Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

SKKN văn lớp 6_ Dạy học truyện cười

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.07 KB, 35 trang )

1
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
Phần 1
Đặt vấn đề
I. Lý do chọn đề tài
1.Cơ sở lý luận
Nh chúng ta đã biết xu thế phát triển chung của thế giới hiện nay
là ngày càng khẳng định vai trò tích cực của con ngời trong việc chiếm
lĩnh các tri thức khoa học. Việc đào tạo những con ngời có đủ Nhân-
Trí-Dũng là thật sự cần thiết. Để con ngời có thể phát triển, một cách
toàn diện đợc, cần rất nhiều yếu tố, trong đó văn học cũng góp phần
không nhỏ vào quá trình rèn luyện nhân cách con ngời mới. Do khuôn
khổ sáng kiến kinh nghiệm có hạn cho nên ngời viết chỉ đề cập đến
một vấn đề nhỏ là: Dạy học truyện cời trong chơng trình Ngữ văn 6.
Truyện cời, nằm trong hệ thống dân gian, là thể loại văn học thể
hiện rõ cái nét tinh thần lạc quan, trí thông minh sắc sảo và tinh thần
đấu tranh chống cái xấu của nhân dân lao động. Vì thế nó có sức
mạnh, tác dụng riêng trong việc bồi dỡng vẻ đẹp nhân cách, bồi đắp
tâm hồn dân tộc, rèn luyện nhân cách cho thế hệ trẻ. Vấn đề đặt ra là
phải dạy và học truyện cời nh thế nào để đạt hiệu quả giáo dục cao
nhất.
2.Cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn việc học và truyện cời từ trớc tới nay cha thật đợc chú
trọng. Trong nhiều giờ dạy một số giáo viên chỉ đi khai thác nội dung
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
2
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
truyện cời một cách sơ giản, đơn điệu. Do vậy cha gây đợc sự hứng thú


của học sinh hoặc đã chỉ đợc ra yếu tố gây cời nhng cha nêu bật đợc ý
nghĩa của cái cời.
Từ thực tế đó tôi thấy mình cần phải có một phơng pháp dạy
truyện cời thích hợp để học sinh không chỉ nắm chắc kiến thức của bài
học mà còn say mê học một cách sáng tạo. Hơn nữa để đáp ứng với
phơng pháp dạy học theo yêu cầu của chơng trình SGK mới, ngời giáo
viên không chỉ dựa vào những giáo trình thiết kế bài giảng một cách
đơn thuần mà phải có một kiến thức, một phơng pháp sáng tạo để hớng
học sinh tự học tập, tự tìm tòi, và nắm bắt kiến thức một cách có chiều
rộng, chiều sâu. Chính vì vậy mà với bài viết nhỏ này ngời viết xin đợc
đề cập đến vấn đề: Dạy-Học truyện cời trong chơng trình Ngữ văn 6
theo hớng tích hợp.
II. Lịch sử vấn đề
Vấn đề này đã đợc các giáo s nghiên cứu và viết thành nhiều
cuốn sách mà tiêu biểu là cuốn Phân tích tổng hợp Văn học dân gian
của giáo s Đỗ Bình Trị. Nhng với công trình nghiên cứu đó mới đa ra
vấn để ở mức độ chung chung, mang tính lý thuyết, cha đi vào cụ thể
một vấn đề. Cho nên trong bài viết này ngời viết mong muốn trên cơ
sở học tập với những kết quả đã đợc nghiên cứu của những ngời đi trớc
cùng với sự suy nghĩ sáng tạo của bản thân để đi vào một vấn đề cụ
thể, thiết thực, đáp ứng nhu cầu Dạy-học một mảng kiến thức trong
chơng trình Ngữ văn 6 thể loại truyện cời.
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
3
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu tổng hợp các đặc điểm nổi bật của truyện cời từ đó tìm
ra cách giảng dạy có hiệu quả.

