Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Sóc Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 59 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
LêI Më §ÇU
Việt Nam, được gọi là con Rồng nhỏ, đã nổi lên trở thành một nước
chiến thắng trong quá trình toàn cầu hóa - một thành công được thừa nhận với
việc được chọn là nước đăng cai Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Kể từ năm 2000,
Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm đứng thứ ba thế giới, sau
Trung Quốc và Ấn Độ, và là nước thành công nhất trong công tác giảm đói
nghèo.
Cùng với việc đổi mới của nền kinh tế, hệ thống NHTM nói chung,
NHNo&PTNT nói riêng đóng góp một phần quan trọng trong việc phát triển
kinh tế đất nước.
Là một Ngân hàng thương mại quốc doanh, NHNo&PTNT Việt Nam đã
góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và phát triển
nông nghiệp nông thôn ở nước ta nói riêng, mở ra quan hệ tín dụng trực tiếp
với hộ sản xuất, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các hộ sản xuất để
không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, có được kết quả
đó phải kể đến sự đóng góp của NHNo&PTNT Sóc Sơn. Sóc Sơn là một
huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội có tiềm năng kinh tế xã hội lớn, có điều
kiện phát triển một nền kinh tế tổng hợp, do đó nhu cầu về vốn là hết sức
quan trọng đối với việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh.
Hoạt động tín dụng cũng giống như bất kì hoạt động nào khác cũng có
những rủi ro. Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, những khoản tiền cho
vay bao giờ cũng có sắc xuất vỡ nợ cao hơn so với những tài sản có khác.
Việc rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM có nhiều nguyên nhân gây ra,
chẳng hạn nguyên nhân khách quan: cơ chế, chính sách Nhà nước thay đổi,
thiên tai Nguyên nhân chủ quan như: do cán bộ ngân hàng (nhận thức
không đầy đủ trong việc cho vay, vi phạm đạo đức ), cho vay không có dự
án khả thi, cho vay khống, thiếu tài sản thế chấp, cho vay vượt tỷ lệ an toàn

1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt


quy định Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân
phát sinh rủi ro tín dụng để từ đó có những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng là nhiệm vụ cơ bản trong cả thời kì trước mắt và lâu dài
và cũng là vấn đề nóng bỏng thu hút sự quan tâm của các NHTM nói chung
và NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng.
Xuất phát từ những thực tế cho vay vốn đến từng hộ sản xuất tại
NHNo&PTNT Sóc Sơn, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Tín dụng đối với hộ sản
xuất tại NHNo&PTNT Sóc Sơn” nhằm mục đích tìm ra những giải pháp để
mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu vốn cho việc phát triển kinh tế xã hội trên
địa bàn huyện.
Đây là đề tài có phạm vi rộng, thời gian cho học viên đi sâu, nghiên cứu
còn hạn chế vì vậy nội dung đề tài tốt nghiệp vẫn còn có những khiếm
khuyết.
Kết cấu bài luận văn gồm:
Lời mở đầu
Chương 1: Cơ sở lí luận về tín dụng hộ sản xuất.
Chương 2: Thực trạng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Sóc Sơn.
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy mở rộng cho vay kinh tế
hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Sóc Sơn.
Kết luận
Tài liệu tham khảo

2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT
1.1. Vai trò của kinh tế hộ sản xuất trong kinh tế nước ta hiện nay.
1.1.1. Khái niệm: Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế độc lập tự chủ, trực
tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất và
tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Trong quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự: Những hộ gia đình mà các
thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng
đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực
sản xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định, là chủ thể trong các quan hệ
dân sự đó. Những hộ gia đình mà đất ở được giao cho hộ cũng là chủ thể
trong quan hệ dân sự liên quan đến đất ở đó.
Đại diện của hộ sản xuất: Chủ hộ là đại diện của hộ sản xuất trong các
giao dịch dân sự và lợi ích chung của hộ. Cha mẹ hoặc một thành viên khác
đã thành niên có thể là chủ hộ. Chủ hộ có thể uỷ quyền cho thành viên khác
đã thành niên làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự. Giao dịch dân sự do
người đại diện của hộ sản xuất xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ sản xuất.
Tài sản chung của hộ sản xuất: Tài sản chung của hộ sản xuất gồm tài
sản do các thành viên cùng nhau tạo lập lên hoặc được tặng, cho chung và các
tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ. Quyền sử
dụng đất hợp pháp của hộ cũng là tài sản chung của hộ sản xuất.
Trách nhiệm dân sự của hộ sản xuất: Hộ sản xuất phải chịu trách nhiệm
dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập,
thực hiện nhân danh hộ sản xuất. Hộ chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản
chung của hộ. Nếu tài sản chung của hộ không đủ để thực hiện nghĩa vụ

3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
chung của hộ, thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản
riêng của mình.
1.1.2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ nông nghiệp.
Quy mô và nguồn lực sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất thường là
nhỏ và không đồng đều.
Hình thành nhiều loại hình kinh tế hộ sản xuất hoạt động trong nhiều
lĩnh vực khác nhau.

Quy mô sản xuất nhỏ, có các điều kiện về đất đai nhưng thiếu vốn thiếu
hiểu biết về khoa học kĩ thuật, thiếu kiến thức về thị trường nên sản xuất kinh
doanh còn mang nặng tính tự cung tự cấp. Nếu không có sự hỗ trợ của Nhà
nước và các cơ chế chính sách về vốn thì kinh tế hộ không thể chuyển sang
sản xuất hàng hóa, không thể tiếp cận với cơ chế thị trường.
1.1.3. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế.
1.1.3.1. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên
sang kinh tế hàng hóa.
Hộ sản xuất là một đầu mối quan trọng trong việc cung cấp các loại
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp: sản xuất đường, mì chính, cung cấp
bông cho ngành dệt, cung cấp chè cho ngành chế biến chè, cung cấp các sản
phẩm cho công nghiệp chế biến dầu thực vật như vừng lạc… Cung cấp hàng
hóa phục vụ yêu cầu xuất khẩu của nền kinh tế: xuất khẩu gạo, cà phê, cao su,
hạt điều… Xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi: thịt gia súc, gia cầm, tôm, cá.
Nhờ có sản xuất nông nghiệp phát triển mà ngành xuất khẩu nông sản của
Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, kim ngạch xuất khẩu
không ngừng tăng lên.
1.1.3.2. Đóng góp của hộ sản xuất đối với xã hội.
Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội. Là động lực khai thác các tiềm năng, tận dụng các nguồn vốn, lao

