Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Rèn luyện kĩ năng thực hành trong giờ tập viết cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.79 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
• Tập viết là một trong những phân môn có tầm đặc biệt quan trọng
ở tiểu học, nhất là đối với các lớp đầu cấp. Không những thế, nó còn có mối
quan hệ mật thiết, chặt chẽ và có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng học tập
của các môn học khác.
• Tập viết góp phần rèn luyện một trong những kỹ năng hàng đầu
của việc học Tiếng Việt trong nhà trường đó là kỹ năng viết chữ. Ngoài ra
nó còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm
chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỉ luật và khiếu thẩm mĩ.
• Là một sinh viên ngành giáo dục tiểu học, thấy được tầm quan
trọng của môn tập viết, em đã đi sâu tìm tòi, nghiên cứu, cũng như thông
qua việc tìm hiểu những giờ lên lớp qua băng hình, video trên mạng, thông
qua việc tham khảo ý kiến của thầy cô giáo, các anh chị khoá trên đã được đi
thực tập, cùng một số giờ xin tham dự ở lớp 2 tại trường tiểu học Lí Thường
Kiệt, em nhận thẳy rằng giáo viên tiểu học còn gặp nhiều khó khăn trong
phân môn tập viết, đặc biệt là trong những giờ tập viết khi dạy học sinh lớp
2 viết chữ cái hoa. Theo mẫu hiện hành là chữ hoa đẹp nhưng lại rất khó
viết, đặc biệt là đối với các em học sinh lớp đầu cấp, các nét cong, nét lượn
mềm mại và thay đổi liên tục trong một con chữ và thường có biến điệu,
không “thuần tuý” như ở chữ cái viết thường. Chính vì vậy khi viết chính tả,
chữ hoa của các em mới dừng ở mức độ gần giống với hình dáng theo mẫu
- 1 -
chữ quy định. Còn một lý do nữa rất bức xúc là trong giờ dạy tập viết, nhiều
giáo viên chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của học sinh, mà
đi sâu quá vào việc giải thích qui trình viết chữ, nên học sinh không được
luyện viết nhiều và luyện viết còn mang tính hình thức. Cũng bởi lẽ đó mà
em chọn đề tài: “Rèn luyện kĩ năng thực hành trong giờ tập viết cho học sinh
lớp 2, trường Tiểu học Lí Thường Kiệt”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài


2.1. Mục tiêu
• Thông qua việc đề xuất một số nội dung cũng như cách thức
nhằm góp phần giúp các em học sinh lớp 2 trường Tiểu học Lí Thường Kiệt
cải thiện chữ viết trong phân môn Tập viết, đề tài này nhằm:
+ Nâng cao kỹ năng và cải thiện chữ viết cho học sinh.
+ Trang bị cho học sinh những kĩ năng viết chữ.
+ Làm tài liệu cho bản thân sau này ra trường và cho những người quan
tâm đến phương pháp dạy tập viết cho học sinh lớp 2.
2.2. Nhiệm vụ
• Để nghiên cứu đề tài này em thực hiện các nhiệm vụ sau :
+ Hệ thống cơ sở lý luận về tính chất thực hành trong giờ tập viết lớp 2.
+ Hệ thống cơ sở thực tiễn nhằm góp phần củng cố chất lượng chữ viết
cho học sinh lớp 2.
+ Nghiên cứu kĩ năng thực hành, thực trạng của việc dạy và học Tập
viết trong giờ Tập viết cho học sinh lớp 2 trường Tiểu Học Lí Thường
Kiệt.
+ Đề ra biện pháp, yêu cầu để nâng cao hiệu quả qua việc rèn luyện kĩ
năng thực hành trong giờ tập viết cho học sinh lớp 2, trường Tiểu Học Lí
Thường Kiệt.
- 2 -
+ Đề ra hệ thống giải pháp để cải tiến chữ viết hoa cho học sinh lớp 2,
trường Tiểu Học Lí Thường Kiệt.
3. Các bước tiến hành, thời gian
3.1. Các bước tiến hành
• B1: Nghiên cứu tài liệu tham khảo có liên quan.
• B2: Khảo sát cũng như xin tham gia dự giờ những tiết dạy tập viết
lớp 2 tại một số trường như Trường Tiểu Học Lí Thường Kiệt, xem
băng hình có liên quan.
• B3: Tập hợp tư liệu, nhận xét, trao đổi để hoàn chỉnh từng phần đề
tài.