IV. Dự kiến những đóng góp
Trên cơ sở là một số ý kiến cá nhân, sáng kiến kinh nghiệm
mong muốn đợc sự góp ý của các đồng nghiệp để cho việc giảng dạy
bộ môn đạt đợc kết quả cao.
V.Phơng pháp nghiên cứu, nguồn t liệu và đối tợng
1. Phơng pháp nghiên cứu.
Trớc hết ngời viết sáng kiến này đi từ những vấn đề lý thuyết
mang tính định hớng. Đó là bài viết, các công trình nghiên cứu khoa
học của các giáo s, các nhà nghiên cứu lý luận về Truyện cời.
Từ việc nghiên cứu ngời viết đã áp dụng lý thuyết vào thực tiễn
giảng dạy của bản thân qua nhiều năm giảng dạy. Trên cơ sở thực tế,
qua các giờ chuyên đề và trao đổi trực tiếp với các giáo viên giảng dạy
và sự tiếp thu của học sinh, ngời viết Sáng kiến kinh nghiệm đã kết
hợp với các phơng pháp nghiên cứu sau:
- Phơng pháp học - tiếp xúc văn bản.
- Phơng pháp khái quát vấn đề.
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
4
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
- Phơng pháp phân tích tổng hợp giúp học sinh đi từ những ấn t-
ợng tổng quát đến chi tiết cụ thể và từ cụ thể quay trở lại nhận thức
tổng quát.
Tuy nhiên việc áp dụng những phơng pháp này hết sức sáng tạo,
tuỳ từ hoàn cảnh cụ thể để đem lại kết quả cao.
2. Nguồn t liệu:
Tác giả của Sáng kiến kinh nghiệm khi nghiên cứu có tham
khảo một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về phơng
pháp phân tích tác phẩm văn học dân gian.

Cụ thể: - Phân tích tổng hợp Văn học dân gian
- Truyện cời Việt Nam.
Ngoài ra còn tham khảo một số các bài viết của các tác giả trong
báo Thế giới quanh ta, Văn học và tuổi trẻ.
3. Đối tợng nghiên cứu:
- Đối tợng nghiên cứu của Sáng kiến kinh nghiệm là học sinh
lớp 6 trờng THCS Nguyễn Trờng Tộ, quận Đống Đa, Hà Nội.
- Thông qua quá trình giảng dạy học sinh lớp 6 để rút ra những
vấn đề mang tính lý thuyết và thể nghiệm kết quả nghiên cứu.
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
5
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
VI. Bố cục
Sáng kiến kinh nghiệm gồm: 33 trang
Chia làm 3 phần:
Phần A: Phần mở đầu
Gồm 6 mục:
Mục I: Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
Mục II: Lịch sử vấn đề.
Mục III: Nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục IV: Dự kiến những đóng góp.
Mục V:Phơng pháp nghiên cứu, nguồn t liệu và đối tợng
Mục VI: Bố cục.
Phần B: Nội dung
Gồm 2 chơng mục:
Chơng mục I: Kết quả nghiên cứu về lý luận.
Chơng mục II: Bài soạn thực nghiệm.
Phần C: Kết luận

Gồm 2 th mục:
Mục I: Kết luận.
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
6
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
Mục II: Những kiến nghị.
Phần 2
nội dung
Chơng I: Kết quả nghiên cứu về lý luận
I. Cơ sở hình thành cách dạy học truyện cời
1. Mục tiêu môn học:
Chơng trình ngữ văn hoá bậc THCS nói chung và chơng trình
Ngữ văn 6 nói riêng đặt mục tiêu trớc tiên, cao nhất là góp phần hình
thành những con ngời có ý thức tự tu dỡng, biết yêu thơng, quý trọng
gia đình, bè bạn; có lòng yêu nớc, yêu CNXH, biết hớng tới những t t-
ởng tình cảm cao đẹp nh lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự
công bằng, lòng căm ghét cái xấu cái ác. Đó là những con ngời có t
duy sáng tạo, bớc đầu có năng lực cảm thụ các giá trị những con ngời
có t duy sáng tạo, bớc đầu có năng lực cảm thụ các giá trị Chân-Thiện-
Mỹ.
ở phạm vi nhỏ hơn Truyện cời hớng các em tìm hiểu những
hành vi thói quen, nững tật xấu có tính chất phổ biến (Hay khoe
khoang, sỹ diện, ích kỷ). Qua đó các em tự rút ra những bài học cần
thiết cho bản thân mình.
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
7
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -

2010
2. Viêc dạy học bộ môn theo quan điểm tích hợp:
Cùng với sự ra đời của SGK Ngữ văn 6 thì quan điểm dạy học
tích hợp đợc lấy làm nguyên tắc tổ chức nội dung chơng trình
Tích hợp là quan điểm phối kết hợp các tri thức của một số môn
học có nét tơng đồng vào một lĩnh vực chung. Đây không phải quan
điểm hoàn toàn mới, bởi trên thực tế, nhiều nh giáo có kinh nghiệm đã
dùng, ngay cả giáo viên trong các bài giảng đã động chạm đến. Nh-
ng đó chỉ là một việc làm không thờng xuyên, không triệt để, không
trở thành yêu cầu bắt buộc.
Tuy nhiên, dạy ba phân môn nh một thể thống nhất là vấn đề rất
mới mẻ, yêu cầu vừa giữ đợc đặc trng cơ bản của từng phân môn vừa
hoà nhập để hớng tới một mục tiêu. Để làm đợc điều này, giáo viên
phải có sự sáng tạo, phải đầu t thời gian trong quá trình soạn giảng,
tìm ra yếu tố đồng quy giữa ba phân môn và tích hợp trong từng thời
điểm, từng vấn đề.
Đối với học sinh học theo quan điểm tích hợp các em sẽ có điều
kiện khắc sâu kiến thức, nắm chắc bài ở cả ba phân môn. Từ đó hình
thành và rèn luyện co các em 4 kỹ năng: Nghe-Nói-Đọc-Viết (hiểu
theo nghĩa rộng nhất).
3. Những đặc trng của thể loại truyện cời:
Muốn dạy tốt thể loại truyện cời, giáo viên cần nắm đợc những
đặc điểm nổi bật của thể loại để có thể vận dụng tốt trong từng bài dạy
cụ thể. Đồng thời nhận diện đúng các truyện cời đợc chọn lọc trong
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
8
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
chơng trình ngữ văn 6 để xác định đúng yêu cầu, mức độ và cách Dạy-

Học cho sát với đối tợng.
Truyện cời là những truyện kể về hiện tợng đáng cời trong cuộc
sống, trong hành vi của ngời đời, nhằm gây ra cái cời. Căn cứ vào tính
chất của cái đáng cời nh đã nói ở trên ngời ta tạm chia truyện cời thành
hai tiểu loại:
+ Truyện hài hớc (truyện khi hài).
+ Truyên châm biếm (truyện trào phúng).
Ranh giới giữa hài hớc và châm biếm không phải lúc nào cũng rõ
ràng rành mạch. Nhng viêc phân biệt hài hớc với châm biếm lại thờng
đợc nhấn mạnh nh một yêu cầu có tính chất nguyên tắc trong sử dụng
cái cời. Về đại thể có thể phân biệt một cách quy ớc là: Truyện hài hớc
chủ yếu nhằm mục đích mua vui tuy cũng có thể có ý nghĩa phê phán,
còn truyện châm biếm tuy cũng có tác dụng giải trí nhng dụng ý là
nhằm đả kích; do đó, truyện hài hớc chuyên về khai thác các hiện tợng
buồn cời ở những hiểu lầm, những lầm lỡ, hớ hênh thờng tình hoặc
những nhợc điểm phổ biến của một lứa tuổi, một nghề nghiệp, một địa
phơng, thậm chí, ở những khuyết tật bẩm sinh (lẽ ra không nên đem ra
cời cợt) của ngời ta, còn truyện châm biếm thờng tìm cái đáng cời ở
những hiện tợng những hành vi bộc lộ nét bản chất của cái thói xấu
làm ảnh hởng đến thể thống con ngời, những thói xấu phản xã hội.
Đề tài của cái cời rất rộng. Ngời ra tìm cái cời ở mọi lĩnh vực,
mọi ngóc ngách của cuộc sống. Nhng ngời ta có thể nghĩ ra cái cời về
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
9
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
đủ mọi truyện. Ngời ta cũng có thể biến ngay những điều nghiêm túc
thành truyện buồn cời. Nhng hệ đề tài của truyện cời dân gian thì có
giới hạn. Sau đây là những đề tài tơng đối chụm của truyện cời dân

