tập của học sinh:
- Nhiều học sinh viết chữ hoa đẹp .
a) Bài học rút ra qua thực nghiệm sáng kiến:
Nói tóm lại, trong quá trình dạy tập viết chữ hoa cho học sinh lớp 2, giáo
viên cần hết sức coi trọng tính thực hành của học sinh. Muốn làm được điều đó
giáo viên cần thực hiện:
- Nắm vững chương trình.
- Nắm vững đặc trưng phương pháp bộ môn.
- Học sinh được luyện tập dưới nhiều hình thức trong suốt quá trình
học tập viết cũng như ở các môn học khác đồng thời khuyến khích học sinh
luyện viết mọi lúc mọi nơi có thể viết bằng que, phấn, ở dưới đất, trên bảng,

Có như vậy thì chữ viết của học sinh mới đúng, mới đẹp và chất lượng
chữ viết của học sinh mới đạt hiệu quả cao.
b) Một vài đề xuất:
- Cần duy trì các cuộc thi viết chữ đẹp hàng năm cho học sinh.
- Trung tâm thiết bị dạy học cần nghiên cứu để có thể bán tới tay học sinh
những loại bảng có chất lượng cao ( kiểu như bảng chống loá của giáo viên), vì
9

hiện nay bảng con mà học sinh đang sử dụng viết rất trơn, không ăn phấn, dòng
kẻ mờ hoặc không thống nhất về dòng kẻ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đúc kết trong việc dạy môn tập
viết ở lớp 2. Vì thời gian thử nghiệm chưa nhiều và việc trực tiếp dạy phân môn
tập viết chưa lâu nên kết quả đạt được chỉ là bước đầu. Rất mong được sự đóng
góp ý kiến của ban lãnh đạo Nhà trường và các đồng nghiệp để sao cho chất
lượng chữ viết của học sinh ngày càng được nâng cao, đáp ứng được yêu cầu
của ngành và chất lượng đào tạo trong nhà trường tiểu học.
Ngày 15 tháng 2 năm 2013
Người thực hiện
Tô Thị Huân
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt 1.
(Đại học Quốc gia Hà Nội – Trường đại học sư phạm)
10

2. Tiếng Việt 2 tập một, tập hai.
(Bộ giáo dục và đào tạo)
3. Tập viết 2 tập một, tập hai.
(Nhà xuất bản giáo dục)
4. Chuyên đề giáo dục tiểu học tập 6, tập 7.
(Thạc sỹ Trần Mạnh Hưởng)

PHỤ LỤC CỦA ĐỀ TÀI
Thực nghiệm: Dạy tại lớp 2 tôi chủ nhiệm.
Mục đích: Đưa nội dung và phương pháp dạy học vào để dạy thực nghiệm,
nhằm kiểm tra hiệu quả của việc đổi mới phương pháp coi trọng tính chất thực
hành trong giờ tập viết chữ cái hoa cho học sinh.
Giáo án dạy thực nghiệm:
11

Bài 14: Chữ hoa M
I. Mục đích, yêu cầu:
Rèn kỹ năng viết chữ:
- Biết viết chữ M theo cỡ vừa và cỡ nhỏ.
- Viết cụm từ ứng dụng “ MiÖng nãi tay lµm ” cỡ nhỏ; chữ viết đúng mẫu,
đầu nét và nối chữ đúng qui định.
II. Đồ dùng dạy học:
- Mẫu chữ đặt trong khung chữ
- Bảng lớp (góc bên phải) viết sẵn mẫu chữ cỡ nhỡ và nhỏ trên dòng kẻ ly như
vở tập viết.
III. Các hoạt động dạy học
A. Kiểm tra bài cũ:
- Giáo viên nhận xét bài tập viết ở nhà của học sinh.
- Học sinh cả lớp luyện chữ L và chữ ghi từ ứng dụng:
(cả lớp luyện viết bảng con) - (tính thực hành).
B. Dạy bài mới:
1. Giới thiệu bài, giáo viên nêu mục đích, yêu cầu của tiết học.
2. Hướng dẫn viết chữ hoa: M
2. 1 Hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét chữ M
- Cao 5 li, gồm 4 nét: móc ngược trái, thẳng đứng, thẳng xiên và móc
ngược phải.
- Cách viết:

+ Nét 1: Đặt bút trên đường kẻ 2, viết nét móc từ dưới lên, lượn sang phải,
dừng bút ở đường kẻ 6.
+ Nét 2: Từ điểm dừng bút của nét 1, đổi chiều bút, viết một nét thẳng
đứng xuống đường kẻ 1 (nhưng để con chữ được đẹp và mềm mại ở phần cuối ta
hơi lượn sang trái một chút)
+ Nét 3: Từ điểm dừng bút của nét 2, đổi chiều bút, viết một nét thẳng
xiên hơi lượn ở hai đầu lên đường kẻ 6.
+ Nét 4: Từ điểm dừng bút của nét 3, đổi chiều, viết nét móc ngược phải,
dừng bút trên đường kẻ 2.
- Giáo viên viết chữ lần 1 (vừa viết, vừa nhắc lại cách viết) vào bảng đã
kẻ sẵn khung như chữ mẫu.
12