• B4: Hoàn thành đề tài.
3.2. Thời gian
• 2 tháng (12/10/2011  12/12/2011)
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
• Lấy quá trình dạy Tập viết, trong đó hoạt động dạy của giáo viên
và hoạt động học của học sinh làm chủ đạo.
• Những giáo án có liên quan đến chương trình dạy Tập viết Lớp 2
và vở tập viết 2. (Nhà xuất bản GD)
• Học sinh lớp 2 trường Tiểu học Lí Thường Kiệt.
- 3 -
4.2. Phạm vi nghiên cứu
• Chọn hoạt động dạy Tập viết Lớp 2 ở trường Lí Thường Kiệt.
• Nghiên cứu và đi sâu tìm hiểu về việc “ Rèn kĩ năng thực hành
trong giờ tập viết cho học sinh lớp 2”.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Để tổ chức hệ thống lý luận
về những kiến thức có liên quan.
5.2. Phương pháp ngiên cứu thực tiễn:
• Sử dụng phương pháp khảo sát đối với học sinh trường Tiểu Học
Lí Thường Kiệt về việc học phân môn Tập viết. Từ đó rút ra những nhận xét
về ưu điểm, hạn chế để có giải pháp tối ưu.
• Thông qua phiếu điều tra, khảo sát tại một số lớp 2 tại trường
Tiểu Học Lí Thường Kiệt, phiếu khảo sát đối với một số giáo viên, cũng như
phụ huynh có con em đang học lớp 2 về kĩ năng thực hành trong phân môn
tập viết và tổng hợp phiếu điều tra khảo sát, em có điều kiện rút ra kết luận,
đề xuất xác đáng cho quá trình cải thiện chữ viết cho học sinh lớp 2.
6. Lịch sử vấn đề
Dạy tập viết không còn là một đề tài mới mẻ mà đã có rất nhiều tác
giả đã viết nên những công trình tiêu biểu như:

+ Chữ viết và dạy chữ viết ở tiểu học (L ê A)
+ Dạy và học Tập viết ở Tiểu học (Trần Mạnh Cường – Phan Quang
Thân – Nguyễn Hữu Cao – NXB Giáo dục)
+ Dạy Tập viết ở Tiểu học (Lê A - Đỗ Xuân Thảo – Trịnh Đức Minh –
NXB Giáo dục)
- 4 -
Nhưng vấn đề rèn kĩ năng thực hành trong giờ tập viết cho học sinh
Tiểu học thì lại là đề tài rất mới, chưa được khai thác, mặc dù ở năm học
2010-2011 là năm học thứ 7 thực hiện dạy viết chữ hoa cho học sinh lớp 2
theo chương trình và sách giáo khoa mới bằng mẫu chữ hiện hành.
• Số bài và thời lượng học: Mỗi tuần có một bài tập viết, học trong một
tiết. Trong cả năm học, học sinh được học 31 tiết tập viết.
• Về nội dung: Ở lớp 2 học sinh học viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục
luyện cách viết các chữ viết thường và tập nối nét chữ từ chữ hoa sang chữ
thường.
• Về hình thức rèn luyện: Trong mỗi tiết tập viết, học sinh được hướng
dẫn và tập viết từng chữ cái viết hoa, sau đó tập viết cụm từ hoặc câu ứng
dụng (có nội dung phù hợp với chủ điểm và tương đối dễ hiểu) có chữ hoa
ấy.
• Số lượng, nội dung và hình thức như vậy là phù hợp với học sinh
lớp 2. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy cho thấy học sinh lớp 2 học môn tập viết
để viết đẹp là rất khó, chữ hoa của các em mới dừng ở mức độ gần giống với
hình dáng theo mẫu chữ quy định, một số em còn thao tác ngược hoàn toàn
với quy trình viết (Chữ O, ¤, ¥) hoặc nhấc bút tuỳ tiện (Chữ N, M, U, ¦, ...),
không biết đâu là điểm nhấn của con chữ để tạo độ mềm mại, đẹp. Còn một
lý do nữa rất bức xúc là trong giờ dạy tập viết, còn nhiều giáo viên chưa chú
ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của học sinh, mà đi sâu quá vào việc
giải thích qui trình viết chữ, nên học sinh không được luyện viết nhiều và
luyện viết còn mang tính hình thức.
• Khi khảo sát vấn đề em nhận thấy có rất ít tác giả đề cập đến

