Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đề cương ôn thi môn Cương lĩnh chính trị có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.98 KB, 22 trang )

Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
Đề 1. Phân tích tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trả lời
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đất nước ta đắm chìm trong đêm trường nô lệ. Trước tình cảnh ấy, nhân dân ta đã
phát huy truyền thống yêu nước từ bao đời để lại đứng dậy tiến hành nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và
bè lũ tay sai giành độc lập, tự do cho nhân dân nhưng đều thất bại. Nhiều chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh đã xuất dương tìm đường cứu nước nhưng vẫn không tìm ra được một con đường mang lại hiệu quả
đích thực.
Sang đầu thế kỷ XX, đời sống các tầng lớp nhân dân càng bị bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa
chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ càng gay gắt. Đây là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển
của xã hội Việt Nam.
Trước thực tế ấy, ngày 5/6/1911, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, người con xứ Nghệ, mới 21 tuổi đã quyết
định ra đi tìm đường cứu nước.
Năm 1920, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc được đọc bản sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lênin. Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân
tộc và tự do cho đồng bào-con đường cứu nước theo lập trường giai cấp vô sản.
Ngày 6/1/1930, Hội nghị hợp nhất Đảng bắt đầu họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) do Nguyễn
Ái Quốc chủ trì. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí với ý kiến của Nguyễn Ái Quốc là thống nhất các tổ chức cộng sản
thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của
Đảng… do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, có giá trị lí luận thực tiễn và lâu
dài đối với cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là một cương lĩnh giải phóng dân tộc
sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh được thể
hiện ở những vấn đề sau:
- Về cơ sở lí luận: Cương lĩnh được xây dựng trên nền tảng lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, một hệ thống
lí luận tiến bộ, đúng đắn và khoa học.
- Cương lĩnh xác định đường lối chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
Cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng đó kế tiếp nhau, không có
bức tường nào ngăn cách. Qua đó cho thấy rằng, ngay từ đầu, Đảng Cộng sản việt Nam đã thấu suốt con đường


phát triển tất yếu của cách mạng nước ta là con đường kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Đây là điều hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta. Đồng thời,
chúng ta cũng thấy được sự vận dụng hợp lí và sáng tạo lí luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác –
Lênin.
- Cương lĩnh chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn
phong kiến và phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do; lập chính phủ công nông binh; tổ chức
quân đội công nông, tịch thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc; tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản cách
mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất, Điều này cũng thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo
của Cương lĩnh. Tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh thể hiện ở chỗ Cương lĩnh đã giải quyết đúng hai mâu
thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam.
Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược; mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi phải giải
quyết thành công hai mâu thuẫn đó, nghĩa là hoàn thành hai nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã đề ra.
- Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trên, Cương lĩnh đã đề cao vấn đề dân tộc (chống đế quốc) lên trên vấn
đề giai cấp (chống phong kiến) là đúng đắn, sáng tạo vì xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên,
nhưng mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp) là mâu thuẫn bao trùm, chi phối
các mâu thuẫn khác. Vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc nhất.
Cương lĩnh chính trị 1
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
- Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh xác định ngoài giai cấp công nhân và nông dân thì cách mạng Việt
Nam “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm
cho họ trung lập”. Như vậy, ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng, Cương lĩnh chủ
trương phải tranh thủ cả các lực lượng khác như tư sản dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu nước. Điều đó hoàn toàn
phù hợp với thực tế lịch sử Việt Nam vì ngoài công nhân và nông dân, các giai cấp và tầng lớp khác cũng có những
bộ phận yêu nước cần phải tranh thủ lợi dụng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng
dân tộc của Cương lĩnh, một điều hoàn toàn đúng đắn và hợp lí.
- Cương lĩnh đã xác định đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng: Cách mạng muốn thắng lợi
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân. Bởi vì, giai cấp công nhân là giai
cấp tiến bộ nhất và cách mạng nhất. Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân.

- Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đây cũng là một nội
dung thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Vì giai cấp tư sản ở các nước trong thực tế đã câu kết với
nhau để đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Cho nên, cách mạng ở các nước
thuộc địa muốn thắng lợi thì nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết lại với nhau và đoàn kết với giai cấp vô
sản thế giới.
Tóm lại, Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là Cương lĩnh
cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác –
Lênin, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn; trong đó, độc lập dân tộc và tự do là tư tưởng cốt lõi. Nó đặt cơ sở
cho Đảng ta kế thừa và hoàn chỉnh đường lối lãnh đạo cách mạng nước ta trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
C2:Tính đúng đắn,sang tạo của dg lối kc chống Pháp & Mĩ:
A,pháp:
Chiến tranh là thử thách lớn đối với mỗi quốc gia dân tộc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Thử thách đó
càng lớn hơn nhiều với nước ta vào cuối nǎm 1946. Nền độc lập mới gình lại được 16 tháng, chính quyền chưa
được củng cố vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nên các mặt đời sống xã hội chưa thật sự ổn đinh, mà
dân tộc ta đã phải đương đầu với cuộc chiến tranh trên quy mô toàn quốc.
Nhân dân ta muốn hoà bình, ta đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp càng lấn tới, buộc nhân dân ta phải cầm
súng để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám 1945. Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946,
cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ.
3- Xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc
Nhân tố đầu tiên quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là Đảng ta có đường lối kháng
chiến đúng đắn ngay từ đầu. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (22-12-1946), Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chi Minh (20-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng bí
thư Trường Chinh (9-1947) là những vǎn kiện có tính cương lĩnh chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến.
Thời điểm ra đời của các vǎn kiện trên tự nói lên ý nghĩa vô cùng quan trọng của đường lối kháng chiến. Trong tình
thế của ta "bị đặt trước hai đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy
tự do và độc lập, Chúng ta đã chọn con đường thứ hai: "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ". Đây chính là cơ sở, là điểm xuất phát của đường lối kháng chiến, nguồn gốc của
thắng lợi sau này. Nhận thức đúng tương quan lực lượng và xu thế tất thắng của ta, phát hiện những vấn đề có tính
quy luật của chiến tranh nhân dân là một thành công lớn về chỉ đạo chiến tranh của Đảng.
Trước hết, Đảng chỉ rõ kẻ thù chính của ta là bọn thực dân phản động Pháp đang dùng vũ lực cướp lại nước ta. Xác