4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
động, tài nguyên, đất đai đưa vào sản xuất làm tăng sản phẩm cho xã hội.
Hiệu quả đó gắn liền với sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm được chi phí, chuyển
hướng sản xuất nhanh tạo được quỹ hàng hóa cho tiêu dùng và xuất khẩu tăng
thu cho ngân sách Nhà nước.
Xét về lĩnh vực tài chính tiền tệ thì kinh tế hộ tạo điều kiện mở rộng thị
trường vốn, thu hút nhiều nguồn đầu tư.
Cùng với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện

cho kinh tế hộ phát triển đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và
tạo nhiều việc làm cho người lao động, góp phần ổn định an ninh trật tự xã
hội, nâng cao trình độ dân trí, sức khỏe và đời sống người dân thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Kinh tế hộ thừa nhận
là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, sôi động, sử dụng
có hiệu quả hơn đất đai, lao động, tiền vốn, công nghệ và lợi thế sinh thái
từng vùng.
Hộ sản xuất là một nhân tố quyết định trong việc tạo ra sản phẩm nông
nghiệp, tạo ra nông sản hàng hóa đa dạng và phong phú. Đó chính là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung và kinh tế trên địa bàn nói
riêng.
1.2. Vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của kinh tế hộ
sản xuất.
1.2.1. Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, xuất phát từ nhu cầu
đi vay và cho vay giữa người thiếu vốn và người thừa vốn trong cùng một
thời điểm đã hình thành nên quan hệ vay mượn lẫn nhau trong xã hội và trên
cơ sở đó hoạt động tín dụng ra đời.

5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
1.2.1.1. Khái niệm: Tín dụng ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời
một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất
định quay trở lại người sở hữu với lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Trong tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất thì Ngân hàng là
người chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (người cung ứng vốn –
người cho vay) còn hộ sản xuất là người (nhận cung ứng vốn – người đi vay).
Sau một thời gian nhất định hộ sản xuất trả lại số vốn đã nhận từ Ngân hàng,
số vốn hoàn trả lại lớn hơn số vốn ban đầu (đó gọi là lãi).
1.2.1.2. Sự cần thiết của tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.

Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng và khách hàng có hoàn
trả, một bên là Ngân hàng, một bên là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ
gia đình, các thành phần kinh tế. Trong đó, Ngân hàng đóng vai trò trung gian
vừa là người đi vay vừa là người cho vay, hoạt động của Ngân hàng là đi vay
để cho vay.
Trong nền kinh tế thị trường vốn bằng tiền của các đơn vị, các tổ chức
kinh tế không giống nhau về cả số lượng và thời gian. Trong cùng một thời
gian đơn vị này thiếu vốn nhưng đơn vị khác lại thừa vốn do vậy đều có thể
ảnh hưởng không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu không có sự
điều hòa vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn thì nền kinh tế không thể
phát triển được.
Do vậy cần thiết phải có tổ chức đứng ra làm nhiệm vụ điều hòa vốn
trong nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, góp phần tăng trưởng kinh
tế, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội. Đó là
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng nói chung và tín dụng Ngân
hàng nói riêng. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chủ yếu là đi vay để
cho vay, huy động mọi khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư với lãi suất quy định

6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
của Nhà nước để cho các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong xã hội có nhu cầu
vay vốn với lãi suất cao hơn lãi suất huy động.
Kinh tế hộ sản xuất của nước ta đi lên từ một nền sản xuất nhỏ, tự cung,
tự cấp với đặc trưng chủ yếu là thiếu vốn trầm trọng. Để sản xuất một nền
công nghiệp theo mô hình sản xuất hàng hóa, đòi hỏi phải đáp ứng thỏa đáng
nhu cầu vốn sản xuất. Bởi vậy, tín dụng Ngân hàng là yếu tố cần thiết cho quá
trình phát triển kinh tế một cách liên tục của các hộ sản xuất.
1.2.2 Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ
sản xuất.
1.2.2.1. Tín dụng ngân hàng góp phần thu hút số tiền nhàn rỗi trong xã

hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh
doanh chủ yếu của Nhân hàng thương mại. Để thực hiện quá trình kinh
doanh, Ngân hàng phải có nguồn vốn và trên cơ sở nguồn vốn đó để đáp ứng
nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Nói
cách khác, Ngân hàng phải thực sự trở thành người cho vay để đi vay. Điều
này là một thực tế khách quan.
Mặt khác, trong nền kinh tế thường xuyên xuất hiện những nguồn vốn
bằng tiền tạm thời chưa sử dụng. Đồng thời ở một nơi khác cùng thời điểm
hiện tượng thiếu vốn tạm thời cần được giải quyết. Sự tham gia của tín dụng
Ngân hàng được coi như một công cụ giải quyết mâu thuẫn trên đây về cung -
cầu vốn tiền tệ. Ở đây NHTM sẽ là tổ chức sẵn sàng tiếp nhận các nguồn vốn
nhàn rỗi đó dưới hình thức kí gửi. Điều đó làm cho khoản tài chính tạm thời
nhàn của họ được sinh lời và được dự trữ an toàn cho việc sử dụng sau này.
Nhưng điều đáng nói hơn khi người sản xuất cần đến vốn để phục vụ cho
việc tiến hành sản xuất kinh doanh thì tín dụng Ngân hàng là người bạn đắc
lực của họ. Trên cơ sở nhu cầu vay vốn, Ngân hàng cung cấp vốn cho từng hộ

