Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Một số biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NH TMCP ngoại thương Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.56 KB, 66 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu:
Là một Chi nhánh của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, trải qua
hơn 16 năm phát triển và trưởng thành Ngân hàng TMCP Ngoại thương Hà Tĩnh đã
khẳng định được vị trí của mình trên địa bản. Với lợi thế về vốn, công nghệ và các
sản phẩm dịch vụ mang nhiều tiện ích, Vietcombank Hà Tĩnh đã có được một thị
phần tương đối ổn định, đã thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch tại ngân
hàng thông qua việc huy động vốn, cho vay và thực hiện các dịch vụ thanh toán…
Trong tất cả các hoạt động của Ngân hàng hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận
cao nhất nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Rủi ro là yếu tố gắn liền với hoạt động đầu tư nói chung, trong đó có hoạt
động cho vay của các ngân hàng. Trong nỗ lực nhằm thu được lợi nhuận, các ngân
hàng không thể tránh khỏi rủi ro, mà chỉ có thể hạn chế tối đa những tổn thất xảy ra.
Hiện nay hoạt động tín dụng đang chiếm tỷ trọng lớn nhất: từ 60-70% trong
danh mục tài sản có. Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng có vai trò đặc biệt quan trọng
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Xuất phát từ thực trạng đó em đã chọn
đề tài “Một số biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi
nhánh Ngân hàng TMCP Ngoại thương Hà Tĩnh”
2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu:
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm lý luận, góp phần rút ngắn khoảng cách
giữa lý luận và thực tiễn về công tác quản lý rủi ro tín dụng.
- Khẳng định vai trò quan trọng của công tác quản lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng.
- Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại CN Vietcobank Hà Tĩnh.
- Nghiên cứu giải pháp kiến nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín
dụng tại CN Ngân hàng TMCP Ngoại thương Hà Tĩnh.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
3. Phạm vi nghiên cứu:
Báo cáo chuyên đề nghiên cứu thực tế tại CN Ngân hàng TMCP Ngoại thương


Hà Tĩnh trong 3 năm gần đây từ năm 2007 đến năm 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài em đã sử dụng phương pháp so sánh, phân
tích, thống kê, tổng hợp, các bảng biểu khái quát hóa. Phương pháp khoa học gắn
giữa lý luận và thực tiễn
5. Kết cấu chuyên đề:
Chuyên đề thực tập bao gồm 3 chương:
- Chương I: Chế độ pháp lý về rủi ro tín dụng tại ngân hàng
- Chương II: Thực tiễn rủi ro tín dụng tại CN Vietcombank Hà Tĩnh
- Chương III: Một số kiến nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
Chương I: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1 Chế độ pháp lý về tín dụng NH:
1.1.1 Tín dụng trong hoạt động NH:
1.1.1.1 Khái niệm tín dụng:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản là tiền hoặc hàng hóa giữa bên cho vay
là ngân hàng và các định chế tài chính khác và bên đi vay là cá nhân, doanh nghiệp
và các chủ thể khác, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.1.2 Các loại tín dụng trong hoạt động ngân hàng:
1.1.1.2.1 Dựa vào thời hạn:
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia thành 3 loại:
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm và được sử dụng
để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại tín dụng ngắn hạn chiếm tỉ
trọng cao nhất.
- Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín
dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến

hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án
mới có quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn
là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở,
các thiết bị, phương tiện vận tải, xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc
cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn.
1.1.1.2.2 Dựa vào mục đích tín dụng:
Theo tiêu thức này tín dụng ngân hàng có thể chia thành các loại sau:
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng cá nhân.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
- Cho vay nông nghiệp.
- Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Cho vay bất động sản.
1.1.1.2.3 Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành 2 loại:
- Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng
vay vốn để quyết định cho vay.
- Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền
vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
1.1.1.2.4 Dựa vào phương thức cho vay:
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành các loại:
- Cho vay theo món vay: Theo phương thức này, mỗi lần vay vốn khách
hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Theo phương thức này, Ngân hàng và
khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng
thời gian nhất định
1.1.1.3 Vai trò của tín dụng trong hoạt động ngân hàng:

1.1.1.3.1 Đáp ứng nhau cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất liên tục đồng
thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế:
Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân
phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện
cho quá trình sản xuất được liên tục.
Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó là động lực
kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư
phát triển. Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn
hình thành vốn lưu động và vốn cố định cho doanh nghiệp, vì vậy tín dụng
động viên hàng hóa đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học, kỹ thật tiến
bộ vào trong quá trình sản xuất.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân
đối, lạm phát và thất nghiệp vẫn luôn là khả năng tiềm ẩn, thông qua đầu tư tín dụng
góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt
khác thông qua hoạt động tín dụng mà sử dụng nguồn lao động và nguyên liệu hợp
lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội.
1.1.1.3.2 Thúc đẩy nền kinh tế phát triển:
Hoạt động của các trung gian tài chính và tập trung vốn điều lệ tạm thời nhàn
rỗi, mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ
quan Nhà nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế và từ đó thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.1.3.3 Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và
ngành mũi nhọn:
Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần
thiết cho xã hội đang trong quá trình Công nghiệp hóa và là ngành chịu ảnh hưởng
nhiều nhất trong điều kiện nước ta hiện nay, trong giai đoạn trước mắt Nhà nước
phải tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu
của xã hội đồng thời tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế khác.