định chính xác đối tượng chủ yếu của kháng chiến là vấn đề chiến lược quan trọng, cơ sở để tập hợp và xây dựng
lực lượng.
Mục đích của kháng chiến là giành độc lập tự do, thống nhất thật sự cho Tổ quốc, thực hiện giải phóng dân tộc và
phát triển chế độ dân chủ nhân dân. Tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến là vì dân tộc độc lập và dân chủ tự
Cương lĩnh chính trị 2
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
do.
Mục đích và tính chất của cuộc kháng chiến thể hiện rõ quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng. Hình thức là đối
đầu quân sự với thực dân Pháp xâm lược, nhưng thực chất là tiếp tục những nhiệm vụ của Cách mạng tháng Tám.
Tính chất triệt để và sức mạnh bên trong của kháng chiến là do tính triệt để và sự phát triển tất yếu của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân quy định. Giành độc lập dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội đã quy định đường lối kháng chiến là chiến tranh nhân dân, là phát huy sức mạnh tổng hợp của
dân tộc và thời đại, là "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", tự lực tự cường kết hợp với đoàn kết quốc tế.
Phương châm của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Thực hiện phương
châm đó Đảng ta đã sử dụng được sức mạnh mọi mặt của toàn dân để khắc phục những khó khǎn ban đầu tưởng
chừng như không vượt nổi, đồng thời khai thác được sức mạnh của truyền thống, của chính nghĩa chống chiến
tranh phi nghĩa. Do đó, nước ta từ một nước có nền kinh tế lạc hậu, khó khǎn, thiếu thốn, tiến lên tự cung tự cấp đủ
sức kháng chiến; có đội quân du kích phân tán xây dựng được lực lượng vũ trang với ba thứ quân; có chính quyền
non trẻ xây dựng thành chính quyền nhân dân có uy tín và hoạt động có hiệu lực; và có một nền vǎn hoá với 90% số
dân mù chữ trở thành một nền vǎn hoá kháng chiến và cách mạng.
Phương pháp cách mạng trong kháng chiến là xây dựng và sử dụng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân
để đánh thắng chiến tranh xâm lược. Đó là sức mạnh của đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, lấy
đấu tranh vũ trang là chủ yếu, là kết hợp vận động ngụy quân với nổi dậy phá tề trừ gian làm tan rã nguy quyền ở
cơ sở. Đó là sức mạnh của du kích chiến tiến lên vận động chiến và phối hợp các hình thức tác chiến đó. Đó là sức
mạnh của hậu phương kết hợp với tiền tuyến, của chiến trường chính với các chiến trường phối hợp, của nông thôn
với thành phố.
Để thực hiện đường lối kháng chiến đúng đắn trong thực tiễn, Đảng đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng Đảng
về tổ chức và tư tưởng. Trong điều kiện chiến đấu ngày càng ác liệt liên lạc gặp nhiều khó khǎn, Đảng chủ trương
xây dựng các "chi bộ tự động công tác", phát huy tính chủ động sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp bộ
đảng ở các khu, tỉnh, thành v.v Tǎng cường quyền hạn cho Uỷ ban kháng chiến khu. Khi mất liên lạc, Uỷ ban kháng

chiến khu có toàn quyền điều khiển mọi mặt hoạt động ở địa phương theo đường lối của Đảng. Tǎng cường lực
lượng lãnh đạo, Đảng quyết định phát triển "lớp đảng viên tháng Tám", kết nạp công nhân, nông dân, trí thức ưu tú
và thanh niên dũng cảm trong quân đội. Sức chiến đấu của Đảng được tǎng cường ở nông thôn, các đơn vị quân đội
và các ngành công tác của chính quyền, các xí nghiệp nhà nước hầu hết có chi bộ. Đến nǎm 1949, Đảng ta đã có hơn
70 vạn đảng viên. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển Đảng, có nhiều trường hợp không nắm chắc tính giai cấp
của Đảng, không thấu suốt tiêu chuẩn đảng viên, chưa coi trọng giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa cộng
sản.
Để làm tròn sứ mệnh lãnh đạo kháng chiến, Đảng luôn luôn nhất mạnh việc củng cố Đảng và tǎng cường giáo dục
đảng viên. Nǎm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các đồng chí Bắc Bộ, Trung Bộ và viết cuốn Sửa đổi lối làm
việc. Trong các tài liệu này, Người nhấn mạnh việc giáo dục đạo đức cộng sản, bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm,
liêm, chính chí công vô tư, và phương pháp công tác cho đảng viên, chống các biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, chủ
quan, công thần, ích kỷ, hẹp hòi, xa rời quần chúng.
Việc đấu tranh với những tư tưởng sai lầm trong cán bộ, đảng viên, đấu tranh với những biểu hiện hữu khuynh
trong Đảng là một yêu cầu cấp thiết. Trong thư gửi các đông chí Bắc Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Trong
lúc này tư tưởng và hành động của mỗi đông chí rất có quan hệ đến toàn quốc. Nếu một người sơ suất, một việc sơ
suất là có thể hỏng việc to, sai một ly đi một dặm".
Trước những thiếu sót của cán bộ, đảng viên, việc chỉnh đốn Đảng là cân thiết, là đúng. Củng cố phải đi đôi với phát
triển, củng cố để phát triển và phát triển nhằm củng cố Đảng.
Nhưng, tháng 9-1950, Đảng quyết định tạm ngừng phát triển Đảng để củng cố. Chủ trương này được thực hiện một
cách nhất loạt và kéo dài. Việc đóng cửa Đảng vào lúc kháng chiến đang quyết liệt và quần chúng đã được thử
thách qua chiến đấu nên có ảnh hưởng lớn đến sự lãnh đạo của Đảng. Trong khi đó, thắng lợi về mặt ngoại giao và
sự phát triển của chiến tranh du kích đã làm cho một số cán bộ, đảng viên có nhận thức lệch lạc về tình hình, nóng
vội muốn giành thắng lợi ngay. Có nơi động viên nhân tài vật lực quá mức, ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của
nhân dân; khi thực hiện chủ trương "chuẩn bị để chuyển mạnh sang tổng phản công", không chú ý đây đủ đến việc
bảo vệ cơ sở đảng và cơ sở quần chúng trong thành phố.
Trung ương Đảng kịp thời uốn nắn những tư tưởng và hành động sai lệch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư phê bình
cán bộ liên khu IV sai lầm trong việc thực hiện chính sách động viên. Tổng bí thư Trường - Chinh viết bài: Nhận định
đúng, hành động đúng, phê phán tư tưởng nóng vội và tư tưởng bi quan ngại khó, đồng thời vạch ra phương
Cương lĩnh chính trị 3
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh

hướng đúng về xây dựng lực lượng vũ trang, về tổng động viên, về công tác vùng sau lưng địch.
Đến nǎm 1951, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến quan trọng, đặt ra những yêu cầu cấp bách,
đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn để đưa cách mạng tiến lên. Từ sau Cách mạng
tháng Tám, một số vấn đề cơ bản về chiến lược, sách lược cần phải xác định. Cuộc kháng chiến trong thời kỳ mới
đặt ra nhiều vấn đề lớn: tổ chức hậu phương, bảo đảm tác chiến tập trung trên quy mô lớn, nâng cao sức chiến đấu
của bộ đội, tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với kháng chiến và xây dựng Đảng trong tình hình mới. Những
vấn đề ấy được làm rõ trong Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ II của Đảng tháng 2-1951.
Nội dung quan trọng của Đại hội là xác định mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới và
hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời, đề ra hai nhiệm vụ cụ thể có quan hệ chặt
chẽ với nhau là đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động
Việt Nam.
Đại hội khẳng định tư tưởng chiến lược là nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc va chủ nghĩa xã hội đã nêu trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1980) là đúng đắn. Đại hội đã phát triển và cụ thể hoá tư tưởng chiến lược đó theo
hướng: "Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, do nhân dân lao động làm động lực, cách mạng đó không chỉ giải
quyết những nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến, mà còn phát triển chế độ dân chủ nhân dân một cách mạnh mẽ,
đông thời gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội" Đại hội cũng xác định
phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam đại thể qua ba giai đoạn: độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và
chủ nghĩa xã hội. ở giai đoạn đầu, nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm cả nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản
phong kiến. Sự "mô hình hoá" và sự khẳng định nguyên tắc chỉ đạo chiến lược trên đánh dấu bước tiến mới của
Đảng về nhận thức quy luật cách mạng ở nước thuộc địa nửa phong kiến, giải quyết đúng mối quan hệ có tính quy
luật giữa nhiệm vụ trước mắt và xu hướng tiến lên của cách mạng.
Đại hội cũng thảo luận và quyết định những nội dung cơ bản về xây dựng và củng cố chính quyền, quân đội, mặt
trận dân tộc thống nhất, phát triển kinh tế, vǎn hoá, nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến giành thắng lợi.
Sau thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng và sự giúp đỡ quốc tế có mạnh hơn trước, trong
Đảng ta xuất hiện một số nhận thức không đúng như ỷ lại vào bên ngoài, hoặc lạc quan tếu, muốn thắng nhanh,
không thấy hết tính phức tạp, trường kỳ, gian khổ của cuộc kháng chiến. Để uốn nắn những nhận thức sai, nâng
cao tinh thần tự lực tự cường, nǎm 1952, Đảng tổ chức "Cuộc vận động chỉnh Đảng". Đây là một cuộc đấu tranh
phê bình và tự phê bình nghiêm túc nhằm thống nhất nhận thức, đoàn kết nội bộ, xây dựng tư tưởng tự lực tự
cường, kháng chiến lâu dài trong cán bộ, đảng viên, làm rõ yêu cầu giữa vấn đề dân tộc và dân chủ. Nhưng trong tổ
chức cuộc vận động chỉnh Đảng cũng đã mắc một số khuyết điểm.

Thiếu sót của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là tuy có nêu vấn đề thực hiện từng bước chính sách
ruộng đất, nhưng không khẳng định chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất nguy trong kháng chiến khi yêu cầu
của cuộc kháng chiến đặt ra. Để khắc phục thiếu sót đó, tháng 11-1953, Đảng ban hành cương lĩnh ruộng đất và
quyết định tiến hành cải cách ruộng đất trong vùng tự do.
Cương lĩnh ruộng đất và chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến là đúng, đã thúc đẩy cuộc
kháng chiến phát triển mạnh mẽ. Nhưng trong khi tổ chức thực hiện, ta đã mắc sai lầm giáo điều, rập khuôn, mở
rộng diện đấu tranh quá mức.
Quá trình xây dựng Đảng trong kháng chiến tuy còn một số thiếu sót, khuyết điểm, nhưng trên cơ sở đường lối
chính trị đúng đã làm tốt công tác tổ chức và công tác tư tưởng của Đảng xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ
kháng chiến kiến quốc, thực sự là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến.
B,Mĩ:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành được thắng lợi
hoàn toàn. Thắng lợi đó đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối chính trị, đường lối quân sự
độc lập, tự chủ của Đảng ta.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bền bỉ và anh dũng của nhân dân Việt Nam đã giành được thắng
lợi, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước. Thế nhưng, sau ngày Hiệp định được ký kết, đế quốc Mỹ đã gạt thực dân Pháp, trực tiếp viện trợ và
giúp chính quyền Sài Gòn xây dựng quân đội, hòng biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ
quân sự của Mỹ, chia cắt lâu dài Việt Nam, ngăn chặn ảnh hưởng của CNXH xuống Đông Nam Á, răn đe phong trào
giải phóng dân tộc đang trên đà phát triển.
Cương lĩnh chính trị 4
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
Do âm mưu, hành động phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước của nhân dân ta phải trải qua chặng đường dài 21 năm (1954-1975), với vô vàn gian khổ, hy sinh, khó
khăn, phức tạp.
Đặc điểm lớn, bao trùm và xuyên suốt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là: đất nước bị chia cắt
làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập. Quá trình Đảng ta đề ra và thực hiện đường lối chiến lược,
phương hướng đấu tranh cho cách mạng cả nước cũng như cho mỗi miền, đều chịu sự tác động và chi phối của đặc
điểm này. Nước ta, đất không rộng, kinh tế chưa phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; tiến hành Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta phải đương đầu với một tên đế quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự to

lớn, đang ráo riết thực hiện âm mưu thống trị thế giới. Trong lúc đó, hệ thống XHCN, quan hệ giữa các nước lại
đang diễn biến phức tạp; sự xuất hiện các khuynh hướng của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi, sô vanh là những trở ngại, tác động tiêu cực tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Trung thành vô hạn với Tổ quốc, với nhân dân; kiên định lập trường cách mạng; trên cơ sở đánh giá đúng
bản chất, âm mưu và hành động của kẻ thù; đánh giá lực lượng so sánh đôi bên với quan điểm cách mạng và khoa
học; bám sát diễn biến thực tế của tình hình chiến trường trong nước, khu vực và thế giới; vững tin vào lòng yêu
nước và sức mạnh to lớn của nhân dân, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo
để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến hành sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc,
thống nhất Tổ quốc. Đường lối ấy của Đảng không ngừng được bổ sung, ngày càng hoàn chỉnh, là nhân tố quyết
định sự phát triển của cuộc kháng chiến, đánh bại mọi âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù xâm lược.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc; kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng trong mối tương quan biện chứng giữa hai
chiến lược cách mạng đó nhằm tạo ra và nhân lên sức mạnh tổng hợp to lớn của cả nước đánh giặc. Đây là nét đặc
thù nổi bật của cách mạng Việt Nam từ tháng 7-1954 đến tháng 5-1975. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, CNXH được xây dựng trên miền Bắc là sức mạnh hiện thực đảm bảo cho miền Bắc có đủ điều kiện cùng một
lúc vừa chi viện toàn diện, liên tục, ngày càng tăng cường sức người, sức của cho cách mạng miền Nam, vừa giữ
vững sản xuất, đương đầu, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Đó là
sức mạnh của độc lập dân tộc, của tình cảm Bắc - Nam một nhà. Sức mạnh của cách mạng miền Nam, trước hết là
sức mạnh của độc lập dân tộc, đồng thời là sức mạnh của CNXH. Đồng bào, chiến sĩ miền Nam chiến đấu không chỉ
để giải phóng miền Nam mà còn để bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta chỉ rõ: tiến hành
cách mạng XHCN ở miền Bắc và đấu tranh đánh đổ ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam là hai
nhiệm vụ thuộc hai chiến lược cách mạng khác nhau, giải quyết những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền, nhưng lại
gắn bó chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển trong một thể thống nhất nhằm giải quyết mâu
thuẫn bao trùm: giữa dân tộc Việt Nam và kẻ thù xâm lược cùng chính quyền và quân đội tay sai của chúng. Trong
thực hiện hai chiến lược cách mạng đó, ở mỗi miền, Đảng ta chỉ rõ: cách mạng XHCN ở miền Bắc gắn bó chặt chẽ
với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ sự nghiệp cách mạng cả nước, đối với cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà; cách mạng miền Nam có vị trí rất
quan trọng, có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Với việc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng ta đã động viên và tập hợp một cách rộng rãi,