7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
sản xuất giúp đỡ họ tận dụng khai thác mọi tiềm năng đất đai, lao động, tài
nguyên thiên nhiên để từ đó đóng góp ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn
hàng hóa để cung cấp cho sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và đáp ứng nhu
cầu lương thực, thực phẩm của toàn xã hội.
1.2.2.2 Tín dụng Ngân hàng giữ vai trò trung gian giữa hộ sản xuất với
các ngành sản xuất khác.
Bản thân của các ngành sản xuất là đều được tiến hành theo chu kì cụ
thể. Trong chu kì sản xuất có lúc nhu cầu vốn tăng lên rất cao, có lúc lại giảm
xuống. Điều này đòi hỏi có một sự điều tiết kịp thời giúp các nhà sản xuất giải
tỏa phần vốn thừa và cung cấp phần vốn thiếu. Giữa sản xuất nông nghiệp với

các ngành sản xuất khác cũng có nhu cầu điều tiết vốn như đã nói ở trên và
chính điều này nó nối kết sản xuất nông nghiệp với các ngành sản xuất khác
một cách chặt chẽ hơn.
Do tính mùa vụ của sản xuất nông nghiệp, nên tín dụng nông nghiệp
cũng có những đặc điểm riêng. Vào vụ thu hoạch tín dụng nông nghiệp chủ
yếu là phục vụ cho thu mua, tiêu thụ hàng hóa do ngành nông nghiệp sản xuất
ra. Trong điều kiện này, các tổ chức tín dụng đồng thời là người phát vốn ra
cho các tổ chức tiêu thụ đồng thời là người thu hút vốn từ người nông dân.
Nguồn vốn để cung cấp cho nông dân vào vụ sản xuất có thể phải tìm kiếm ở
các ngành sản xuất khác chứ không phải trong nội bộ của ngành nông nghiệp.
Điều quan trọng là phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành sản xuất
để tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sản xuất nông nghiệp giữ vai trò
sản xuất cơ bản nên luôn luôn đòi hỏi ở các ngành sản xuất khác một sự tài
trợ nhất định. Và Ngân hàng là môi giới trung gian để đưa hàng hóa từ nông
nghiệp vào sản xuất công nghiệp và ngược lại.
1.2.2.3. Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá

8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
trình mở rộng quan hệ lưu thông hàng hóa quốc tế.
Ngày nay, trong mối quan hệ kinh tế, sự hợp tác bình đẳng đôi bên cùng
có lợi giữa các nước trên thế giới và khu vực đang được phát triển khá đa
dạng cả về nội dung và hình thức, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là nhân
tố hết sức quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của mỗi nước, nhất là các
nước đang phát triển ở Việt Nam.
Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể phát triển khi nào nó được chuyển qua
sản xuất hàng hóa. Sản phẩm sản xuất nông nghiệp được trao đổi với các
ngành sản xuất khác phục vụ cho sản xuất công nghiệp, tiêu dùng ở các đô thị
và xuất khẩu ra nước ngoài. Muốn thực hiện một mô hình sản xuất như trên
đòi hỏi phải có sự chuyên môn hóa sản xuất và tập trung hóa sản xuất với

trình độ công nghệ sản xuất tiên tiến có hiệu quả. Muốn làm được điều đó cần
phải có vốn và đặc biệt cần có sự tài trợ của tín dụng Ngân hàng. Như vậy tín
dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất khẩu
hàng hóa.
1.2.2.4. Tín dụng Ngân hàng đã tạo điều kiện duy trì các ngành nghề
truyền thống, phát triển các nghề mới nhằm giải quyết công ăn việc làm cho
từng hộ, giúp họ tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
Dựa vào lợi thế so sánh giữa các vùng, các địa phương khi có vốn đầu tư
về kinh tế, người dân đã nâng cao, duy trì và phát triển ngành nghề truyền
thống, ngành nghề mới. Khai thác tiềm năng về đất đai, mặt nước và nguồn
lực vào sản xuất, thu hút nhiều lao động tạo công ăn việc làm, góp phần xây
dựng nông thôn giàu có, văn minh.
1.2.2.5. Tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động thúc đẩy
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ là công cụ kinh tế - xã hội. Trong

9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, mọi chu kì đầu bắt đầu
bằng tiền tệ kết thúc bằng khối lượng tiền tệ lớn hơn, tạo điều kiện để tái mở
rộng sản xuất.
Trong chu trình này, tăng nhanh vòng quay vốn tiền tệ là một yếu tố
quyết định sự thành công trong sản xuất kinh doanh. Để rút ngắn thời gian
nhằm tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải chủ động tìm
kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như: Ứng dụng những thành tựu khoa học
kĩ thuật, đổi mới công nghệ, hoàn thiện nghệ thuật quản trị kinh doanh, tìm
kiếm thị trường mới… Để đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu đa dạng
hóa buộc hộ phải tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng để cạnh tranh trên
nền kinh tế thị trường. Những việc làm này đòi hỏi một khối lượng lớn về
vốn, tín dụng Ngân hàng sẽ là người đáp ứng nhu cầu đó.

1.2.2.6. Tín dụng Ngân hàng với việc điều chỉnh chiến lược kinh tế, góp
phần chống lạm phát tiền tệ.
Nền kinh tế hàng hóa luôn luôn chuyển động theo hai chiều hướng: phát
triển theo nhịp độ tăng trưởng hoặc giảm sút theo quy luật lạm phát. Cả hai
trường hợp đó đều ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Hình thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa
kinh tế to lớn nó không làm tăng thêm khối lượng tiền lưu thông nên không
ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ và giá cả. Ngược lại, nếu nhà nước phát hành
tiền giấy cho ngân sách dù có đưa vào đầu tư các chương trình kinh tế mang
tính chiến lược cũng dẫn đến tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây nên
tình trạng lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và đời sống xã hội.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng không chỉ là đòn bấy kinh tế mà còn là
công cụ để Nhà nước điều tiết sản xuất, điều chỉnh chiến lược kinh tế, phân
công lao động xã hội, tiết kiệm phát hành tiền vào lưu thông, sử dụng có hiệu