Bên cạnh đó Nhà nước còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh
tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế
phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí.
1.1.1.3.4 Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hoạch toán kinh tế
của các doanh nghiệp:
Đặc trưng cơ bản nhất của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có
lợi tức. Nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử dụng vốn và sử dụng có
hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín
dụng, tức là khoản trả nợ vay đúng hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi trong
hợp đồng tín dụng, bằng các tác động như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của
vốn tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
1.1.1.3.5 Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh
nghiệp nước ngoài:
Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền với thị
trường thế giới, phát triển “Đóng” đã nhường bước cho kinh tế “Mở”, tín dụng ngân
hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với
nhau.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng
đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa, đồng thời nhờ
nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
1.1.2 Chế độ pháp lý về hoạt động tín dụng:
Trong quá trình hình thành và phát triển của ngành ngân hàng đã cho thấy rõ
tầm quan trọng của ngành ngân hàng khi tham gia vào nền kinh tế thị trường. Do
đó, Nhà nước đã ban hành rất nhiều quy định nhằm giải quyết các vướng mắc cũng
như các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế những tác động trực tiếp đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng bao gồm văn bản Luật, các Nghị định, Thông tư,

các Quy định liên quan đến hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng.
Hiện nay, Luật Ngân hàng Nhà nước và luật các TCTD là những văn bản luật có
ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Luật các TCTD
1997 và sửa đổi bổ sung 2004 qui định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín
dụng và hoạt động ngân hàng của tổ chức khác, trong đó nêu rõ các khái niệm
TCTD, Ngân hàng, hoạt động Ngân hàng, hoạt động tín dụng, các nghiệp vụ: chiết
khấu, tái chiết khấu,…Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nêu rõ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng,
nguyên tắc vay vốn, điều kiện vay vốn, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, mức cho
vay, những nhu cầu vốn không được cho vay và hạn chế cho vay, hồ sơ vay vốn,
thẩm định và quyết định cho vay, phương thức cho vay, hợp đồng tín dụng, giới hạn
cho vay, kiểm tra giám sát vốn vay,…Quyết định số 28/2002/QĐ–NHNN ngày
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
11/1/2002, Quyết định số 127 ngày 03/02/2005 sửa đổi bổ sung một số điều của quy
chế cho vay của TCTD ban hành kèm theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN, trong
đó sửa đổi một số nội dung về kiểm tra, giám sát vốn vay, cơ cấu lại thời hạn trả nợ,
…Trong hoạt động tín dụng, bảo đảm tiền vay là biện pháp phòng ngừa rủi ro, mục
đích của bảo đảm tiền vay là nhằm tăng thêm trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ
của bên vay vốn, giúp cho ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý để có nguồn thu nợ thứ
hai khi nguồn thứ nhất không thực hiện được, nhằm phòng ngừa rủi ro khi phương
án trả nợ của bên vay không thực hiện được, hoặc xảy ra các rủi ro ngoài dự kiến.
Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về Giao dịch bảo đảm( thay thế nghị
định 178 trước đây ) quy định về bảo đảm tiền vay và đăng ký giao dịch bảo đảm,
thông tư 07/2003/TT-NHNN ngày 19/5/2003 hướng dẫn một số qui định về bảo
đảm tiền vay, Nghị định 08/2000/NĐ-CP về đăng ký Giao dịch bảo đảm quy định
về việc đăng ký cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản, tổ chức, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo
đảm.…
1.2 Rủi ro trong hoạt động hoạt động kinh doanh của các ngân hàng:

1.2.1 Khái niệm rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro được các nhà kinh tế học đưa ra
nhưng đều thống nhất ở một nội dung là coi rủi ro là những bất trắc xảy ra trong quá
trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gây nên những thiệt hại cho họ.
Nghiên cứu về rủi ro trong kinh doanh chúng ta thấy được trong các hoạt
động kinh doanh luôn chứa đựng những rủi ro. Hoạt động ngân hàng có đặc thù là huy
động nguồn tiền nhàn rỗi từ công chúng để kinh doanh dưới hình thức là cho vay hoặc
đầu tư vào các tài sản sinh lời và cung ứng dịch vụ, do vậy rủi ro trong hoạt động ngân
hàng là ko thể tránh khỏi. Những rủi ro này có thể tác động trực tiếp đến kết quả kinh
doanh và là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến sự phá sản của các ngân hàng.
1.2.2 Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường đối mặt với nhiều loại rủi ro.
Bởi lẽ một ngân hàng mốn tồn tại và phát triển được bắt buộc họ phải mở rộng
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
các hoạt động, tăng cường các loại hình trong hoạt động của các ngân hàng
gồm: Rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá…
* Rủi ro tín dụng: Là loại rủi ro phát sinh do khách nợ không còn khả năng
chi trả. Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng mất khả
năng trả nợ một khoản vay nào đó. Khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay thì
đó mới chỉ là một giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là
hoàn thành khi nào ngân hàng thu hồi được khoản cho vay cả gốc và lãi. Tuy nhiên,
khi thực hiện giao dịch tín dụng ngân hàng không biết chắc được giao dịch đó có
hoàn thành hay không, nó có khả năng hoàn thành cũng có khả năng không hoàn
thành. Do đó rủi ro tín dụng thể hiện ở khả năng hay xác suất hoàn thành giao dịch
đó.
* Rủi ro lãi suất: Là loại rủi ro do sự biến động của lãi suất. Loại rủi ro này
phát sinh trong quan hệ tín dụng của tổ chức tín dụng theo đó tổ chức tín dụng có
những khoản đi vay hoặc cho vay theo lãi suất thả nổi. Nếu ngân hàng đi vay theo
lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí trả lãi của ngân hàng tăng

theo. Ngược lại, nếu ngân hàng cho vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường
xuống thấp khiến thu nhập lãi cho vay của ngân hàng giảm. Rủi ro lãi suất đặc biệt
quan trong khi ngân hàng huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu hoặc đầu tư
tài chính khá lớn và theo lãi suất thị trường.
* Rủi ro tỷ giá: Là rủi ro phát sinh do sự biến động tỷ giá làm ảnh hưởng đến
giá trị kỳ vọng trong tương lai. Rủi ro tỷ giá có thể phát sinh trong nhiều hoạt động
khác nhau của ngân hàng. Trong đó, hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ chứa đựng
rủi ro tỷ giá rất lớn xét trên cả giác độ doanh nghiệp lẫn ngân hàng. Rủi ro nhiều
hay ít, đáng kể hay không tuỳ thuộc vào mức độ biến động tỷ giá lớn hay nhỏ, giá
trị hợp đồng hay trị giá các khoản thu chi lớn hay nhỏ.
Ngoài ra, hoạt động ngân hàng cũng phải đối mặt với những rủi ro đáng kể
trong hoạt động do sự giảm sút chất lượng quản lý, do cung cấp những dịch vụ
không hiệu quả, do những sai lầm trong công việc quản lý hay do những thay đổi
trong nền kinh tế. Các vấn đề này có xu hướng làm giảm nhu cầu đối với danh mục
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Ngoài ra, rủi ro còn xuất hiện từ sự cạnh tranh của
các đối thủ mới về dịch vụ tài chính trên thị trường của ngân hàng. Những thay đổi
kể trên có thể tác động tiêu cực tới dòng thu nhập, chi phí hoạt động và trị giá của
ngân hàng.
1.2.3 Rủi ro tín dụng:
1.2.3.1. Khái niệm:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22
tháng 4 năm 2005 của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng:
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết.”
Rủi ro tín dụng là một hiện tượng thông thường, khó tránh khỏi mà hầu hết