- Giáo viên viết chữ lần 2 (không nói lại cách viết) vào phần bảng bên
phải kẻ ôli.
- Giáo viên cho học sinh dùng ngón tay trỏ viết vào không gian theo thứ
tự cách viết chữ (tính thực hành).
2. 2 Hướng dẫn học sinh viết trên bảng con và bảng lớp (tính thực hành)
- Cả lớp viết vào bảng con một chữ.
- Cả lớp giở bảng, giáo viên nhận xét, uốn nắn sửa ngay vào bảng con nếu
có học sinh viết sai.
- Giáo viên nhận xét học sinh viết trên bảng lớp (đã theo đúng trình tự
cách viết chưa, đã đúng, đã đẹp chưa).
- Học sinh luyện viết lần 2 chữ vào bảng con (học sinh có thể viết 1, 2
hoặc 3 chữ nếu có thể).
- Hướng dẫn học sinh viết chữ cỡ nhỏ bằng một nửa chữ cỡ nhỡ (cao 2,5
li)
+ Cả lớp viết bảng con (có thể viết nhiều chữ)
+ Nhận xét
3. Hướng dẫn viết từ và cụm từ ứng dụng (tính thực hành)

- Giới thiệu từ ứng dụng: MiÖng nãi tay lµm
+ Một học sinh đọc.
+ Hướng dẫn học sinh cách nối nét giữa chữ và chữ, nét móc của
chữ với nét hất của chữ, giáo viên viết mẫu một lần.
+ Cả lớp viết bảng con
+ Nhận xét
- Giới thiệu cụm từ ứng dụng: MiÖng nãi tay lµm
+ Một học sinh đọc
+ Nêu ý nghĩa của cụm từ: nói đi đôi với làm.
+ Hỏi độ cao chữ cái là bao nhiêu.
+ Khoảng cách giữa các chữ là bao nhiêu.
+ Học sinh luyện viết chữ khó trong cụm từ: (vào bảng con, bảng
lớp).
+ Nhận xét
4. Hướng dẫn học sinh viết vào vở tập viết (tính thực hành)
13

- Viết một dòng chữ cỡ nhỡ (vừa) – viết từng chữ một.
- Viết hai dòng chữ cỡ nhỏ – viết từng dòng một.
- Viết một dòng chữ cỡ nhỡ (vừa) – viết từng chữ một.
- Viết một dòng chữ cỡ nhỏ – viết cả dòng.
- Viết 3 dòng cụm từ ứng dụng cỡ nhỏ – viết từng dòng.
5. Chấm, chữa bài:
- GV chấm 8 - 10 bài (hoặc một tổ)
- Nhận xét bài viết của HS
6. Củng cố, dặn dò:
- Giáo viên nhận xét tiết học.
- Nhắc học sinh hoàn thành nốt bài tập viết.
BẢNG ĐIỂM CỦA HỌC SINH
14


ĐÁNH GIÁ
TÊN ĐIỂM XẾP LOẠI KÍ NHẬN
HĐKH
CẤP TRƯỜNG
tt
Họ và tên
KT trước
tác động
Kiểm tra sau tác động
GKI CKI GKII
1 Phạm Quỳnh Anh 7 8 8 8
2 Bùi Minh Anh 7 8 8 8
3 Bùi Quang Chiến 3 4 5 6
4 Nguyễn Hoàng Diễm 7 8 8 8
5 Nguyễn Thị Diễm 9 9 9 9
6 Lê Văn Dũng 6 7 8 8
7 Phạm Thuỳ Dương 7 8 8 8
8 Nguyễn Hải Hậu 6 7 7 8
9 Đặng Thu Huyền 3 4 5 6
10 Phạm Duy Khánh 4 5 6 6
11 Nguyễn Thị Lan 8 9 9 10
12 Đặng Thái Lâm 7 8 8 8
13 Bùi Tú Linh 7 8 8 8
14 Đinh Thị Thuỳ Linh 4 5 6 6
15 Nguyễn Thành Luân 6 7 7 7
16 Đặng Văn Ngọc 6 7 7 7
17 Tô Thị Quỳnh Như 8 9 9 9
18 Nguyễn Phạm Hữu Nhân 7 8 8 8
19 A Ly Sa 8 9 9 10

20 Trần Thị Thu Trang 8 9 9 9
21 Vũ Văn Trung 5 6 7 7
22 Vũ Thế Việt 7 8 8 8
15

HĐKH
CẤP CỤM
HĐKH
CẤP CƠ SỞ
16

×