10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
quả vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, góp phần kiềm chế lạm phát,
ổn định sức mua của đồng tiền.
1.2.3. Quy trình nghiệp vụ cho vay đối với hộ sản xuất NHNo&PTNT
Việt Nam.
Việc cho vay hộ sản xuất là nhằm tạo điều kiện và khuyến khích nông
dân sản xuất ra hàng hóa nông - lâm - ngư nghiệp, phát triển công nghiệp chế
biến, mở các ngành nghề sản xuất mới, kinh doanh dịch vụ… tạo công ăn việc
làm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong ngành nông nghiệp, góp phần xây
dựng một nông thôn giàu có, văn minh.
Hiệu quả kinh tế vẫn là vấn đề quan trọng đối với cho vay hộ sản xuất.
Muốn vậy tín dụng hộ sản xuất phải kịp thời vụ, gắn liền với chu kì sản xuất
của cây trồng vật nuôi. Tín dụng ấy trước hết phải thỏa mãn nhu cầu cho các
hộ thiếu vốn sản xuất, tạo điều kiện cho người nông dân khai thác hết khả

năng tiềm tàng hiện có của đất đai, ao hồ, sông biển… khai thác tốt kinh
nghiệm sản xuất của người nông dân, đồng thời góp phần tạo ra các ngành
nghề sản xuất mới, tận dụng nguồn lao động dồi dào ở nông thôn. Tín dụng
hộ sản xuất còn phải tạo điều kiện cho nông dân đi vào thời kì chuyển dịch cơ
cấu sản xuất mới với các hình thức chuyên môn hóa sản xuất các loại hàng
hóa có chất lượng cao trên thị trường trong nước và ngoài nước, đồng thời
giúp người nông dân kiến tạo một cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện đại có khả
năng chống thiên tai, dịch họa và từng bước đưa sản xuất nông nghiệp thoát
khỏi sự lệ thuộc vào thiên nhiên.
Muốn đạt được các mục đích trên, quy trình nghiệp vụ cho vay hộ sản
xuất phải thực hiện theo đúng các vấn đề sau:
1.2.3.1. Điều kiện cho vay đối với khách hàng là hộ sản xuất.
Hộ vay vốn phải cư trú tại địa bàn quận, huyện, thị xã, thành phố (trực

11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
thuộc tỉnh) nơi chi nhánh NHNo&PTNT cho vay đúng trụ sở. Nếu là hộ ở tại
địa phương khác phải có giấy xác nhận của ủy ban nhân dân xã, phường nơi
có hộ khẩu thường trú và được ủy ban nhân dân địa phương nơi đến cho phép
tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hộ vay vốn phải có phương án sản xuất kinh doanh phù hợp với chương
trình mục tiêu phát triển kinh tế, quy hoạch sản xuất của từng vùng và từng
địa phương. Để thực hiện nguyên tắc vốn sử dụng đúng mục đích, và đảm bảo
khả năng thu hồi vốn cho Ngân hàng. Hộ vay vốn phải gửi đến Ngân hàng
một phương án sản xuất kinh doanh, nói rõ khoản tiền vay sẽ được sử dụng
cho mục đích nào, sản xuất ra sản phẩm gì, kinh doanh dịch vụ gì, hiệu quả
kinh tế của phương án sản xuất ra sao.
Chủ hộ và người thừa kế hợp pháp phải có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự: có quyền công dân, không bị hạn chế hoặc mất năng lực
hành vi (không bị mắc các bệnh tâm thần), hộ gia đình có sức lao động, có kỹ

năng lao động. Người mất trí, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị
kết án tù chưa được xóa án không được vay vốn, không được đại diện cho chủ
hộ để giao dịch vay vốn và trả nợ ngân hàng.
Hộ sản xuất có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam
kết.
Có vốn tự có tham gia vào dự án sản xuất kinh doanh.
Không có nợ khó đòi hoặc nợ quá hạn trên 6 tháng tại NHNo&PTNT.
Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của chính
phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của NHNo&PTNT Việt
Nam.
1.2.3.2. Mức tiền cho vay.

12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
Nói chung mức cho vay vốn có thể cung cấp cho hộ sản xuất tương
đương với nhu cầu về vốn đang thiếu của hộ sản xuất căn cứ trên phương án
sản xuất, kinh doanh cụ thể:
Mức cho vay = Tổng nhu cầu vốn của phương án – vốn tự có
Ngân hàng phải căn cứ vào nhu cầu vay vốn của hộ, quy định của Chính
phủ tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về mức cho vay với giá trị tài sản đảm
bảo. Trong trường hợp hộ sản xuất không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
bảo lãnh thì căn cứ vào tính khả thi của phương án sản xuất do hộ lập ra mà
cán bộ tín dụng quyết định mức cho vay cho phù hợp.
Đối với các hộ gia đình, Ngân hàng cho vay đến 10 triệu đồng người vay
không phải thế chấp tài sản chỉ nộp kèm đơn xin vay, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nếu chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hộ vay
vốn chỉ nộp kèm theo đơn xin vay, giấy xác nhận của ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn về diện tích đang sử dụng, không có tranh chấp.
Đối với hộ vay trên 10 triệu động phải thực hiện đảm bảo tiền vay bằng
tài sản, quyền sử dụng đất (bao gồm cả công trình, giá trị cây lâu năm, thủy

hải sản nuôi trồng đã đến kỳ thu hoạch gắn liền với đất theo quy định của
NHNo&PTNT Việt Nam, mức cho vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản đảm
bảo (Bao gồm đảm bảo cả gốc và lãi của khoản vay đó).
1.2.3.3. Đối tượng cho vay.
Giá trị vật tư, hàng hóa, máy móc thiết bị bao gồm cả thuế giá trị gia
tăng nằm trong tổng giá trị lô hàng hóa và các khoản chi phí để khách hàng
thực hiện theo dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Số tiền thuế xuất nhập khẩu mà khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất
khẩu, nhập khẩu mà giá trị lô hàng đó NHNo&PTNT đã cho vay.