các ngân hàng đều gặp phải. Nó biểu hiện dưới dạng các khoản nợ quá hạn, nợ tiền
ẩn rủi ro và đặc biệt là các khoản nợ quá hạn không thu hồi lại được mặc dù ngân
hàng đã thực hiện các biện pháp thu hồi nợ. Do đó việc quản lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng là rất cần thiết và cần phải có các chiến lược cụ thể.
1.2.3.2 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể được chia làm 2 nhóm:
- Nhóm thuộc về cơ chế, chính sách và bản thân ngân hàng: Thiếu chính sách
cho vay, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng, việc cấp tín đụng quá tập trung, thiếu sự kiểm
soát chặt chẽ, khoa học.
- Nhóm thuộc về con người trong đó có cán bộ NHTM và người đi vay.
Các yếu tố thuộc hai nhóm trên vừa có tính độc lập tương đối, vừa quan hệ
chặt chẽ và chi phối lẫn nhau, có thể làm cho hoạt động của NHTM giảm thiểu
được rủi ro, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng ngân hàng. Nhưng chúng cũng
có thể gây ra những tổn thất, thậm chí rất lớn, dẫn tới phá sản của một hoặc một số
NHTM. Chẳng hạn sự yếu kém, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán trong cơ chế, chính
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
sách cho vay, dẫn tới tình trạng cán bộ quản lý của NHTM, hoặc người đi vay lợi
dụng, đặc biệt nguy hại khi cán bộ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của
NHTM bị sa sút phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Có thể phân cụ thể rủi ro tín dụng
ra thành:
1.2.3.2.1 Rủi ro tín dụng xuất phát từ phía nhà quản lý ngân hàng:
- Về chủ quan: Khi nói đến rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng, chúng
ta thường đề cập đến rủi ro của cán bộ tín dụng mà ít nói đến rủi ro nguyên nhân do
người quản lý. Một nhà quản lý làm đúng chức năng, nhiệm vụ thì phòng ngừa
được sự phát sinh của loại rủi ro này. Nhưng trên thực tế, vì lợi ích cá nhân hay một
nhóm tập thể cán bộ quản lý trong công tác điều hành đã vô tình hoặc cố ý tạo điều
kiện, kẽ hở cho loại rủi ro này phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận
nhóm cán bộ quản lý đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện khách
hàng vay vốn có thể chưa hội tụ đủ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ

tín dụng, thẩm định ghi rõ nguyên nhân trong báo cáo thẩm định là không duyệt cho
vay. Thông thường thì những khoản vay đó sẽ không được phê duyệt, nhưng vì một
lý do tế nhị nào đó, nhà quản lý đã bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn khách
hàng hợp thức hóa hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, thẩm định phải
thực hiện theo ý kiến chỉ đạo (trên thực tế thì rất ít cán bộ tín dụng có thể tự bảo vệ
quan điểm ban đầu của mình).
Đặc biệt, trong cơ chế tín dụng hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều
chính sách thông thoáng hơn như quy định mức vốn tự có tham gia dự án, phương
án, tài sản bảo đảm…đã tạo điều kiện cho các đối tượng khách hàng tiếp cận tốt hơn
nguồn vốn tín dụng và từ đó thực hiện kinh doanh có hiệu quả. Song, cũng có
không ít dự án, phương án không thực hiện được hay thực hiện không hiệu quả dẫn
đến nợ quá hạn hoặc không có khả năng trả nợ. Ở khía cạnh này, nguyên nhân rủi ro
không phải mà do một số nhà quản lý đã nhân danh cơ chế thông thoáng và vận
dụng cho vay đối với cả những dự án, phương án đã biết rõ hoặc có thể tiên lượng
được là kém hiệu quả nhằm tư lợi cá nhân.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
- Về khách quan: Rủi ro trong quản trị kinh doanh NHTM như một tất yếu là
không thể tránh khỏi. Song việc lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ, không đánh giá
đúng năng lực cũng như phẩm chất tư cách đạo đức nghề nghiệp thì sẽ dẫn đến sử
dụng những cán bộ thiếu trung thực…Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của NHTM.
Hiện nay, hàng loạt ngân hàng cổ phần ra đời, cạnh tranh giữa các ngân hàng
ngày càng gia tăng kéo theo là cạnh tranh nguồn nhân lực. Vấn đề quản trị nguồn
nhân lực cũng đặt ra một cách bức xúc gay gắt.
Thứ nhất, đối với ngân hàng mới thành lập thì việc thu hút cán bộ thường là
nguồn cán bộ mới ra trường.
Thứ hai, các NHTM quốc doanh có những cán bộ có năng lực thì bị các ngân
hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh thu hút, việc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo
tín dụng cũng là một khó khăn, bởi quá trình kiểm tra đánh giá bổ nhiệm cán bộ là