điều này, do đó em đã đi sâu tìm tòi nghiên cứu cũng như tìm hiểu vấn đề để
học sinh lớp 2 viết đúng, tiến tới viết đẹp.
- 5 -
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung gồm 3 chương:
• Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
• Chương 2: Thực trạng của việc dạy và học Tập viết lớp 2 ở trường
Tiểu học Lí Thường Kiệt.
• Chương 3: Một số biện pháp khắc phục.
NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lí luận
• Chữ viết là một công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi và nắm bắt
thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận tri thức…Do vậy việc dạy
cho học sinh biết chữ và từng bước làm chủ được công cụ chữ viết phục vụ
cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của phân môn Tiếng
Việt.
• Viết đúng, viết đẹp không chỉ góp phần vào việc rèn cho các em
những phẩm chất tốt đẹp như tính cẩn thận, tỉ mỉ, tính thẩm mĩ mà còn góp
phần vào việc hình thành ở các em có tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng
cũng như thái độ tôn trọng người đọc. Chính vì thế cha ông ta ngày xưa đã
nói: “Nét chữ-nết người”. Dạy học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp
cũng là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, kỉ luật và lòng tự trọng
đối với chính mình.
• Nếu phân môn tập đọc - học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn
tập viết sẽ giúp trẻ viết thạo. Trẻ đọc thông, viết thạo sẽ tạo hiệu quả tiếp thu
- 6 -
bài nhanh hơn, học tốt hơn. Kết quả của việc rèn chữ viết cho học sinh
không phải ngày một, ngày hai là có được. Mà đó là kết quả của một quá
trình dày công khổ luyện của cả thầy và trò, dưới sự dìu dắt, chăm sóc tận

tình của các thầy giáo, cô giáo. Chính vì những lí do trên, việc rèn chữ cho
học sinh là mối quan tâm hàng đầu đối với ngành giáo dục và toàn xã hội.
1.2. Cơ sở thực tiễn
• Tập viết là một trong những nội dung có tầm quan trọng đặc biệt ở
Tiểu học.Tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ cái Tiếng Việt và những yêu
cầu kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái đó trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa
này phân môn tập viết cung cấp cho học sinh một công cụ để các em học tập
suốt đời.
• Phân môn Tập viết có liên hệ mật thiết với các môn học khác. Trong
trường tiểu học, việc dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với dạy học
vần, chính tả, tập làm văn, việc ghi bài vào vở các môn học và nhiều trường
còn yêu cầu có vở luyện viết chữ đẹp cho học sinh. Nếu chữ viết rõ ràng
đúng mẫu viết tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện chép bài nhanh, nhờ
vậy mà kết quả học tập sẽ cao hơn. Chữ viết xấu tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng
đến một phần không nhỏ tới chất lượng học tập. Đồng thời chữ viết còn góp
phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức
tốt như tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ.
• Dạy tập viết không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ
bản về chữ viết mà còn rèn kỹ thuật viết chữ. Trong chương trình phân môn
tập viết lớp 2, về yêu cầu số bài và thời lượng: Mỗi tuần có một bài tập viết,
học trong một tiết. Trong cả năm học, học sinh được học 31 tiết tập viết.Về
nội dung: Ở lớp 2 học sinh học viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục luyện cách
- 7 -
viết các chữ viết thường và tập nối nét chữ từ chữ hoa sang chữ thường.
Chiều cao của các chữ cái viết hoa là 2,5 đơn vị; riêng hai chữ cái viết hoa y,
g được viết với chiều cao 4 đơn vị. Về hình thức rèn luyện: Trong mỗi tiết
tập viết, học sinh được hướng dẫn và tập viết từng chữ cái viết hoa, sau đó
tập viết cụm từ hoặc câu ứng dụng (có nội dung phù hợp với chủ điểm và
tương đối dễ hiểu) có chữ hoa ấy. Về kĩ năng: yêu cầu HS viết đúng quy
trình viết nét, viết chữ cái và liên kết chữ cái tạo ra chữ ghi tiếng theo yêu

cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ. Ngoài ra, giáo viên cần
rèn các kĩ năng như: tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở cho học sinh. Qua
đó ta thấy, số lượng, nội dung và hình thức như vậy là phù hợp với học sinh
lớp 2.
• Tuy nhiên, học sinh lớp 2 học môn Tập viết để viết đẹp là rất khó bởi
đa phần nhiều giáo viên chưa nắm bắt được tính chất có mục đích của việc
dạy học Tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí quan trọng của phân môn
này ở trường Tiểu học cũng như chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, rèn
luyện kĩ năng thực hành cho học sinh mà lại đi quá sâu vào việc giải thích
quy trình viết chữ nên học sinh không được luyện viết nhiều, do đó việc
luyện viết còn mang tính hình thức.
• Thực tế cho thấy việc rèn kĩ năng thực hành trong giờ tập viết có ý
nghĩa cực kì quan trọng, không những nó giúp học sinh hình thành những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp như tính cẩn thận, tính kỉ luật và khiếu thẩm mĩ
mà còn tạo cho học sinh lòng quyết tâm và tinh thần hăng say trong việc
luyện chữ. Nếu được thực hành nhiều, rèn luyện nhiều thì học sinh sẽ nhanh
chóng hình thành lòng say mê tập viết ở bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu.
• Việc rèn kĩ năng tập viết bắt đầu từ những bảng chữ cái dần dần tăng
mức độ khó là luyện viết đến từ và câu và cuối cùng là đoạn văn hoặc đoạn
thơ, kĩ năng này phải tiến hành từ thấp đến cao. Cứ luyện như vậy thì sẽ rất
- 8 -
nhanh có hiệu quả, học sinh sẽ nhanh chóng nắm bắt kĩ năng viết, viết đúng
rồi tiến tới viết nhanh, viết đẹp.
Chương 2: Thực trạng của việc dạy và học Tập viết
lớp 2 ở trường Tiểu học Lí Thường Kiệt.
2.1. Tập viết là phân môn thực hành giúp trẻ vận dụng những kiến thức
đã học vào trang giấy.
Tập viết là phân môn có tính chất thực hành. Tính chất thực hành có mục
đích của việc dạy học tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí quan trọng
của phân môn này ở trường tiểu học. Ngoài ra tập viết còn góp phần quan

trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính
cẩn thận, tính kỷ luật và khiếu thẩm mỹ.
Người ta thường nói: “Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là
được đến trường, được học đọc, học viết”. Nếu phần môn tập đọc - học vần
là nền móng giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết sẽ giúp trẻ viết
thạo, thực hành của môn tập đọc. Đọc thông, viết thạo là động lực giúp trẻ
tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn.
2.2. Thực trạng của việc rèn luyện kĩ năng thực hành trong giờ tập viết
2.2.1. Ưu điểm
• Thông qua quá trình điều tra, em nhận thấy rằng giáo viên trường
Tiểu học Lí Thường Kiệt đã nhận biết được tầm quan trọng của việc rèn kĩ
năng thực hành trong giờ tập viết cho học sinh lớp 2 nên các thầy cô thường
- 9 -
xuyên nhắc nhở học sinh ở mọi lúc mọi nơi, không chỉ ở môn tập viết mà
còn ở tất cả các môn khác, môn nào cũng cần chữ viết để ghi nội dung bài.
• Đối với các bài tập cho học sinh luyện tập, giáo viên đã chú ý
đến các chữ có nét giống nhau đồng dạng với nhau thì cùng xếp vào một
nhóm để rèn luyện. Khi hướng dẫn học sinh luyện tập, giáo viên cho học
sinh tiến hành từ thấp nên cao, tăng dần độ khó để học sinh dễ tiếp thu: viết
đúng rồi viết nhanh viết đẹp.
Ví dụ: Dựa và các nét chữ đồng dạng ta chia chữ cái viết hoa thành các
nhóm như sau:

• Trong khi học sinh viết, giáo viên kiên trì hướng dẫn tận tình, quan sát
sửa sai cho từng học sinh, cho các em luyện tập thật kỹ trước khi viết vào
vở.
• Để kĩ năng thực hành trong giờ tập viết được nâng lên các thầy cô đã
sử dụng phù hợp các hình thức luyện tập như:
• Tập viết chữ trên bảng lớp: Giáo viên thường tiến hành khi kiểm tra
bài cũ, hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp.

- 10 -
• Tập viết chữ vào bảng con của học sinh: Giáo viên cho học sinh viết
vào bảng con.Khi viết xong giơ bảng lên để kiểm tra theo lệnh của giáo viên
• Luyện tập trong vở tập viết: Giáo viên hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và
yêu cầu về kĩ năng của từng bài viết sau đó học sinh viết vào vở theo yêu
cầu của giáo viên.
2.2.2. Hạn chế
• Giáo viên cho học sinh rèn chữ với số lượng khá nhiều nhưng lặp lại
rất ít lần dẫn đến việc học sinh không nhớ được mặt chữ nên viết sai.
• Do thời gian giành cho việc luyện tập hạn chế nên còn ít giáo viên cho
học sinh viết đi viết lại nhiều lần một bài để có thể dễ dàng nhận ra lỗi sai
của mình. Chính vì vây, rất khó để nắm bắt tình hình viết chữ cũng như
nhận xét sự tiến bộ của học sinh.
• Theo mẫu hiện hành, chữ hoa tuy đẹp nhưng lại rất khó viết, các nét
chữ cong, mềm mại và thay đổi liên tục trong một con chữ. Hơn thế nữa, do
đặc điểm tâm lí của các em lớp 2 đang còn ở tuổi tiếp thu là rất chậm nên
giáo viên rất chú trọng đến việc hướng dẫn quy trình tập viết để các em có
thể nắm bắt dẫn đến thời gian giành cho việc rèn chữ là rất ít, không những
thế giáo viên ít để ý về tư thế ngồi viết cách cầm bút và để vở của học sinh
• Khi học các môn học khác, giáo viên chưa có những yêu cầu về chữ
viết của học sinh nên việc luyện tập chữ viết trong những tiết học này là rất
có hạn.
2.2.3. Một số lỗi sai học sinh thường mắc phải
Chính vì những hạn chế trên dẫn đến việc học sinh mắc phải một số lỗi sai
đáng lưu ý như:
2.2.3.1. Lỗi sai về thế chữ, hình dáng, kích thước.
- 11 -
a phn hc sinh khụng nm c chiu cao ca cỏc ch cỏi hoa Y,
G c vit vi chiu cao 4 n v. Cỏc em hay sai im un
ln nh ch M N L E

Mt s hc sinh vit sai góy nột ch, c th l: Sai cỏc nột múc xuụi,
múc ngc, nột thng v nột xiờn .
2.2.3.2. Li sai v khong cỏch
i vi nhng hc sinh vit sai khong cỏch cỏc con ch
Hc sinh khụng nm vng khong cỏch gia cỏc con ch trong
tng ting, khong cỏch gia cỏc ting trong t, trng hp vit ni khụng
thun li.
Khong cỏch cỏc nột khuyt trờn thng góy, nột ch ri v vn
nột v cỏc con ch thng b rng.
Vớ d: i vi trng hp vit ni khụng thun li
Xy ra gia mt s ch hoa ng trc khụng cú nột liờn kt v ch cỏi
thng ng sau khụng cú nột liờn kt.
Vớ d: D ; ẹ ; V ; I
ẹoỏng ẹa ,Vaứm Coỷ ẹoõng , Gia
Vieón
Do hc sinh khụng nm c yờu cu v trng hp vit ni dn n ch
vit khụng lin mch, nột ch ri v vn khụng m bo tớnh cõn i v
thm m ca ch vit.
2.2.3.3. Mt s trng hp khỏc
- 12 -

×