gian Việt Nam.
+ Những cái xấu thuộc về bản chất bộc lộ chủ yếu ở những hành
vi buồn cời trong sinh hoạt của các nhân vật tiêu biểu của xã hội
phong kiến: vua chúa, quan lại, địa chủ, phú ông.
+ Những thói xấu thông thờng ở ngời bình dân bộc lộ những gì
buồn cời trong hành động của họ.
+ Những hiện tợng buồn cời do hiểu lầm, lầm lỡ, hớ hênh, mà th-
ờng tình cũng có thể có lúc mắc phải, hoặc do những nhợc điểm,
những khuyết tật không gây tổn hại cho ai.
b.Về chức năng:
Truyện cời là truyện để cời, tức là để gây ra cái cời. Muốn hiểu
đợc mục đích đó cần làm rõ hai khái niệm: Cái đáng cời và cái cời.
+ Cái đáng cời là cái gây ra cái cời. Đó là những hiện tợng mang
một loại mâu thuẫn đặc biệt: hình thức bên ngoài có vẻ phù hợp với
nội dung bên trong nhng lại để lộ ra sự không phù hợp, tóm lại đó là
những hiện tợng ở đó có một cái gì đó ngợc đời.
+ Cái cời là hành động cời, do cái đáng cời gây ra và do trí óc ta
phát hiện ra cái đáng cời. Nhng, có cái đáng cời mà trí óc ta không
phát hiện ra nó, tức là không phát hiện ra cái ngợc đời ở hiện tợng thì
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
10
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
cũng không có cái cời. (Ta có thể kiểm nghiệm đợc điều này khi quan
sát trờng hợp: cùng nghe kể truyện cời hoặc xem một tranh cời, có ng-
ời cời trớc, ngời cời sau, và có khi có ngời nghĩ mãi mới cời đợc).
Cái cời hài hớc và cái cời châm biếm là sản phẩm của nhận thức
lý tính. Khi ta cời trớc một hiện tợng, một hành vi nào đó mà ta nghe,
ta thấy, ta xem, chính là t duy phát hiện ra cái ngợc đời mang bề ngoài

hợp lẽ đời đã đánh lừa luận lý của nó. Sự phát hiện đó đem lại niềm
vui; tựa hồ nh t duy ta thích thú với sự khám phá đó, làm nở ra cái c-
ời trong óc (ngời ta có thể cời mà không nhếch mép); cái cời đi từ óc
ra môi, miệng, thành tiếng cời cả trăm cung bậc, sắc thái (tuỳ theo tính
chất cái đáng cời và cái tạng của ngời cời). Đồng thời, bản thân sự phát
hiện ra cái đáng cời cũng bao hàm một ý nghĩa phê phán nhất định,
theo nghĩa rộng của từ này - phê phán từ quan điểm của t duy, logíc,
duy lý và hoặc phê phán từ quan điểm của ý thức t tởng (ý nghĩa này
chỉ có ở cái cời châm biếm).
Hiểu nh trên, chúng ta sẽ thấy không có gì phải phân vân khi nói
truyện cời làm ra là để cời. Vì mục đích mua vui và mục đích phê
phán nằm ngay ở cái cời do truyện gây ra.
Chức năng sinh hoạt của truyện cời dân gian gắn với ý nghĩa
nhân sinh, ý nghĩa xã hội sắc bén của nó. Do đó, truyện cời là thể loại
có sức lu truyền rất mạnh. Tuy nó không có chức năng răn dạy trực
tiếp nh truyện cổ tích, truyền thuyết, nhng truyện có tác dụng giáo dục
độc đáo: nó mài sắc t duy suy lý, nó làm giàu óc phê phán, giúp trau
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
11
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
dồi khả năng sử dụng ngôn ngữ. Chúng ta hiểu vì sao những ngời có
tài hài hớc, châm biếm thờng nhanh nhậy, thông minh, sắc sảo, thú vị
trong ứng đối. Xa kia, ông cha ta đã tỏ ra rất biết cách bày cho trẻ vui
chơi, làm cho trẻ em vui cời bằng phong cách thiếu nhi và dạy trẻ qua
cách đó. Trớc nay, Maxim Gorki cũng đòi hỏi phải vạch rõ một cách
tài tình và dí dỏm cho trẻ thấy những tật xấu của quá khứ. Truyện cời
dân gian không thuộc kho tàng văn hoá dân gian thiếu nhi nhng chúng
ta có thể lựa chọn trong đó một số truyện hài hớc và một ít truyện