rất phức tạp, nhạy cảm, vì đây là những vị trí quan trọng trong hoạt động kinh
doanh cũng như phòng ngừa rủi ro.
Thứ ba, hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường, nhất là khi hội nhập
WTO, không ít nhà lãnh đạo ngân hàng không nắm bắt và tìm hiểu thông tin liên
quan đến khoản vay một cách chính xác, thiếu thận trọng trong phân tích diễn biến
thị trường về mặt khách hàng kinh doanh…
1.2.3.2.2 Rủi ro xuất phát từ phía cán bộ tín dụng làm công tác tín dụng:
Cần nhấn mạnh rằng rủi ro trong hoạt động tín dụng là khó có thể tránh khỏi.
Dù cán bộ tín dụng, những người liên quan đến công tác thẩm định, cho vay đã rất
tận tâm nhưng cũng không thể tránh được hoàn toàn rủi ro. Vì một nguyên nhân
khách quan là không phải khách hàng nào vay vốn ngân hàng cũng kinh doanh có
hiệu quả. Chúng ta phải thừa nhận rằng ở đâu chú trọng đến công tác tín dụng, luôn
tuân thủ các quy trình từ xét duyệt cho vay, kiểm tra giám sát việc sử dụng tiền vay,
thu hồi nợ, xử lý nợ nghi ngờ, nợ xấu… luôn nêu cao phẩm chất đạo đức, tinh thần
trách nhiệm của cán bộ thì ở đó, chất lượng tín dụng cao và kiểm soát tốt, giảm
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
thiểu rủi ro. Ngược lại, ở đâu sự quan tâm chú trọng không đầy đủ đúng mức thì ở
đó, chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao và thậm chí mất cả cán bộ.
Qua kết luận của kiểm tra, kiểm toán nội bộ các ngân hàng thanh tra, kiểm
tra của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, nhiều món vay kém chất lượng, tồn đọng
không có khả năng thu hồi và có nguy cơ mất trắng đều có nguyên nhân thẩm định
sơ sài, hồ sơ có vấn đề, thiếu kiểm tra kiểm soát. Điều đó, một phần là do năng lực
của cán bộ liên quan, nhưng một phần không nhỏ gây nên tình trạng đó là một bộ
phận cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định…liên quan đến công tác cho vay bị sa sút
về phẩm chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm.
1.2.3.2.3 Rủi ro tín dụng xuất phát từ phía người vay vốn:
Rủi ro tín dụng trong kinh doanh của các NHTM không phải chỉ do cán bộ
quản lý, cán bộ nhân viên tín dụng của ngân hàng mà còn do một số đối tượng là
những người cho vay vốn. Có thể thấy rõ rủi ro tín dụng xuất phát từ phía người vay

vốn chia làm hai loại đối tượng: (1)Không thực hiện nghĩa vụ cam kết, (2)Không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ cam kết. Cũng không có ít khách hàng để đạt được
mục tiêu vay vốn của mình đã giả tạo hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo nhằm vay
vốn ngân hàng. Điều đó đòi hỏi NHTM nói chung, cán bộ tín dụng, thẩm định nói
riêng phải làm tốt, chính xác việc phân loại đối tượng vay vốn, từ đó có các biện
pháp kiểm tra, đôn đốc, giúp đỡ, hướng dẫn, phòng ngừa rủi ro tương ứng, hữu
hiệu.
1.2.3.2.4 Các yếu tố khác:
- Tính chính xác và sẵn có của thông tin:
Thông tin tài chính của các doanh nghiệp hầu hết đều không đủ độ tin cậy
gây khó khăn rất nhiều cho việc đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu
cho nguồn thông tin rất hạn chế. Bản thân các NHTM cũng chưa xây dựng cho
mình một hệ thống thông tin doanh nghiệp, thông tin ngành hay các tình huống rủi
ro cần thiết cho cán bộ tín dụng. Điều kiện này nếu được cải thiện sẽ rất hữu ích cho
công tác quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
- Hành lang pháp lý chưa hoàn thiện:
Mặc dù các Luật, văn bản dưới luật chi phối các hoạt động của ngân hàng đã
được sửa đổi rất nhiều, ngày càng phù hợp hơn với các quy luật của nền kinh tế thị
trường, song cũng vẫn còn nhiều vướng mắc như sự chồng chéo giữa quy định của
các Luật, việc ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật còn chậm, công tác
thực hiện của bộ máy thực thi pháp luật còn quan liêu, tùy tiện. Hành lang pháp lý
nói chung chưa ủng hộ công tác phục hồi nợ của ngân hàng và gián tiếp làm tăng
mức tổn thất tín dụng.
Quy định trích lập dự phòng rủi ro tín dụng hiện tại chỉ căn cứ trên nợ quá
hạn chứ không phải mức độ rủi ro của khoản vay nên chưa thực sự là nguồn để dự
phòng rủi ro một cách toàn diện. Luật phá sản doanh nghiệp ra đời đã lâu nhưng
không mấy tác dụng, số liệu của doanh nghiệp phá sản chưa phản ánh được thực tế

và chưa cung cấp được nguồn tài liệu cho nghiên cứu rủi ro.
- Vai trò của Ngân hàng Nhà nước: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện
chưa phát huy hết vai trò giám sát, nhận dạng và đưa ra được đánh giá độc lập về
chiến lược, chính sách, quy trình cấp tín dụng và quản trị danh mục NHTM, từ đó
đảm bảo cho sự khỏe mạnh của cả hệ thống NHTM, thanh tra Ngân hàng Nhà nước
hiện nay chỉ xem xét được hoạt động tín dụng dựa trên tỷ lệ nợ quá hạn chứ không
phải mức độ rủi ro được dự báo của các giao dịch. Các ngân hàng đang tham gia
cũng chỉ có kiến nghị hay can thiệp khi đã xảy ra trong các trường hợp rủi ro tín
dụng.
1.2.3.3 Những thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra:
Rủi ro tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng như: Thiếu tiền chi trả cho khách hàng, lợi nhuận càng ngày càng thấp dẫn đến
lỗ và mất khả năng thanh toán. Những thiệt hại mà nó gây ra cho nền kinh tế là
không nhỏ. Cụ thể:
1.2.3.3.1 Đối với ngân hàng:
- Trong các nguồn thu của ngân hàng thì nguồn thu từ lãi tín dụng là chủ yếu.
Do vậy khi xảy ra rủi ro tín dụng thì nguồn thu lớn nhất đó sẽ bị giảm đi. Nguồn thu
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
giảm đi tức là năng lực tài chính của ngân hàng cũng bị giảm đi. Những người gửi
tiền tại ngân hàng đều mong muốn thu được lãi suất lớn tại ngân hàng, do vay năng
lực tài chính của ngân hàng là một căn cứ để họ đặt lòng tin. Khi năng lực tài chính
của ngân hàng giảm thì các khách hàng cũng không muốn gửi tiền tại ngân hàng
nữa, hay khả năng huy động vốn của ngân hàng sẽ giảm xuống. Điều đó đồng nghĩa
với việc ngân hàng không thể có vốn để đáp ứng nhu cầu vay vốn cho đến khi ngân
hàng mất khả năng thanh toán nếu không có biện pháp khắc phục rủi ro một cách
tích cực.
- Tình trạng mất khả năng thanh toán kéo dài mà ngân hàng không thể tự
khắc phục được hay mặc dù có sự giúp đỡ của Ngân hàng Nhà nước cũng không thể
vượt qua thì ngân hàng dễ dàng lâm vào phá sản.