13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
Số lãi tiền vay trả cho NHNo&PTNT trong thời hạn thi công, chưa
nghiệm thu bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay trung
hạn, dài hạn để đầu tư tài sản cố định mà khoản lãi được tính trong giá trị tài
sản cố định đó.
Các nhu cầu tài chính khác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh,
dịch vụ theo quy định của NHNo&PTNT.
 Phương thức cho vay:
Phương thức cho vay trực tiếp tới hộ sản xuất: Áp dụng cho cả hai loại
hộ sản xuất và hộ vay vốn bảo đảm bằng tài sản và hộ vay vốn không phải
thực hiện bảo đảm bằng tài sản (theo 67/QĐ-TTg ngày 30/03/1999 của Thủ
tướng Chính phủ). Đối với phương thức này khi nhận được đơn xin vay của
hộ sản xuất cán bộ phụ trách địa bàn có trách nhiệm xuống trực tiếp tận hộ để
điều tra vay vốn, nếu hộ vay vốn có đủ điều kiện vay vốn theo quy định thì
CBTD tiến hành thẩm định dự án sản xuất kinh doanh, cùng khách hàng thiết
lập hồ sơ vay vốn và trình trưởng phòng kinh doanh, nếu cần thiết trưởng
phòng kinh doanh sẽ tái thẩm định và trình giám đốc NHNo&PTNT duyệt
cho vay.
Phương thức cho vay thông qua tổ chức tín chấp: phương thức này được

áp dụng đối với những hộ được vay không có bảo đảm bằng tài sản theo quy
định. Tổ vay vốn do các thành viên là hộ gia đình, cá nhân tự nguyện thành
lập có nhu cầu vay vốn, cùng cư trú tại địa bàn thôn, xóm. Thông thường tổ
vay vốn do các tổ chức sau thành lập:
+ Hội nông dân.
+ Hội liên hiệp phụ nữ.
+ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.

14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
+ Hội cựu chiến binh.
+ Các tổ chức chính trị - xã hội khác.
Trình tự thành lập tổ vay vốn:
+Thống nhất danh sách tổ viên, bầu ban lãnh đạo tổ.
+Ra quy ước hoạt động.
+Trình UBND xã (phường) xác nhận cho phép hoạt động.
 Thủ tục cho vay:
Để được vay vốn, tổ viên phải gửi tổ trưởng giấy đề nghị vay vốn và các
giấy tờ khác theo quy định.
Tổ trưởng nhận hồ sơ của tổ viên, tổ chức họp bình xét công khai điều
kiện vay vốn của từng tổ viên, sau đó tổng hợp danh sách những tổ viên có đủ
điều kiện vay vốn, đề nghị Ngân hàng xét duyệt cho vay.
Từng tổ viên ký hợp đồng tín dụng trực tiếp với NHNo&PTNT nơi cho
vay, hoặc tổ trưởng ký hợp đồng tín dụng với NHNo&PTNT nơi cho vay.
1.3. Hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng thương mại.
1.3.1. Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả cho vay.
Khái niệm: Hiệu quả cho vay là kết quả đầu tư vốn thu được sau một chu
kì sản xuất kinh doanh, kì sau cao hơn kì trước cả về số lượng và giá trị.
Các chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả cho vay:
Hiệu quả cho vay được đánh giá bằng sự so sách giữa hai chu kì sản xuất

kinh doanh. Chu kì trước chưa có sự đầu tư vốn kịp thời, thích hợp trong quá
trình sản xuất; chu kì sau có sự đầu tư vốn kịp thời, thích hợp trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Kết quả kinh doanh giữa hai chu kì được so sánh để
đánh giá. Do vậy hiệu quả cho vay được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
+ Chỉ tiêu về sản lượng hàng hóa.

15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
+ Chỉ tiêu về giá trị sản lượng hàng hóa
+ Lợi nhuận sau chu kì sản xuất kinh doanh.
+ Vòng quay vốn tín dụng.
+ Số lao động được giải quyết công ăn việc làm.
+ Tỉ lệ quá hạn, tỉ lệ thu lãi cho vay.
Từ những chỉ tiêu trên mà ta đánh giá được hiệu quả cho vay cao hay
thấp, cho vay có hiệu quả hay không hiệu quả, đông thời cũng đánh giá được
kết quả sử dụng vốn vay của khách hàng.
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của Ngân hàng
thương mại.
Sự ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của NHTM không chỉ chịu ảnh
hưởng giới hạn của một hay hai nhân tố (người đi vay và người cho vay) mà
còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố:
1.3.2.1. Chính sách của Đảng và nhà nước.
Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo
khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở hạn chế rủi ro, tuân thủ
phương pháp, đường lối chính sách của Nhà nước và đảm bảo công bằng xã
hội. Chính sách của Đảng và Nhà nước cũng là nhân tố ảnh hưởng tới hiệu
quả cho vay như:
+ Về cơ chế cho vay, về đảm bảo tiền vay, về giao đất giao rừng.
+ Về hành lang quản lí.
+ Về tiêu thụ, bao tiêu sản phẩm, trợ giá trong sản xuất nông nghiệp, đối

tượng cho vay…
+ Chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước đối với NHTM như thực hiện cơ chế

16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
cho vay mở rộng.
Chính sách có ổn định hay không ổn định cũng tác động đến chất lượng
tín dụng. Khi các chính sách này không ổn định sẽ gây khó khăn cho doanh
nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó gây trở ngại cho Ngân
hàng khi thu hồi nợ và ngược lại.
Hệ thống pháp luật là cơ sở để điều tiết các hoạt động trong nền kinh tế.
Nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, hay thay đổi sẽ làm cho hoạt động
kinh doanh gặp khó khăn. Ngược lại nếu nó phù hợp với thực tế khách quan
thì sẽ tạo ra môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến
hành thuận lợi và đạt kết quả cao.
1.3.2.2. Chủ quan của Ngân hàng thương mại.
Đây cũng là những nhân tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cho vay của
NHTM như:
Tình hình huy động vốn: Tình hình huy động vốn ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng. Vốn huy động ngắn hạn là nguồn chủ yếu để cho vay ngắn
hạn. Vốn huy động trung và dài hạn là nguồn chủ yếu để cho vay trung và dài
hạn. Vốn huy động càng lớn, Ngân hàng càng có khả năng cho vay, mở rộng
hoạt động tín dụng. Nếu ở Ngân hàng không có sự phù hợp về kỳ hạn giữa
nguồn huy động và cho vay mà không dự kiến được bù đáp thì rủi ro thanh
khoản sẽ xảy ra, điều này cũng dẫn tới làm giảm chất lượng tín dụng.
Phẩm chất và trình độ cán bộ: Chất lượng đội ngũ cán bộ Ngân hàng là
nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng nói chung và trong hoạt động tín dụng nói riêng. Sở dĩ như
vậy vì CBTD là người tham gia trực tiếp vào mọi khâu của quy trình tín dụng,
từ bước đầu tiên đến bước cuối cụng. CBTD mà không có đạo đức nghề

nghiệp, làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái pháp luật sẽ làm