châm biếm nhẹ nhàng cho các em đọc và tập phân tích. Việc này
chẳng những khiến cho chơng trình và SGK Văn học trở nên hấp dẫn
hơn với các em mà còn giúp các em phát triển về nhiều mặt nh đã nói
ở trên.
c. Về thi pháp:
Truyện cời là thể loại truyện kể ngắn gọn bậc nhất. Dài cũng chỉ
từ 15-20 câu. Ngắn thì 5-7 câu. Trung bình khoảng trên dới 10 câu.
Tuy ngắn thế, nhng cũng là cả một câu chuyện có mở đầu, có diễn
biến, có kết thúc. Và cũng có nhân vật, lại phần lớn là nhân vật có
nét khó quên. Toàn bộ các yếu tố của thi pháp truyện cời nh kết cấu,
nhân vật, ngôn ngữ kể truyện đều phục vụ mục đích gây cời.
+ Về kết cấu.
Mấu chốt của nghệ thuật gây cời là ở chỗ phải làm sao cho cái
đáng cời tự nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sinh động, nực cời để ngời
nghe (hoặc ngời đọc) tự mình phát hiện ra nó mà bật cời. Cái đáng cời
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
12
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
có thể là một thói xấu nào đó, chẳng hạn thói keo kiệt (Ví dụ: Thà chết
còn hơn). Nhng bản thân thói xấu cha đủ gay kinh khủng, keo kiệt đến
mức coi đồng tiền hơn cả tính mạng mình , thì chẳng ai nhếch mép.
Ngời ta phải tạo ra một hoàn cảnh thích hợp để mâu thuẫn tiềm tàng
bộc lộ dới dạng cái ngợc đời: đó là đặt anh keo kiệt vào hoàn cảnh dẫn
tới tình huống phải lựa chọn giữa ba quan tiền giắt lng và việc chết
đuối với ba quan tiền ấy.
Vì cái đáng cời là hiện tợng có mâu thuẫn- một loại mâu thuẫn
đặc biệt nên truyện cời đợc cấu tạo nh một màn kịch.
- Giới thiệu hiện tợng có mâu thuẫn tiềm tàng.

- Mâu thuẫn tiềm tàng phát triển đến đỉnh điểm.
- Mâu thuẫn bộc lộ (mâu thuẫn đợc giải quyết).
ở đây cần nói rõ thêm hiện tợng có mâu thuẫn tiềm tàng là hiện
tợng mang sẵn cái đáng cời chỉ nhờ có điều kiện để tự bộc lộ và bị
phát hiện.
Với truyện cời (không phải với nghệ thuật kịch) mâu thuẫn đợc
giải quyết, đó là lúc cái đáng cời buông lửng hay có kết thúc: truyện
cời không tự đặt cho mình nhiệm vụ kể lại số phận cuộc đời của nhân
vật nh truyện cổ tích. Nó chỉ kể lại một câu chuyện buồn cời nhằm
mục đích gây cời. Khi cái cời nổ ra tức là mục đích của truyện đã đạt
và chuyện cũng kết thúc ở đây. Truyện cời bao giờ cũng có kết thúc,
kết thúc trọn vẹn. Có những truyện cời gây cái cời rền. Có những
truyện cời chỉ gây ra cái cời ở điểm kết. Nhng truyên cời luôn luôn
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
13
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
dành cho ngời nghe cái cời đích đáng nhất ở chỗ kết thúc. Đó là chỗ
ngời nghe bị bất ngờ hơn cả. Điều này cũng chứng tỏ truyện cời dân
gian thờng đợc cấu tạo một cách hết sức chặt chẽ, đặc biệt trong việc
lựa chọn, bố trí, sắp xếp các chi tiết.
+ Về nhân vật:
Nhân vật trong truyện cổ tích có cả một số phận, một cuộc đời.
Nhân vật của truyện cời không có bề dày nh thế. Nhân vật truyện cời
đơn giản chỉ là hành vi ứng xử của nó trong một hoàn cảnh nhất định
vàhành vi ứng xử ấy luôn luôn biểu hiện ở lời nói (không phải ngẫu
nhiên mà truyện cời thờng đợc các nhà nghiên cứu Tiếng Việt sử dụng
nh một thứ ngữ liệu đặc sắc).
Vấn đề đặt ra là đối tợng của cái cời trong truyện cời là cái đáng