1.2.3.3.2 Đối với doanh nghiệp:
- Tín dụng ngân hàng góp phần tác động các đơn vị sử dụng nguồn vốn vay
ngân hàng có hiệu quả. Nguồn vốn từ tín dụng ngân hàng là một nguồn tài chính
giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn. Đối với các doanh nghiệp thiếu vốn
đầu tư thì một trong những cách huy động vốn nhanh nhất của họ là vay của các
ngân hàng. Do đó rủi ro tín dụng tại ngân hàng sẽ làm cho doanh nghiệp ít có cơ hội
vay vốn, do đó rất có thể nhiều phương án kinh doanh khả thi sẽ bị bỏ qua, doanh
nghiệp cũng không thể mở rộng sản xuất kinh doanh như mong muốn.
- Rủi ro tín dụng có nguyên nhân chủ yếu là uy tín, đạo đức của khách hàng.
Do vậy nếu rủi ro tín dụng xảy ra nhiều sẽ làm niềm tin giữa các doanh nghiệp và
ngân hàng bị suy giảm. Hai bên luôn ở thế phòng thủ lẫn nhau, làm cho quan hệ tín
dụng sẽ căng thẳng hơn, thủ tục vay vốn ngày càng chặt chẽ làm rào cản để các
doanh nghiệp làm ăn chính đáng vay vốn.
1.2.3.3.3 Đối với nền kinh tế:
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hòa nguồn vốn giữa
các chủ thể trong nền kinh tế, tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa và chu chuyển
tiền tệ. Nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để tài trợ, đầu tư cho các ngành kinh
tế then chốt và các ngành, các vùng kinh tế kém phát triển. Thông qua hệ thống
ngân hàng, luồng tiền được chuyển từ những nơi nguồn vốn nhàn rồi sang những
nơi cần vốn đầu tư, thúc đẩy sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền…
Nhờ có tín dụng ngân hàng trên cơ sở cho vay mở rộng sản xuất, phát triển
ngành nghề, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện mục
tiêu chính sách xã hội của Nhà nước. Đây là một nhiệm vụ khó khăn và quan trọng
đối với mọi Nhà nước. Các ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kết
hợp với Chính phủ giải quyết nhiệm vụ này.
Do vậy rủi ro tín dụng xảy ra trên phạm vi rộng cũng tạo ra rủi ro cho nền
kinh tế; nền kinh tế không có mức tăng trưởng cao, hoặc sự phát triển kinh tế không

đồng đều giữa các vùng, miền, cũng không thể giúp Nhà nước thực hiện các mục
tiêu chính sách xã hội.
Qua những đánh giá trên có thể nhận thấy được những thiệt hại do rủi ro tín
dụng gây ra đối với nền kinh tế là rất lớn. Đòi hỏi phải có sự nỗ lực từ phía quản trị
ngân hàng cũng như là cán bộ nghiệp vụ tham gia vào hoạt động cho vay của các
ngân hàng. Không chỉ trong nội bộ của các ngân hàng, Nhà nước cũng đóng vai trò
rất quan trọng. Với nhiệm vụ là cơ quan điều tiết toàn bộ nền kinh tế, Nhà nước ban
hành các quy định nhằm phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu đến hoạt động
ngân hàng.
1.2.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản lý rủi ro tại các NHTM VN:
1.2.4.1 Kinh doanh trong lĩnh vực Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt,
tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế đặc thù như quy luật giá
trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh ngày càng phát huy tác dụng. Những
rủi ro trong sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp tác động
đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM.
Các ngân hàng và các Định chế tài chính phi ngân hàng trước hết là trung
gian tài chính – Chúng đứng giữa và “đứng trong vòng vây” của 4 nhóm những
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
người có vốn và cần vốn trong nền kinh tế gồm: Hộ gia đình, Doanh nghiệp, Chính
phủ và các nhà đầu tư nước ngoài. Sản phẩm mà các NHTM mua, bán, kinh doanh
trên thị trường là các dịch vụ lưu chuyển vốn và các tiện ích ngân hàng khác. Trong
hoạt động tín dụng, cho dù hệ số an toàn vốn có đạt tới 8% thì so với tài sản có, số
vốn liếng của bản thân ngân hàng chỉ là không đáng kể (hoặc nói theo các nhà toán
học thì có thể dùng cụm từ “vô cùng nhỏ bé”). Nói một cách ngắn gọn là: Hoạt
động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín để thu hút nguồn và dùng năng lực
quản trị rủi ro để sử dụng nguồn và phát triển dịch vụ khác với tư cách là người
“Đứng giữa” các lực lượng cung và các lực lượng cầu về các dịch vụ ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM do đó bao gồm rất nhiều loại rủi ro. Bởi vậy,

nhiều ý kiến cho rằng các ngân hàng cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối
quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng
với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro
mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro.
1.2.4.2 Hiệu quả kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro:
Trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro. Chính
vì vậy, hàng năm các NHTM được phép và cần phải trích lập quỹ bù đắp rủi ro hạch
toán vào chi phí. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn cứ vào mức độ và khả năng rủi ro.
Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng, và ngược lại. Như vậy, hiệu quả kinh
doanh của NHTM tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Khi rủi ro quá
lớn đến mức NHTM mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến phá sản doanh nghiệp.
1.2.4.3 Quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt
động kinh doanh của NHTM:
Trong quản trị NHTM, quản trị rủi ro là một nội dung quan trọng mà các cấp lãnh
đạo, quản lý, điều hành phải đặc biệt quan tâm. Vì vậy, những nhà quản trị NHTM cần
được trang bị các kiến thức về quản trị rủi ro, cung cấp những thông tin kinh tế cập nhật,
có đội ngũ tham mưu chuyên nghiệp và bộ máy kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ
hiệu quả là điều kiện cần thiết để phòng ngừa, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
doanh. Theo đó, nhiều ý kiến khẳng định:”Quản trị rủi ro là nghiệp vụ chủ đạo và là thước
đo năng lực “Sống” hay là “Chết” của một NHTM”.
1.3 Pháp luật về rủi ro tín dụng:
1.3.1 Bảo đảm tiền vay:
Bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các NHTM được thực hiện
theo các quy định của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Theo đó, Nghị định quy định một số vấn đề cơ
bản:
- Về phạm vi điều chỉnh của Nghị định 163/2006/NĐ-CP: Quy định chi tiết

thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự 2005 về việc xác lập, thực hiện giao dịch
bảo đảm để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý tài sản bảo đảm.
Theo quy định của Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì các biện pháp bảo đảm
giống như Bộ luật Dân sự 2005 bao gồm: Cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký
quỹ, bảo lãnh và tín chấp. Đây là một điều khoản quan trọng, nó làm phong phú và
đa dạng các biện pháp bảo đảm tiền vay, tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng, khách
hàng có nhiều lựa chọn hơn trong quá trình áp dụng những quy định liên quan của
pháp luật để thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay.
- Về điều kiện của tài sản bảo đảm: Theo quy định tại điều 4 Nghị định
163/2006/NĐ-CP thì tài sản được dùng để cầm cố, thế chấp để bảo đảm tiền vay
phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên có nghĩa vụ hoặc bên thứ ba và được
phép giao dịch. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, các bên vẫn có thể thỏa
thuận áp dụng một hoặc cả hai điều kiện trên trong giao dịch bảo đảm, miễn sao
điều kiện đó có tính khả thi, thực hiện được trên thực tế và bảo đảm an toàn vốn vay
cho ngân hàng, không làm ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của khách hàng.
- Về phạm vi đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự: Nghị định 163/2006/NĐ-
CP không quy định về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà chỉ quy định
phạm vi bảo đảm trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện
nhiều nghĩa vụ. Điều 5 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định: “Trường hợp bên bảo
đảm dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự theo quy định tại
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005 thì các bên có thể thỏa thuận dùng tài sản có
giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm…”
-Về hiệu lực của giao dịch bảo đảm:
Được quy định tại Điều 10 Nghị định 163/2006/NĐ-CP, theo đó giao dịch
bảo đảm được giao kết có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ các trường hợp:
+ Các bên có thỏa thuận khác.
+ Cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên
nhận cầm cố.

+ Việc thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng
sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế
chấp.
+ Giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng hoặc chứng
thực trong trường hợp pháp luật có quy định.
Và một số quy định khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay
vốn và của chính ngân hàng cho vay.
1.3.2 Bảo hiểm tiền gửi:
Bảo hiểm tiền gửi được thực hiện theo Nghị định 109/2005/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 24 tháng 08 năm 2005 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
89/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 09 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi.
Tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định 109/2005/NĐ-CP có quy đinh: Tham gia tiền
gửi tại các tổ chức tín dụng, khách hàng sẽ được bảo hiểm với mức tối đa là 50 triệu
đồng. Số tiền bảo hiểm này được trả cho các khoản bao gồm cả gốc lẫn lãi của
người gửi tiền. Cũng theo Nghị định 109/2005/NĐ-CP, tham gia bảo hiểm tiền gửi
là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ
chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng, trong đó có hoạt
động nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân. Trong trường hợp các ngân hàng lâm vào
hoàn cảnh khó khăn, nếu việc giải thể, phá sản có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sự an toàn của hệ thống tài chính-ngân hàng, cơ quan bảo hiểm có thể hỗ trợ bằng
cách cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ của các đơn vị này.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
Đối với các trường hợp bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn, bảo hiểm tiền gửi sẽ có
trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền với mức tối đa kể trên. Thời
hạn chi trả là trong vòng 60 ngày kể từ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu
cầu ngân hàng chấm dứt giao dịch để tiến hành thanh lý tài sản hoặc kể từ ngày tòa
án thông báo quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. Nếu số tiền gửi (gồm cả gốc và
lãi) vượt quá mức 50 triệu đồng, khách hàng sẽ được nhận phần tài sản còn lại của

mình trong quá trình thanh lý ngân hàng.
Sau thời gian 10 năm kể từ ngày tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thông báo đầu
tiên về việc chi trả tiền bảo hiểm, những khoản tiền bảo hiểm không có người nhận
sẽ được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và người
có quyền sở hữu khoản tiền gửi được bảo hiểm sẽ không còn quyền đòi tổ chức bảo
hiểm tiền gửi chi trả số tiền bảo hiểm đó.
Trong trường hợp vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi tạm thời
không đủ để hỗ trợ các ngân hàng gặp khó khăn hoặc để chi trả tiền bảo hiểm cho
người gửi tiền, cơ quan bảo hiểm tiền gửi có thể vay hoặc tiếp nhận vốn hỗ trợ đặc
biệt của Chính phủ, phát hành trái phiếu hay vay của tổ chức tín dụng hoặc tổ chức
khác có bảo lãnh của Chính phủ.
1.3.3 Các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh:
- Ngày 20 tháng 04 năm 2005, Ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị số
02/2005/CT-NHNN về việc nâng cao chất lượng tín dụng, tăng trưởng tín dụng phù
hợp với khả năng huy động vốn và kiểm soạt rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống.
Theo Chỉ thị, trong những tháng đầu năm 2005, nền kinh tế ổn định và phát triển,
chỉ số giá tiêu dùng ba tháng đầu năm tăng 3,7%; hoạt động tín dụng tiếp tục được
mở rộng nhưng rủi ro tín dụng chưa được kiểm soát và đánh giá một cách chặt chẽ,
chưa phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và yêu cầu hội nhập. Do đó, để góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, ổn định tiền tệ và kiểm soát lạm
phát, các tổ chức tín dụng và các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực
hiện các giải pháp theo quy định của Chỉ thị 02/2005/CT-NHNN. Một số vấn đề cơ
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
bản mà Chỉ thị 02/2005/CT-NHNN đề cập đến đó là các biện pháp đối với các tổ
chức tín dụng và đối với các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cụ thể:
+ Đối với các tổ chức tín dụng:
* Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động vốn từ thị trường trong nước,
khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế cho các
dự án tín dụng nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tích cực xử lý nợ tồn đọng để