17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng quyết
định đến sự thành công của công tác tín dụng. CBTD giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, có kỹ năng kinh nghiệm đánh giá chính xác tính khả thi của dự án,
xác định được tính chân thực của các báo cáo tài chính, phát hiện các hành vi
cố tình lừa đảo của khách hàng (như sửa chữa báo cáo tài chính, lập hồ sơ thế
chấp tài sản giả, dùng một tài sản thế chấp đi vay ở nhiều nơi…) từ đó phân
tích được khả năng quản lý và năng lực thực sự của khách hàng để quyết định
có cho vay hay không. Bên cạnh đó CBTD cần có sự hiểu biết rộng về pháp
luật, môi trường kinh tế xã hội, đường lối phát triển của đất nước, sự thay đổi
của thị trường…dự đoán trước được những biến động có thể xảy ra từ đó tư
vấn cho khách hàng xây dựng lại phương án kinh doanh phù hợp.
Công tác tổ chức Ngân hàng: Tổ chức của Ngân hàng cần cụ thể hóa và
sắp xếp có khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc đã
quy định. Ngân hàng được tổ chức một cách có khoa học sẽ đảm bảo được sự
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, giữa các Ngân hàng với
nhau trong toàn hệ thống cũng như với các cơ quan liên quan khác. Qua đó sẽ
tạo điều kiện đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng, quản lý có hiệu
quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín
dụng có vấn đề, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng.
1.3.2.3. Chủ quan của khách hàng vay vốn.
Khách hàng là người lập phương án, dự án xin vay và sau khi được Ngân
hàng chấp nhận, khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay để kinh
doanh. Vì vậy, khách hàng cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Năng lực của khách hàng: là nhân tố quyết định đến việc khách hàng sử
dụng vốn vay có hiệu quả hay không. Nếu năng lực của khách hàng yếu kém,
thể hiện ở việc không dự đoán được những biến động lên xuống của nhu cầu


18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
thị trường, không hiểu biết nhiều trong việc sản xuất, phân phối và khuếch
trương sản phẩm… thì sẽ dễ dàng bị gục ngã trong cạnh tranh. Từ đó làm ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ Ngân hàng, hiệu quả cho vay của Ngân hàng bị
ảnh hưởng. Và ngược lại năng lực của khách hàng càng cao thì khả năng cạnh
tranh trên thị trường càng lớn, vốn vay càng sử dụng có hiệu quả.
Sự trung thực của khách hàng: ảnh hưởng lớn tới hiệu quả cho vay của
Ngân hàng. Nếu doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng không cung cấp các số liệu
trung thực, vi phạm chế độ kế toán thống kê đã được ban hành thì sẽ gây khó
khăn cho Ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, cũng
như việc quản lý vốn vay của khách hàng, để qua đó có thể đưa ra quyết định
cho vay đúng đắn.
Nếu khách hàng sử dụng vốn vay Ngân hàng không đúng đối tượng kinh
doanh, không đúng với phương án, mục đích khi xin vay thì sẽ không được
trả nợ đúng hạn.
Rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng: Rủi ro là thuật ngữ
được sử dụng để chỉ những biến cố hay sự kiện xảy ra ngoài mong muốn và
đem lại hậu quả xấu. Rủi ro trong kinh doanh là một yếu tố tất yếu như người
ta thường nói “rủi ro là người bạn đồng hành của kinh doanh”. Rủi ro phát
sinh muôn màu muôn vẻ và là hệ quả của những nhân tố chủ quan hay khách
quan, nhưng chủ yếu là những nhân tố khách quan ngoài dự đoán của doanh
nghiệp.
Trong sản xuất kinh doanh, rủi ro phát sinh dưới nhiều hình thái khác
nhau: do thiên tai, chiến tranh, do năng lực sản xuất kinh doanh thấp, do sự
thay đổi chính sách kinh tế không hợp lý hoặc đột ngột… Ví dụ như giá bán
nguyên vật liệu tăng vọt nhưng giá bán sản phẩm không thay đổi sẽ làm lợi
nhuận của doanh nghiệp giảm, ảnh hưởng đến việc trả nợ Ngân hàng. Nếu


19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
doanh nghiệp, hộ sản xuất tăng giá bán sản phẩm lên thì sẽ bị khó khăn trong
việc tiêu thụ sản phẩm, khả năng thu hồi vốn chậm, dễ vi phạm thời gian trả
nợ.
Tài sản đảm bảo: Quyền sử hữu tài sản là một trong những tiêu chuẩn để
được cấp tín dụng (có thể là tài sản đảm bảo hoặc tín chấp). Tuy nhiên hiện
nay có rất nhiều tài sản của các pháp nhân và cá nhân không có giấy chứng
nhận sở hữu. Tài sản cố định phần lớn là nhà xưởng, máy móc, thiết bị lạc
hậu không đủ tiêu chuẩn thế chấp. Trong khi đó nhu cầu vay vốn Ngân hàng
là rất lớn. Như vậy nếu cho vay theo đúng chế độ thì hầu hết các doanh
nghiệp, hộ sản xuất không đủ điều kiện để cho vay hoặc được cho vay nhưng
không nhiều.
1.3.2.4. Môi trường kinh tế.
Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm các hoạt động kinh tế có quan hệ
biện chứng, ràng buộc lẫn nhau nên bất kì một sự biến động nào của một hoạt
động kinh tế nào đó cũng sẽ gây ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh của
các lĩnh vực còn lại. Hoạt động của NHTM có thể được coi là chiếc cầu nối
giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy, sự ổn định hay mất ổn
định của nền kinh tế sẽ có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của Ngân hàng,
đặc biệt là hoạt động tín dụng.
Các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, khủng hoảng sẽ ảnh hưởng rất
nhiều tới hiệu quả cho vay. Một nền kinh tế ổn định tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ
tạo điều kiện cho các khoản tín dụng có chất lượng cao. Tức là các doanh
nghiệp hoạt động trong một môi trường ổn định thì khả năng tạo ra lợi nhuận
cao hơn, từ đó mà có thể trả vốn và lãi cho Ngân hàng. Ngược lại khi nền
kinh tế biến động thì các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh cũng thất
thường ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp không phát triển được.