vững chắc mọi lực lượng dân tộc vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Thực tế 21 năm của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước đã chứng tỏ đường lối chiến lược đó của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo; đảm bảo cho cuộc
chiến đấu của toàn quân và toàn dân ta trên khắp hai miền giành thắng lợi ngày càng to lớn và toàn diện, đánh bại
các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và lần thứ
hai của không quân, hải quân Mỹ trên vùng trời, vùng biển miền Bắc, giành thắng lợi từng bước, tiến lên đánh bại
hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH không chỉ là ánh sáng soi đường cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mà còn là điều kiện để kết hợp lợi ích cơ bản của dân tộc ta với những
mục đích của thời đại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Nói cách khác, thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nghĩa vụ dân tộc
và nghĩa vụ quốc tế cao cả, trong sáng. Đây là một nội dung quan trọng của đường lối kháng chiến của Đảng ta và
là điều kiện cơ bản tạo ra thế và lực mới, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đến thắng lợi. Đương đầu với
cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của một cường quốc giàu có hơn ta gấp nhiều lần về quân sự, kinh tế;
trong khi, đặc biệt nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tinh thần độc lập tự chủ của mọi người Việt Nam yêu nước; xem
đó là nội lực, là nhân tố quyết định cơ bản nhất, làm nên sức mạnh đánh thắng quân xâm lược, Đảng ta đồng thời
khẳng định phải kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc
tế. Xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không tách rời của cách mạng thế giới; đặt cách mạng và chiến
tranh cách mạng Việt Nam trong cục diện chung của thế giới, trong xu thế chuyển biến của thời đại, trong lãnh đạo
và chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã gắn liền việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược,
sách lược của cách mạng với việc đề ra mục tiêu, phương hướng, đường lối, chính sách đối ngoại; chiến lược, sách
lược đấu tranh, tập hợp lực lượng, xây dựng, củng cố nền tảng chính sách đối ngoại và nền ngoại giao của ta, chủ
Cương lĩnh chính trị 5
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
động tiến công địch trên chính trường quốc tế. Trên thực tế, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng,
Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện thành công đường lối quốc tế, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, mà nội dung
cốt lõi là phát triển liên minh chiến đấu và giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân ba nước Đông Dương; đoàn kết chặt
chẽ với lực lượng cách mạng trên thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ; lấy việc đoàn kết, liên minh với Liên Xô, Trung
Quốc làm hạt nhân; trên cơ sở đó, hình thành và phát triển một mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ sự
nghiệp kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn đánh thắng chiến tranh xâm
lược của kẻ thù.

Để biến đường lối trên đây thành hiện thực, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải tìm ra phương pháp đúng
đắn, hiệu quả, phù hợp; phải cụ thể hóa đường lối đó thành các giải pháp cơ bản thích ứng với từng giai đoạn
kháng chiến ở mỗi miền. Đảng ta đã xác định: sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp bao gồm lực lượng chính trị
của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện trên cả
nước. Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân,
toàn dân, toàn diện; của nghệ thuật chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân tài tình, sắc sảo của Đảng ta. Kế thừa
thành quả và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phát huy tinh hoa truyền thống quân
sự độc đáo của dân tộc, chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được phát triển lên
một tầm cao mới với nội dung và hình thức đấu tranh hiệu quả và phong phú. Lực lượng tiến hành chiến tranh là
toàn dân đánh giặc, gồm lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt và lực lượng chính trị của quần
chúng; vừa là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, vừa là chỗ dựa vững chắc để lực lượng vũ trang tác
chiến, đồng thời phối hợp với lực lượng vũ trang tiến công, phản công quân địch Phương thức tiến hành chiến
tranh nhân dân là cả nước tổ chức thành một mặt trận rộng lớn, mỗi người dân yêu nước là một chiến sĩ, mỗi làng
xã, đường phố là một pháo đài; phát huy sức mạnh tổng hợp của sự kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
trang trên ba vùng chiến lược, đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận, kết hợp đấu tranh quân sự,
chính trị với đấu tranh ngoại giao, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp tiêu diệt địch với
giành và giữ vững quyền làm chủ, chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh nhân dân địa
phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực
Thực tế 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho thấy, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện, quân và dân ta trên khắp chiến trường đã tiến công địch bằng nhiều hình thức, bằng mọi vũ khí có trong tay,
bằng nhiều mưu kế sáng tạo, mọi nơi, mọi lúc, cả trên bộ, trên không, trên sông, trên biển; tiền tuyến và hậu
phương. Trong cuộc chiến đấu đó, quân và dân ta luôn phát huy mạnh mẽ tư tưởng chiến lược tiến công, luôn tìm
mọi cách giành và giữ quyền chủ động chiến trường, hãm địch trong thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp và
hiểm hóc, buộc chúng bị căng kéo, chia cắt, dàn mỏng lực lượng, tạo điều kiện cho chủ lực của ta tập trung lực
lượng tiến hành các cuộc tiến công trên những hướng chiến lược trọng yếu gây tác động mạnh, làm chuyển biến
cục diện chiến trường, giành thắng lợi từng bước, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, từ đó giành thắng lợi
hoàn toàn.
Đường lối chính trị, quân sự của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả của cả một
quá trình tìm tòi, tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi, rộng khắp, liên tục, mạnh mẽ trên mọi
miền đất nước trong những tháng năm toàn dân tộc đồng lòng đánh Mỹ dưới ngọn cờ của Đảng. Đường lối đó đáp