tăng khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng của nền kinh tế, trên cơ sở
đảm bảo an toàn và hiệu quả tín dụng.
* Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho thuê
tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay; xem xét và quyết định
việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản, cho vay
có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc khi xử lý tài
sản bảo đảm để thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng thực hiện các giải pháp nâng cao
chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng.
* Tiến hành rà soát, bổ sung và chỉnh sửa các quy chế, quy trình nghiệp vụ
tín dụng đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật, phù hợp với điều kiện hoạt động
kinh doanh, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
* Thực hiện các quy định đảm bảo kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động tín
dụng…
+ Đối với các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
* Đề xuất và thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ thận trọng,
linh hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo dõi chặt
chẽ diễn biến kinh tế vĩ mô - tiền tệ, các tín hiệu của thị trường để có điều chỉnh cần
thiết trong điều hành chính sách tiền tệ - tín dụng, không để xảy ra những biến động
lớn về lãi suất, tỷ giá làm tăng thêm bất lợi cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
* Thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và nâng cao vai trò quản lý, giám sát
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng để sớm phát hiện
và xử lý kịp thời những vướng mắc, kiến nghị, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
* Nghiên cứu, trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung các
quy định về cho vay bằng ngoại tệ, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các quy định cấp
tín dụng khác phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, nguyên tắc thị trường,
nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng.
Chỉ thị 02/2005/CT-NHNN còn quy định đối với Thanh tra Ngân hàng Nhà

nước, Vụ Kế toán-Tài chính và đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam CN tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương.
- Ngày 23 tháng 05 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị
02/2006/CT-NHNN về việc tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Theo Chỉ thị thì trong
những tháng đầu năm 2006, hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng tiếp tục phát
triển, góp phần ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng đang gặp nhiều khó khăn,
thách thức do những hạn chế về quy mô hoạt động, năng lực tài chính và khả năng
cạnh tranh, chịu tác động không thuận lợi của một số yếu tố khách quan ở trong và
ngoài nước. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, đảm bảo hoạt động kinh doanh của
các tổ chức tín dụng được an toàn, hiệu quả, bền vững, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước yêu cầu các tổ chức tín dụng và các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước thực
hiện một số biện pháp:
+ Đối với các tổ chức tín dụng: Chỉ thị 02/2006/CT-NHNN yêu cầu các tổ
chức tín dụng tiếp tục triển khai các giải pháp tại Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN
ngày 20 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc nâng cao
chất lượng tín dụng, tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn và
kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống và tại các văn bản chỉ đạo khác của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về triển khai nhiệm vụ ngân hàng.
* Rà soát, chỉnh sửa và hoàn thiện các quy trình nội bộ về kinh doanh tiền
tệ, ngoại hối, thanh toán, chuyển tiền, ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với
các quy định của pháp luật có liên quan. Phân tích các rủi ro có thể xảy ra trong
từng quy trình nghiệp vụ để triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
rủi ro như: Quy định hạn mức ngưng lỗ cho từng cán bộ kinh doanh ngoại hối; quy
định về phân bổ, quản lý trạng thái ngoại tệ, các mức xét duyệt bán, chuyển ngoại tệ
ở trong nước và ra nước ngoài đối với các CN trong hệ thống; quy định cụ thể trách
nhiệm về thanh toán, chuyển tiền, kiểm tra, lưu trữ chứng từ; cài đặt phần mềm để

quyết toán tức thời nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.
* Rà soát, lựa chọn cán bộ có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức để
thực hiện các hoạt động nghiệp vụ; có cơ chế uỷ quyền, quy định trách nhiệm đối
với cán bộ phụ trách và tác nghiệp, phù hợp với năng lực và kinh nghiệm kinh
doanh của các cán bộ đã được đào tạo, thử thách và cơ sở vật chất hiện có. Tăng
cường công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ và ứng dụng công nghệ mới
để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa sai phạm, rủi ro.
* Thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng, đảm bảo tất cả CN trong hệ thống thực hiện đúng quy định của Ngân hàng
Nhà nước; triển khai việc xếp hạng tín dụng đối với khách hàng vay; nâng cấp, đảm
bảo chính xác và kịp thời hệ thống thông tin báo cáo và quản trị rủi ro.
+ Đối với các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước:
* Tiến hành đánh giá toàn diện về mức độ rủi ro trong thanh toán và áp dụng
công nghệ thông tin để đề xuất và triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa rủi
ro; xây dựng các quy phạm, chuẩn mực cần thiết làm cơ sở cho việc xét duyệt đầu
tư hệ thống thanh toán và thường xuyên cảnh báo rủi ro đối với tổ chức tín dụng.
* Giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính để tiếp
tục ban hành sửa đổi, hoàn chỉnh chế độ kế toán cho phù hợp với các chuẩn mực kế
toán quốc tế.
Và một số quy định khác đối với Thanh tra Ngân hàng Nhà nước và Ngân
hàng Nhà nước CN tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
1.4 Vai trò của bảo hiểm tiền gửi đối với nền kinh tế VN:
1.4.1 Bảo hiểm tiền gửi thực hiện chính sách bảo về công khai người gửi tiền:
Có thể nói khái niệm bảo hiểm tiền gửi (BHTG) đã được biết đến từ rất lâu
tại nhiều quốc gia. Khi hoạt động BHTG công khai chưa xuất hiện, BHTG đã được
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
nhiều quốc gia thực hiện dưới hình thức “Bảo vệ ngầm”. Bảo vệ ngầm được hiểu là
việc Chính phủ hay Ngân hàng trung ương có nghĩa vụ trong việc bảo đảm hoàn trả
tiền gửi cho người gửi tiền nếu có hiện tượng đóng của ngân hàng xảy ra và ngân