20

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
Một nhân tố nữa ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay đó là lãi suất tiền vay.
Nếu lãi suất tiền vay cao sẽ làm tăng chi phí, giảm thu nhập của doanh
nghiệp, hạn chế khả năng phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh. Lúc này
tín dụng Ngân hàng không thể làm tròn vai trò: là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất
phát triển và hiệu quả cho vay cũng bị ảnh hưởng theo. Với phương châm đi
vay để cho vay, các NHTM cần phải cố gắng để có thể đưa ra một mức lãi
suất thích hợp để vừa có thể thu hút được vốn nhàn rỗi trong xã hội nhưng lại
không bị ứ đọng vốn mà vẫn bảo toàn được vốn, đem lại lợi nhuận cao và
thắng được trong cạnh tranh.
1.3.2.5. Môi trường tự nhiên.
Những biến động bất khả kháng xảy ra trong môi trường tự nhiên như
thiên tai (hạn hán, lũ lụt, động đất, dịch bệnh…) làm ảnh hưởng tới hoạt động
sản xuất kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là trong các ngành có liên quan
đến nông nghiệp, thủy sản, hải sản. Vì vậy khi môi trường tự nhiên không
thuận lợi thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn không có vốn trả vốn vay từ đó
gây ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của Ngân hàng.
Xuất phát từ chức năng của NHTM là đi vay để cho vay nên vốn cho vay
phải hoàn trả đúng hạn gốc + lãi. Có như vậy Ngân hàng mới đảm bảo sự hoạt
động bình thường đáp ứng được nhu cầu vốn đối với hộ sản xuất cũng như
nền kinh tế. Vì vậy, phải nâng cao hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất, có
như vậy mới giúp hộ sản xuất có vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh,
mang lại hiệu quả, tăng thêm thu nhập cho gia đình, tăng thêm sản phẩm cho
xã hội, tạo công ăn việc làm cho chính bản thân gia đình họ. Phát huy được
mọi nguồn lực ở nông thôn từ đó khôi phục và phát triển làng nghề truyền
thống, mở rộng và phát triển tiểu thủ công nghiệp đáp ứng và phù hợp với nhu
cầu thị trường.

21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt

CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG HỘ SẢN
XUẤT TẠI NHNo&PTNT SÓC SƠN
2.1. Khái quát về hoạt động của NHNo&PTNT Sóc Sơn.
2.1.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của NHNo&PTNT
Sóc Sơn.
NHNo&PTNT Sóc Sơn được thành lập theo nghị định 53/HĐBT ngày
26/03/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ). Theo nghị định này
chuyển đổi toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp:
cấp quản lý vĩ mô là Ngân hàng Nhà nước, và cấp kinh doanh là các Ngân
hàng chuyên doanh. Đến ngày 01/10/1990 các Ngân hàng chuyên doanh này
được gọi với tên chính thức là Ngân hàng thương mại. Từ năm 1988 đến 1994
NHNo&PTNT Sóc Sơn là đơn vị trực thuộc thẳng trung tâm điều hành (Ngân
hàng trung ương) của NHNo&PTNT Việt Nam. Như vậy chi nhánh
NHNo&PTNT Sóc Sơn là chi nhánh cấp I loại II đơn vị trực thuộc
NHNo&PTNT Việt Nam.
Ngay từ khi mới thành lập NHNo&PTNT Sóc Sơn đã phải đối mặt với
vô vàn khó khăn và thử thách như: lực lượng cán bộ ít ỏi và trình độ chuyên
môn còn thấp, mạng lưới hoạt động ít, cơ sở vật chất thiếu thốn và lạc hậu vì
kết quả hoạt động kinh doanh khi mới thành lập chủ yếu dựa vào hoạt động
tín dụng, song nguồn vốn chỉ có khoảng 1,6 tỷ đồng. Được tập trung cho vay
hai thành phần kinh tế là: Doanh nghiệp Nhà nước 38% và HTX 62%, nợ quá
hạn chiếm 5,3% trên tổng dư nợ. Cơ chế tín dụng lúc giờ mang đậm bao cấp:
cho vay theo chỉ định, theo kế hoạch nhà nước, lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi
suất huy động. Vì vậy hoạt động của NHNo&PTNT nói chung và hoạt động
tín dụng nói riêng gặp muôn vàn khó khăn và thử thách, không có định hướng

22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
và lung túng về đối tượng đầu tư.