ứng đòi hỏi bức xúc của cách mạng Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trước thử thách ngặt nghèo của lịch sử; đáp
ứng khát vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Đó chính là nhân tố cốt lõi tạo nên sức mạnh vô địch của chiến
tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; là nhân tố mang ý nghĩa quyết định nhất trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay.
Đổi mới tư duy lý luận về kinh tế của đảng trong thời kỳ hội nhập
Qua 25 năm, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đạt được những thành tựu như ngày hôm nay là nhờ có Đảng lãnh
đạo và do Đảng đã luôn luôn chủ động, sáng tạo trong đổi mới tư duy về kinh tế. Đường lối và chính sách đổi mới từ
Đại hội VI (1986) của Đảng đã đặt cơ sở, nền tảng ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước
ta. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy về kinh tế, đột phá khẩu cho đổi
mới các lĩnh vực tiếp theo. Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi phải xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy chúng ta cần phải tiếp tục đổi
mới mạnh hơn nữa tư duy kinh tế cho phù hợp với điều kiện của đất nước, xu hướng phát triển của thế giới và của
thời đại.
Bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi đầu
đổi mới tư duy kinh tế là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước. Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến nay đã
Cương lĩnh chính trị 6
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ có hai thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Qua quá trình phát triển nhận thức, cũng như tư
duy lý luận về các thành phần kinh tế ngày một hoàn chỉnh, đến Đại hội X của Đảng, nền kinh tế nước ta được xác
lập gồm 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư hữu tư nhân),
kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài(*). Sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng không chỉ
dừng lại ở việc xác định số lượng các thành phần kinh tế tồn tại trong nền kinh tế, mà còn xác lập đúng vị trí, vai trò
của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về các
thành phần kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức trong toàn xã
hội phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước,
đồng thời nó là động lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi
mới tư duy kinh tế về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần còn góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thông qua tính dân chủ trong hoạt động kinh tế, mọi cá nhân đều có quyền tổ
chức hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách bình đẳng theo pháp luật.
Qua hơn 25 năm đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng hoàn thiện hơn. Nếu ở Đại hội VI,
Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội thì đến Đại hội
VII và Đại hội VIII Đảng đã khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội IX tiếp tục đánh dấu thêm một bước phát triển mới trong đổi mới tư duy lý luận kinh tế của Đảng, đã
xác định: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội X làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường,
nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại
hình thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ
chức sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế không chỉ độc tôn bàn tay kế hoạch của Nhà nước, mà phải được vận hành
bởi hai bàn tay: thị trường và Nhà nước. Thực hiện cơ chế thị trường đã khuyến khích sự làm giàu hợp pháp, tháo
gỡ sự kìm hãm sản xuất và lưu thông. Cơ chế thị trường cũng đã góp phần phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng,
các khu vực trong nước, giữa thành thị và nông thôn, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi,
cải thiện đời sống nhân dân. Sự phá bỏ độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế, các doanh nghiệp phát huy tính năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quá trình đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế thật sự bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội VI
của Đảng khởi xướng. Đến Đại hội VII, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được khẳng định là chủ trương lớn, chủ
đạo của đường lối đổi mới của nước ta. Đại đội IX của Đảng đã khẳng định chủ trương: Phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và
bền vững. Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại thành tựu to lớn cho đất nước.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức kinh tế, tiền tệ thế giới như Ngân hàng thế giới (WB),
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông - Nam Á (ASEAN)
năm 1995 và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; tham gia sáng lập diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)
năm 1996; gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998 và đặc biệt năm 2007
trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao
vây, cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế của các thế lực thù địch. Hiện chúng ta đã có quan hệ thương mại
với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định thương mại với gần 100 quốc gia và có thỏa thuận về đối xử tối
huệ quốc với 81 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước đã từng là thù địch

chống nước ta, đều coi Việt Nam là đối tác tin cậy, là thị trường giàu tiềm năng và ổn định, là nơi đầu tư hết sức lý
tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài, không ít quốc gia lớn, có tiềm lực kinh tế xem Việt Nam là đối tác kinh tế
chiến lược. Những thành tựu đạt được trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng trong thời gian qua là hết sức to lớn,
có thể ví như một cuộc cách mạng thật sự về kinh tế đối với nước ta. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thành tựu
bước đầu, để đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” việc tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ tư duy lý luận về kinh tế của Đảng đang là đòi hỏi khách quan với các yếu tố cơ bản sau:
Cương lĩnh chính trị 7
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
Một là, sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là sử dụng có hiệu quả tri thức và
những sáng tạo mới của con người để đẩy nhanh tốc độ đổi mới sản phẩm và công nghệ. Dưới quan điểm về kinh tế
phát triển, kinh tế tri thức là kinh tế trong đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức, là động lực chủ yếu nhất
của tăng trưởng, tạo ra của cải, việc làm trong tất cả các ngành kinh tế và là nền kinh tế mở ra khả năng phát triển
bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế tri thức là điều kiện thuận lợi, là phương tiện để các quốc gia
tăng tốc phát triển kinh tế. Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, một mặt tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận những
thành tựu của nhân loại, mặt khác nó buộc chúng ta phải đổi mới tư duy trong ban hành và tổ chức thực hiện chính
sách kinh tế.
Hai là, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện hết sức thuận
lợi để các quốc gia đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng tạo nên những thách thức không nhỏ đối
với các quốc gia. Toàn cầu hóa tạo điều kiện giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia, trên cơ sở đó các quốc gia có thể
tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại để phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Nó là quá trình vừa hợp
tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp để tồn tại, đặc biệt là đấu tranh giữa các nước đang phát triển để bảo
vệ lợi ích của mình, trong đó có Việt Nam. Toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia thực hiện công
cuộc cải cách của mình, đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể
chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô. Toàn cầu hóa tạo dựng các nhân tố mới và
điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng
cao của lực lượng sản xuất, là điều kiện để khơi thông các nguồn lực trong và ngoài nước, mở rộng thị trường,
chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên toàn cầu hóa cũng tạo ra nhiều thách thức không nhỏ
đối với các quốc gia, nhất là những quốc gia đang phát triển. Do vậy, để khỏi bị gạt ra ngoài lề phát triển của thế
giới và hội nhập kinh tế quốc tế thành công thì chúng ta phải tiếp tục đổi mới trong nhận thức, trong tư duy về kinh
tế.