hàng đó không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Điều này bắt nguồn từ
vai trò quản lý nhà nước và sự tín nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm sự phát
triển an toàn và ổn định cho các hoạt động trong nền kinh tế xã hội. Ví nghĩa vụ này
như là cam kết không công khai nên không hình thành một mối quan hệ rõ ràng về
BHTG giữa người gửi tiền, ngân hàng với Ngân hàng trung ương hay Chính phủ.
BHTG công khai là chính sách đảm bảo tất cả hoặc một phần tiền gửi cùng với tiền
lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ được thanh toán cho người gửi tiền theo cơ
chế hợp đồng cam kết công khai.
BHTG ở Việt Nam đã có được sự khởi đầu bằng Quyếts định 101/TCQĐ-
BH ngày 1/2/1994 của Bộ tài chính. Theo quyết định này, Bảo Việt có trách nhiệm
bảo hiểm đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn tại Quỹ tín dụng nhân dân. Tuy
nhiên, hoạt động bảo hiểm tiền gửi do Bảo Việt thực hiện trong giai đoạn này phát
triển chậm, mới chỉ triển khai được với một số lượng khách hàng rất nhỏ và còn bộc
lộ nhiều hạn chế, không đảm bảo các yếu tố quyết định thành công đối với hoạt
động này trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cụ thể là quy định các hoạt động hỗ
trợ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là tự nguyện, hoạt động BHTG là vì mục
đích lợi nhuận, không có các hoạt động hỗ trợ tổ chức tham gia BHTG, lợi ích duy
nhất mà tổ chức tham gia BHTG có được là chi trả tiền gửi cho người gửi tiền khi tổ
chức đó phá sản và không có khả năng thanh toán.
Trước tình trạng đó, trong điều kiện quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng ở
Việt Nam ngày càng phát triển, số lượng các đơn vị tham gia kinh doanh trong lĩnh
vực ngân hàng, tham gia huy động tiền gửi ngày càng tăng, đi đôi với nó là yếu tố
rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh này cũng ngày càng trở nên phức tạp đặt ra yêu cầu cần
có giải pháp phòng ngừa kịp thời, Chính phủ đã ban hàng Nghị định 89/1999/NĐ-CP về
bảo hiểm tiền gửi và tổ chức BHTG Việt Nam đã được thành lập. Hoạt động BHTG ở
Việt Nam được công nhận là một trong những giải pháp tích cực bảo vệ quyền lợi người
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
gửi tiền, kiểm soát rủi ro hoạt động của các tổ chức tín dụng, khắc phục hạn chế của hoạt
động BHTG do Bảo Việt thực hiện trước đây.

BHTG Việt Nam là đại diện của Nhà nước trong việc bảo vệ người gửi tiền,
bảo vệ người tiêu dùng trong sử dụng các dịch vụ tài chính ngân hàng. Với cơ chế
BHTG bắt buộc hiện nay, người gửi tiền có tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm sẽ
được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách BHTG thông qua việc họ được BHTG Việt
Nam chi trả tiền bảo hiểm (mức chi trả tối đa theo quy định hiện này là 50 triệu
đồng) khi tổ chức tham gia BHTG nhận tiền gửi của họ bị đóng cửa và mất khả
năng thanh toán.
Hoạt động chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các tổ chức tham gia BHTG bị
chấm dứt hoạt động có tác dụng củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với hệ
thống ngân hàng một cách rõ nét nhất.
Vai trò bảo vệ người gửi tiền tích cực còn được thực hiện bằng các hoạt động
phòng ngừa và chống rủi ro của tổ chức BHTG Việt Nam đối với hoạt động của các
tổ chức nhận tiền gửi. Đó là các hoạt động cảnh báo theo kết quả giám sát, kiểm tra
và hoạt động hỗ trợ tài chính phục hồi hoạt động của các tổ chức tín dụng có vấn
đề.
Tuy nhiên, do chính sách BHTG mới quy định bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, công ty tài chính và duy trì sự ổn định, phát triển
lành mạnh hoạt động ngân hàng tại các tổ chức này, chưa mở rộng tới tất cả các tổ
chức nhận tiền gửi (như công ty bảo hiểm nhân thọ, công ty nhận ủy thác đầu tư
chứng khoán, Ngân hàng chính sách xã hội, tiết kiệm bưu điện…) nên quyền lợi của
người gửi tiền tại các tổ chức này chưa được bảo vệ.
1.4.2 Vai trò của BHTG Việt Nam trong việc đảm bảo sự an toàn và phát triển
bền vững của hệ thống ngân hàng:
Hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh của cả nền kinh tế. Hệ thống
ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các
nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng hiệu quả, kích thích tăng
trưởng kinh tế một cách bền vững. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường rủi ro
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính tín dụng
trong hoạt động kinh doanh là không thể tránh khỏi. Rủi ro trong hoạt động kinh

doanh ngân hàng là rủi ro đặc biệt, có phản ứng dây chuyền, lây lan và ngày càng
có biểu hiện phức tạp. Sự sụp đổ của ngân hàng ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ đời
sống kinh tế-chính trị-xã hội của một nước và có thể lan rộng sang quy mô quốc tế.
Bởi vì khi ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp không những đến người gửi
tiền mà cả những người vay tiền và sự phá sản của ngân hàng luôn có hiệu ứng lây
làn và mang tính chất dây chuyền. Việc một ngân hàng đổ vỡ có thể thạo ra sự nghi
ngờ của người gửi tiền về sự ổn định và khả năng thanh toán của toàn hệ thống
ngân hàng nói chung và có thể tạo ra sự náo loạn trong xã hội. Do đó, một trong
những hoạt động chính của ngân hàng nhằm hạn chế các ảnh hưởng đối với nền
kinh tế khi có sự cố xảy ra là hoạt động BHTG.
Vai trò của hoạt động BHTG đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng
được thể hiện trên 3 mặt:
- Hoạt động BHTG góp phần củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ
thống ngân hàng.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng của quốc gia phát triển.
- Thúc đẩy huy động tiết kiệm phục vụ đầu tư phát triển bền vững.
Đối với hoạt động BHTG Việt Nam có thể nói rằng từ khi đi vào hoạt động
đến nay ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, BHTG
Việt Nam cũng đã thực hiện được vai trò quan trọng đối với hệ thống ngân hàng
Việt Nam:
* Hoạt động của BHTG Việt Nam góp phần củng cố và tăng cường uy tín
của các ngân hàng:
Tổ chức BHTG Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ về giám sát và
kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG và an toàn trong hoạt
động của các tổ chức tham gia BHTG. BHTG sử dụng có hiệu quả hai phương pháp
chính để giám sát các tổ chức tham gia BHTG, đó là giám sát từ xa và kiểm tra tại
chỗ.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Hùng Lớp: TC12B

×