Đầu năm 1991, sau khi có văn bản 53/NHNg “Về biện pháp cho vay
ngắn hạn, trung hạn đối với hộ nông dân” của Tổng giám đốc NHNo Việt
Nam, NHNo&PTNT Sóc Sơn đã tiếp cận cho vay đối tượng sản xuất. Mặc dù
hộ sản xuất đã được xác định là khu văn hóa tự chủ, được giao quyền sử dụng
đất lâu dài, song việc đầu tư cho vay kinh tế hộ ở NHNo&PTNT vẫn rất dè
dặt. Dư nợ cuối năm 1991 của cho vay kinh tế hộ là 113 triệu đồng, bằng 4%
trên tổng dư nợ. Chỉ sau khi có chỉ thị 202/CT ngày 28/06/1991 và Nghị định
14/CP ngày 02/03/1993 của Chính Phủ, trên cơ sở quy định 499/NHNo ngày
23/07/1991 và tiếp đến là quyết định 499A/NHNo – TDNT ngày 02/09/1993
của Tổng giám đốc NHNo&PTNT thì việc cho vay hộ sản xuất của Ngân
hàng mới có bước chuyển biến mới. Từ chỗ cho vay gián tiếp qua các tổ chức
chuyển sang cho vay trực tiếp hộ sản xuất. Kết quả cho vay kinh tế hộ từ năm
1992 đến năm 1995 không ngừng tăng trưởng, bình quân hàng năm trong giai
đoạn này cho vay kinh tế hộ tăng hơn 200%. Đến năm 1995 dư nợ kinh tế hộ
chiếm 41% tổng dư nợ của NHNo&PTNT Sóc Sơn. Mặc dù không thuần túy
là kinh doanh theo lợi nhuận, nhưng thực chất không còn là bao cấp trong
hoạt động tín dụng, góp phần quan trọng đưa NHNo&PTNT Sóc Sơn vào
hoạt động thương mại.
Cho đến năm 2001, sau 10 năm cho vay kinh tế hộ của NHNo&PTNT
Việt Nam đạt được kết quả to lớn về kinh tế và xã hội, đã đòi hỏi hệ thống
NHNo&PTNT phải đa dạng hóa cơ cấu đầu tư, đối tượng khách hàng, trong
đó đặc biệt chú trọng đến khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hầu hết được thành lập theo luật doanh nghiệp với số
lượng ngày càng tăng theo các năm. Các doanh nghiệp này lại được Chính
phủ hỗ trợ thông qua Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001. Có thể nói
đây là một chủ chương đột phá về định hướng phát triển doanh nghiệp, một

23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
môi trường thuận lợi cho sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng hoạt

động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời đây cũng là một thị trường
tiềm năng để Ngân hàng đầu tư tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
Trong quá trình thực hiện đề án cơ cấu lại Ngân hàng giai đoạn 2001 -
2010 và đề án kinh doanh trên địa bàn đô thị loại I. NHNo&PTNT đã xác
định ngoài việc đẩy mạnh cho vay kinh tế hộ sản xuất, thì việc cho vay các
doanh nghiệp vừa và nhỏ được xác định là một hướng đầu tư mới, góp phần
mở rộng đầu tư tín dụng và mở rộng thị phần trong các sản phẩm dịch vụ
Ngân hàng trên địa bàn huyện.
Với nhận thức đó, 8 năm qua chi nhánh NHNo&PTNT Sóc Sơn đã tích
cực huy động vốn và đáp ứng kịp thời các nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế,
trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ sản xuất kinh doanh… Tính
đến cuối năm 2008, kết quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ sản
xuất kinh doanh đã đạt được nhiều thành công đáng ghi nhận.
Sau 20 năm hoạt động, trải qua những biến đổi về kinh tế của đất nước,
cũng như khu vực, NHNo&PTNT Sóc Sơn đã có nhiều thay đổi, trưởng thành
hơn. Ban đầu NHNo&PTNT Sóc Sơn đứng trên một địa bàn có nhiều khó
khăn, kinh tế phát triển chậm, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, trình độ dân trí còn
thấp… Sản xuất nông nghiệp là chính, nền kinh tế của huyện chủ yếu trồng
lúa, lương thực và hoa màu, kinh tế trang trại đang khởi sắc nhưng chưa phát
triển thực sự xứng đáng với điều kiện tự nhiên và xã hội của huyện, hoạt động
kinh doanh của NHNo&PTNT Sóc Sơn cũng gặp không ít khó khăn, nhưng
với sự nỗ lực của ban giám đốc, cán bộ CNV trong toàn cơ quan mà chi
nhánh NHNo&PTNT Sóc Sơn ngày càng phát triển và dành được chỗ đứng
vững chắc trên thị trường. Sau đó, đứng trước nhu cầu phải thay đổi để phù
hợp với nền kinh tế thị trường, NHNo&PTNT không ngừng có những biến
đổi tích cực và ngày càng hoàn thiện hơn về mọi mặt nhất là làm tốt công tác

24
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Cho vay hé s¶n xuÊt
phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở địa phương để thực

hiện nghiệp vụ cho vay, thu nợ, chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, tổ
chức thanh toán hợp lý, chính xác, kịp thời. Công tác kho quỹ an toàn khoa
học, các công tác khác đều thực hiện tốt. Trên cơ sở đó từng bước đầu tư
chiều sâu, trang thiết bị làm việc hiện đại, đội ngũ cán bộ CNV từ cán bộ lãnh
đạo điều hành đến nhân viên tác nghiệp được đào tạo lại, trình độ mọi mặt
không ngừng được nâng cao và ngày càng tỏ ra thích ứng với cơ chế thị
trường. Chính vì vậy hoạt động Ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu rất
đáng ghi nhận. Không những về mặt chất lượng mà chi nhánh còn phát triển
thêm về mặt số lượng. Ngoài việc thực hiện kế hoạch kinh doanh hàng năm
do NHNo&PTNT Việt Nam giao, chi nhánh Sóc Sơn còn chú trọng triển khai
các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, góp phần cùng Đảng bộ, chính quyền
địa phương xây dựng địa bàn ngày một phát triển.
2.1.2. Mô hình tổ chức của NHNo&PTNT Sóc Sơn.
Cho đến nay NHNo&PTNT Sóc Sơn đã từng bước kiện toàn hoàn chỉnh
mô hình tổ chức và công tác cán bộ.
NHNo&PTNT Sóc Sơn gồm một hội sở chính (tại trung tâm thị trấn Sóc
Sơn) và 7 phòng giao dịch với tổng số cán bộ công nhân viên là 97 người
được bố trí theo mô hình sau:

25
NGÂN HÀNG No&PTNT SÓC SƠN
PGD
Phù
Lỗ
PGD
Nội
Bài
PGD
Kim
Anh

PGD
Nỷ Hội sở
PGD
nhà ga
T1
PGD
KCN
Nội
Bài
PGD
KCN
Nội
Bài
Ban l·nh ®¹o
Phòng
Kế toán
ngân
quỹ
Phòng
KH
Kinh
doanh
Điện
toán và
dịch vụ
NH
Phòng
thanh
toán
quốc tế

Phòng
hành
chính
nhân sự
Phòng
KTKS
nội bộ

×