Ba là, năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn yếu. Một trong những thách thức lớn nhất
đối với Việt Nam hiện nay trong hội nhập kinh tế quốc tế là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, sản phẩm và quốc
gia còn yếu, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào lợi thế lao động rẻ và tài nguyên. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế
thế giới (WEF) thì Việt Nam vẫn nằm trong số 60 nước có môi trường kinh doanh khó khăn nhất; đánh giá của
WEF, Ngân hàng thế giới và Công ty tài chính quốc tế về năng lực cạnh tranh toàn cầu thì năm 2006, 2007 Việt
Nam xếp hạng 77/125 quốc gia, tụt 3 bậc so với năm 2005. Nguyên nhân của tình trạng này là do chúng ta chậm
đổi mới về tư duy kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Sự đổi mới không theo kịp với xu hướng phát
triển của thời đại đã làm kìm hãm phát triển của doanh nghiệp và quốc gia. Thời gian qua, chúng ta chỉ tập trung
vào các nhân tố bên trong, dựa vào nội lực là chính, chưa thật sự đánh giá đúng vai trò, cũng như sức ép từ các
nhân tố bên ngoài trong phát triển kinh tế. Doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm đến hội nhập, chưa thật sự chủ
động thay đổi tư duy, cách thức tổ chức cho phù hợp với điều kiện mới của môi trường cạnh tranh quốc tế. Trong
hơn 25 năm đổi mới, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu kinh tế hết sức ấn tượng, song khách quan mà
nói nền kinh tế nước ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, đổi mới tư duy về kinh tế chưa theo kịp với sự biến đổi
nhanh chóng của thời đại, nhất là những thay đổi của nhân loại mang tính đột phá như công nghệ thông tin, kinh tế
tri thức, công nghệ sinh học, mô hình phát triển kinh tế. Việt Namcũng đã có những thứ hạng đáng kể về xuất khẩu
một số mặt hàng và thu hút đầu tư, song nếu phân tích, đánh giá một cách khách quan thì chưa thật sự tương xứng
với tiềm năng, thế mạnh của đất nước. Vì vậy, chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế để tiếp tục cải thiện
vị thế của mình trong cộng đồng kinh tế quốc tế.
Bốn là, những bất cập của thực tiễn cuộc sống. Sự phát triển kinh tế trong thời gian qua, đặc biệt là sự tăng lên
mạnh mẽ số lượng các doanh nghiệp và huy động vốn đầu tư đang gặp những rào cản. Đó là tình trạng ban hành
chính sách kinh tế chưa phù hợp với thực tế, còn có những bất cập trong việc ban hành và thực thi chính sách, nhất
là chính sách đất đai và tín dụng. Môi trường kinh doanh chưa thật sự thuận lợi. Hiện nay, tiềm lực nội tại của nền
kinh tế nước ta vẫn còn rất lớn, nguồn vốn trong dân còn nhiều nhưng chưa được sử dụng vào đầu tư phát triển
kinh tế. Trong một số khu vực kinh tế đã có dấu hiệu chững lại. Sự phát triển kinh tế đang kéo theo nhiều vấn đề cần
phải giải quyết như khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, tài nguyên và môi trường bị ảnh hưởng nặng nề, năng
suất lao động và hiệu quả kinh tế còn thấp, chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao
Cương lĩnh chính trị 8
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
C?: Kinh tế thị trường định hướng XHCN:
1- Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trình độ phát triển nhất định của

văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định
sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường
để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy
lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai
đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái,
có khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các
vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và
người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển trong
quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại vi”. Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các
nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Chính vì thế mà, như C. Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường chỗ cho một phương
thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự
điều chỉnh, tự thích nghi bằng cách phát triển “nền kinh tế thị trường hiện đại”, “nền kinh tế thị trường xã hội”, tạo
ra “chủ nghĩa tư bản xã hội”, “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “nhà nước phúc lợi chung”…, tức là phải có sự can thiệp
trực tiếp của nhà nước và cũng phải chăm lo vấn đề xã hội nhiều hơn, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của
nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn
mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến
hóa để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hóa. Đây là tất yếu khách quan, là
quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
2 – Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những
khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản
xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại,
chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và
đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp
dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã
không thành công.

Thực ra, khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười,
V.I.Lê-nin cũng đã từng chủ trương không áp dụng mô hình kinh tế thị trường mà thực hiện “chính sách cộng sản
thời chiến”. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Người đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng vội bằng cách
đưa ra thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng
hóa, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường. Theo V.I.Lê-nin, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn
tương đối lạc hậu về kinh tế như nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ và phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất. Tuy chỉ mới
thực hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đã đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi phục và phát triển
nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng, tư
tưởng của V.I.Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp tục thực hiện sau khi
Người qua đời. Sự thành công và sự phát triển mạnh mẽ suốt một thời gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc
công nghiệp hóa đất nước bằng mô hình kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế hoạch hóa tập
trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường bị loại bỏ đã có sức
Cương lĩnh chính trị 9
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
hấp dẫn lớn đối với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển
tuyệt đối hóa, biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới lý luận ở một số nước cũng cảm thấy có
cái gì “chưa ổn”, cũng đã đưa ra những kiến nghị, những đề xuất, đại loại như quan điểm “chủ nghĩa xã hội thị
trường”,… nhưng không được chấp nhận.
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của mô hình kinh tế Xô-viết bộc lộ ra rất rõ cộng
với sự yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Một số người lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà
nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “tư duy chính trị mới”,
họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng cực đoan, phiến diện (ở đây chưa nói tới sự phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa
của họ và sự phá hoại thâm hiểm của các thế lực thù địch), dẫn tới sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào cuối những năm
80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường,
mặc dù những khuyết tật đó không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự sụp đổ.
3 – Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng

nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng
ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và
cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã
áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này
đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng
về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên
nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng
vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm
thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con
đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán
triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã
hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử
nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều
năm.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế
hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là
chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của
Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã
hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ

chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính
thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị
Cương lĩnh chính trị 10
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực
tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế
thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự
khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái
phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện
và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư
bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn
là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn
minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội
hóa lao động, cải tiến kỹ thuật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu
cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực
của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo
quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát
triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam.

Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một
kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân
phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng
kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc
lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Cương lĩnh chính trị 11
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang
trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế
độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật
của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất
nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm

của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế
thị trường không thể dung hợp với nhau, nếu đem “ghép” định hướng xã hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường thì
chẳng khác nào trộn dầu vào nước, tạo ra một cơ thể “đầu Ngô mình Sở”. Theo chúng tôi, ý kiến này không đúng.
Không đúng là vì, hoặc ý kiến này muốn trì kéo Việt Nam trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận
định hướng xã hội chủ nghĩa, không muốn Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là điều trái với quy luật khách quan,
không thể chấp nhận. Hoặc ý kiến này không thoát ra được khỏi tư duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ
nghĩa tư bản, cho kinh tế thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó “dị ứng” với kinh tế thị trường,
không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng mới của kinh tế thị trường trong điều kiện mới của thời đại, lặp lại sai
lầm của một thời trước đây.
Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái phổ biến của kinh tế thị trường, chưa thấy
hết hoặc còn phân vân, nghi ngờ về những đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Từ đó chưa tin là kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ sở chế độ công hữu là nền tảng, kinh tế
quốc doanh là chủ đạo; rằng trong kinh tế thị trường không thể có kế hoạch, không thể thực hiện được công bằng
xã hội, không thể khắc phục được những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, v.v Lại có ý kiến băn khoăn cho
rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có
thêm định ngữ “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì cũng chỉ là để cho yên lòng, cho có vẻ “giữ vững lập trường” mà
thôi, trước sau gì thì cũng trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa.
Chúng tôi cho rằng, những băn khoăn này là dễ hiểu, bởi vì đây là những điều còn rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, nếu
không xác định rõ nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và kiên trì vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
đối với nền kinh tế thị trường thì những điều đó rất dễ xảy ra. Chúng tôi còn phải vừa làm vừa tổng kết, rút kinh
nghiệm. Nhưng có điều cần khẳng định là: trong điều kiện mới của thời đại ngày nay, nhất định không thể duy trì
mãi mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, không thể đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản.
Chính C.Mác đã phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế hàng hóa với kinh tế tư bản chủ nghĩa của phái kinh tế học tầm
thường. C.Mác khẳng định rằng : “… sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về nhiều
phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng không giống nhau…
Chúng ta hoàn toàn chưa biết một tí gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta
chưa thể nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù trừu tượng của lưu thông
hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các phương thức ấy”

(1)
. Phải chăng việc nhận thức cho đúng và nói cho
được những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất đặc thù ấy là trách nhiệm mà C.Mác giao cho và gửi
gắm các thế hệ ngày nay?
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải đơn giản là sự trở về với phương
thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là
phải chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa
chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho
phép các nước này giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội
trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường.
Cương lĩnh chính trị 12
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những
nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính
chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt
tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
phát triển khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng
lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tóm lại, sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và
phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát
triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển
của đất nước.
Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm
vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm
sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý
doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội
trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh
tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan

liêu, tham nhũng, v.v
Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước,
thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay.
C4:Công nghiệp hóa:
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa
a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
- Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng 9-1960) của Đảng. Quá trình công
nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không
thuận chiều.
Trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa theo 2 giai đoạn: từ 1960 đến 1975
công nghiệp hóa ở miền Bắc và từ 1975 – 1985 công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước, hai giai đoạn này có mục
tiêu, phương hướng rõ rệt.
- Ở miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
trải qua phát triển chủ nghĩa tư bản, mặt khác, vừa phải xây dựng CNXH vừa phải chiến đấu chống Mỹ. Điểm xuất
phát của Việt Nam khi bước vào thực hiện CNH rất thấp.Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ
bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước
đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua
nhiều giai đoạn.
+ Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng. (Tỷ
trọng giá trị công nghiệp tăng từ 18,2% /1960 lên 22,2%/1965; 26,6%/1971; 28,7%/1975)
Cương lĩnh chính trị 13
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
+ Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III) nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và
phát triển công nghiệp là:
•Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
•Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
•Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. (Vốn đầu tư cho công
nghiệp nặng trong thời kỳ 1960 - 1975 tăng 11,2 lần, cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6 lần)

•Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương. (Hình thành
các trung tâm công nghiệp như Hải Phòng, Quảng Ninh, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định…)
=> Về thực chất, đây là sự lựa chọn mô hình chiến lược CNH thay thế nhập khẩu mà nhiều nước, cả nước XHCN và
nước TBCN đã và đang thực hiện lúc đó. Chiến lược này được duy trì trong suốt 15 năm ở miền Bắc (1960 – 1975)
và 10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước ( 1976 – 1986).
- Trên phạm vi cả nước, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…” tiếp tục được khẳng định lại sau 16 năm tại Đại hội IV của
Đảng (1976) nhưng chính sách thì đã có thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp vừa xây dựng
kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong
một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”.
Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồn viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm,
cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quan liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu
vốn, công nghiệp trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên đây vẫn là sự biểu hiện của tư tưởng
nóng vội trong việc xác định bước đi, và sai lầm trong việc lựa chọn ưu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp. Kết
quả là thời kỳ 1976 – 1980 nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát
triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước
mắt. Đây là bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhờ vậy, nền kinh tế quốc dân trong
thời kỳ này đã có sự tăng trưởng khá hơn so với thời kỳ 5 năm trước đó.
b. Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới
Nhìn chung trong thời kỳ 1960-1985 chúng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ với các đặc
trưng cơ bản sau đây:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng.
Cương lĩnh chính trị 14
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh

- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực
thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa chủ
yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trong nền kinh tế thị trường.
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.
2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a. Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những tiền đề vật chất cần
thiết cho công nghiệp hóa còn hết sức hạn chế và trong điều kiện có chiến tranh phá hoại. Mặc dù vậy, quá trình
công nghiệp hóa vẫn đạt được những kết quả quan trọng.
So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành, đã có nhiều cơ sở đầu
tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng.
Đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đã đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa
học - kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với 1960 là thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa.
Trong điều kiện đi lên từ điểm xuất phát thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, thì những kết quả đạt được trên
đây có ý nghĩa hết sức quan trọng - tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp
theo.
b) Hạn chế và nguyên nhân
- Hạn chế: Bên cạnh những kết quả đạt được, công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới còn nhiều hạn chế. Cơ sở vật
chất kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ,
chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nên kinh tế quốc dân.
Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về
lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, rơi vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:
+ Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện
chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
+ Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất kỹ
thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý trí trong nhận thức
và chủ trương công nghiệp hóa.
II. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới

1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa.
a. Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1986
Cương lĩnh chính trị 15
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ
1960-1985, mà trực tiếp là mười năm từ 1975 đến 1985:
Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã
hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế…Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết
nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi
nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây
dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn , không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội lần thứ V như: Nông nghiệp vẫn chưa thật sự coi là mặt trận
hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến
Đại hội X
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện cho bằng được 3 chương trình lương thực, thực phẩm; hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Ba chương trình
này liên quan chặt chẽ với nhau. Phát triển lương thực thực phẩm và hàng tiêu dung là nhằm bảo đảm nhu cầu
thiết yếu cho đời sống nhân dân sau mấy chục năm chiến tranh ác liệt và trong bối cảnh của nền kinh tế còn đang
trong tình trạng thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội; phát triển hàng xuất khẩu là
yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc
thiết bị phục vụ sản xuất. Xác định thứ tự ưu tiên đó đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ sức mạnh
từ bên ngoài để phát triển kinh tế xã hội.
=> Thực chất, đây là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược CNH, chuyển từ mô hình hướng nội (thay thế
nhập khẩu) trước đây bằng mô hình hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp

dụng phổ biến và khá thành công tại các nước Châu Á lúc bấy giờ.
 Như vậy, chính sách CNH của Đại hội VI đã:
- Đưa ra một thứ tự ưu tiên mới: nông nghiệp – công nghiệp hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu – công nghiệp nặng.
- Tạo một sự chuyển biến quan trọng cả về quan điểm nhận thức cũng như tổ chức chỉ đạo thực hiện công nghiệp
hóa đất nước. Đó là sự chuyển biến hướng chiến lược CNH từ:
+ Cơ chế KHHTT sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
+ Cơ chế khép kín sang cơ chế mở cửa kinh tế.
+ Từ xây dựng ngay từ đầu một cơ cấu kinh tế đầy đủ, tự cấp tự túc sang cơ cấu bổ sung kinh tế và hội nhập.
Cương lĩnh chính trị 16
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
+ Mục tiêu “ ưu tiên phát triển công nghiêp nặng” đã chuyển sang “ lấy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu làm trọng tâm”. Từ đó dẫn đến sự đổi mới trong cơ cấu đầu tư: “Đầu tư có trọng điểm và tập
trung vào những mục tiêu và các ngành quan trọng, trước hết đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu, cho chế biến nông sản và một số ngành công nghiệp nặng trực tiếp phục vụ 3 chương trình kinh tế
lớn”
+ Phát huy nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế.
Tiếp theo, Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới, ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về
công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Đại hội đã xác định rõ vai trò “mặt trận hàng đầu” của nông nghiệp, và trên
thực tế đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách đã tăng lên. Đại hội đề cập đến lĩnh vực Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật
trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế; đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng phù
hợp với chiến lược chung cả nước. Thực hiện đường lối công nghiệp hóa của Đại hội VII, nền kinh tế đã có những
bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều năm trước:
Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1991 – 1995 chiếm 38,4% tổng đầu tư xã hội (20,8 tỷ USD)
Đại hội Đảng VIII (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã nhận định: nước ta đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp
hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quan niệm như sau:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa

học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Đại hội VIII đã điều chỉnh chính sách CNH theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp
với công nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu. Tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh
tế nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Gắn công nghiệp hóa với
hiện đại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tố trung tâm của CNH, HDH.
Đặt ra nội dung cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm trước mắt (1996-2000) là “đặc biệt coi
trọng CNH, HDH nông nghiệp nông thôn
Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng ta tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư
duy về công nghiệp hóa:
- Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu
cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các
nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngăn thời gian.
- Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước, chúng ta cần thực hiện các yêu
cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những
lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn
Cương lĩnh chính trị 17
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HDH.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành,
các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.
- Đẩy nhanh CNH, HDH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
- Đẩy mạnh CNH, HDH phải tính toán đến yêu cầu phát triển bền vững trong tương lai.
2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng dân chủ văn minh.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
b. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
3. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
a. Nội dung
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi
thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”.
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
Cương lĩnh chính trị 18
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng
nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng,
từng địa phương, từng dự án kinh tế xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có
sức cạnh tranh cao.

b. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức
- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải quyết đồng bộ các vấn đề nông
nghiệp, nông thôn, nông dân.
+ Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hóa đối với tất cả các
nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp,
nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng dịch vụ và đô thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực,
nguyên liệu và lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn
chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông
thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa. Ở nước ta, trong những năm qua,
vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn được đặt ở vị trí quan trọng. Trong những năm tới,
định hướng phát triển cho quá trình này là:
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn
với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất,
nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa
phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm
và lao động nông nghiệp.
+ Về quy hoạch phát triển nông thôn:
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây
dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh.
Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ như thủy lợi, giao thông, điện nước,
cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ…
Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã
hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
+ Về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn:
Cương lĩnh chính trị 19
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng

các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo
hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều
kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả lao động nước ngoài.
Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
vùng đồng bằng dân tộc thiểu số.
Mục tiêu đề ra là phấn đấu đến năm 2010 giảm tỷ lệ lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống dưới 50% tổng số lao
động xã hội và nâng cao tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên khoảng 85%.
Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng của nông nghiệp giảm còn công nghiệp, dịch vụ thì tăng
lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
- Đối với công nghiệp và xây dựng:
Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ
trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế
mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khuyến khích và tạo điều kiện để
các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản
xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn nước
ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.
Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan trọng để khai thác dầu khí, lọc dầu và
hóa dầu luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu
tài nguyên thô. Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt định cư ở nước
ngoài.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc,
đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ
thống thủy lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng
nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính viễn thông.
- Đối với dịch vụ:
Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có
sức cạnh tranh, đưa tốc độ phát triển của ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP. Tận dụng tốt thời cơ hội nhập
kinh tế quốc để tạo bước phát triển ngành “công nghiệp không khói” này. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng
các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh

các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng. Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc
quyền và tạo hành làng pháp lý, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia
và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.
Ba là, phát triển kinh tế vùng.
Cương lĩnh chính trị 20
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Xác định đúng đắn cơ cấu vùng có
ý nghĩa quan trọng, nó cho phép khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh của từng vùng, tạo ra sự phát triển đồng
đều giữa các vùng trong cả nước. Để phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng trong những năm tới cần phải:
Có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so
sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của mỗi vùng và liên vùng, đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm
đem lại hiệu quả cao, khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính.
Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam thành những trung tâm công nghiệp lớn
có công nghệ cao để các vùng này đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước. Trên cơ sở phát
triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo ra động lực và sự lan tỏa đến các vùng khác và trợ giúp các vùng khó khăn,
đặc biệt các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nguyên, Tây Nam, Tây Bắc. Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực
để phát triển các vùng khó khăn. Bổ sung chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
và doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh tại các vùng khó khăn.
Bốn là, phát triển kinh tế biển.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở
thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh và hợp tác quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai thác, khai thác và chế biến
dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển, đảo. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng
tàu biển, đồng thời hình thành một số hành lang kinh tế ven biển.
Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ.
Để chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với
phát triển kinh tế tri thức cần phải:
- Phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao, tỷ lệ
lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội.

- Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ.
Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số ngành, lĩnh vực then chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao
để tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả, trong từng ngành, lĩnh
vực của nền kinh tế.
- Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc
sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện chính
sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và
công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
- Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ đặc biệt là cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và
khả năng rủi ro của hoạt động khoa học và công nghệ.
Sáu là, bảo vệ, sử dụng, hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
Cương lĩnh chính trị 21
Giáo viên: Tô Vũ Tuấn Anh
Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng tài nguyên và cải thiện môi trường tự nhiên được xác định.
- Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản và rừng. Ngăn chặn các
hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường, khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường ở các lưu vực song, đô thị,
khu công nghiệp, làng nghề, nơi đông dân cư và có nhiều hoạt động kinh tế. Quan tâm đầu tư cho lĩnh vực môi
trường, nhất là các hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải, phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công
nghệ ít gây ô nhiêm môi trường. Hoàn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi
trường tự nhiên. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc chi trả cho việc xử lí ô nhiễm.
- Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng – thủy văn, chủ động phòng chống thiên tai, tìm
kiếm, cứu nạn.
- Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển
bền vững.
- Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lý, khai
thác và sử dụng tài nguyên nước.
Cương lĩnh chính trị 22

×