cời mà nhân vật để lộ ra qua hành vi ứng xử của nó hay là bản thân
nhân vật ấy? Ta có thể nhận thấy: Có những trờng hợp, khi ta cời, ta
chú ý đến cái đáng cời hơn là ngời gây ra cái đáng cời, nói cách khác
ta cời cái đáng cời hơn là cời nhân vật gây ra cái đáng cời ấy đó là cái
cời hài hớc. (Ví dụ: Truyện Lợn cới áo mới; truyện Thà chết còn hơn).
Tuy nhiên, không nên quên rằng ngay cả với những trờng hợp truyện
cời ra đòn châm biếm chết ngời (Quan huyện thanh liêm; Thơm rồi
lại thối), công việc phân tích vẫn phải tập trung vào cái đáng cời chứ
không tiến hành theo hớng phân tích nhân vật.
+ Về cách tạo tình huống.
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
14
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
Truyện cời Việt Nam thờng bật ra ngay tiếng cời khi đọc truyện
hoặc nghe truyện. Điều này khác hẳn truyện cời các nớc khác. Truyện
cời phơng Tây khi đọc xong phải suy nghĩ một lúc thì tiếng cời mới
bật ra. Truyện cời Trung Quốc thờng có nét thâm thuý riêng, nên ở
nhiều truyện cũng phải suy nghĩ một lúc thì mới thấy tiếng cời ẩn chứa
trong từng dòng chữ triết lý.
Truyện cời Việt Nam không thế, khi đọc truyện, nghe truyện,
cảm tính và lý trí cũng đợc tác động và tiếng cời lập tức oà ra một cách
khoái trá, nh không thể cỡng nổi. Đó là tiếng cời đợc tạo nên do những
hiện tợng đáng cời chứ không phải do suy nghĩ mang tính triết lý.
Truyện cời Việt Nam đã tạo ra đợc những kịch tính và tình
huống rất hay để gây cời làm cho tiếng cời bật ra một cách dễ dàng
khoái trá. Vì vậy khi đọc truyện cời cần chú ý đến kịch tính và cách
tạo tình huống gây cời.
Truyện cời thờng ngắn gọn có khi rất ngắn giống nh một màn

kịch đặc sắc, có kết cấu chặt chẽ. Khi tiếng cời oà ra thì truyện cũng
kết thúc, tác giả dân gian không cần dài lời để triết lý, bình luận gì cả.
Cách kết thúc ấy thờng đột ngột làm cho tiếng cời bật ra nhng lại ngân
vang để giữ mãi tiếng cời sảng khoái thú vị trong lòng ngời đọc, ngời
nghe. Vì vậy có thể xem phần kết thúc là phần hay nhất, là phần kết
tinh thăng hoa của truyện cời Việt Nam. Khi dạy học cần hớng sự chú
ý của học sinh vào phần kết thúc truyện để tìm hiểu và khai thác hết
cái hay của nó.
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
15
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
II. Về CÔNG VIệC PHÂN TíCH TRUYệN CƯờI.
1. Định hớng phân tích nội dung:
Thấu suốt bản chất của cái cời và hiểu mục đích của truyện cời là
gây ra cái cời, ta sẽ nhận rõ nhiệm vụ của bài học về truyện cời, trớc
hết là phải giúp học sinh hiểu đợc họ cời cái gì? Vì sao mà cời? Trên
thực tế không phải ai cũng giải thích đợc rõ ràng nguyên do cái cời của
mình. Cho nên, bài học về truyện cời không thể dừng lại ở chỗ làm
cho học sinh cời. Nếu thế chỉ cần kể cái chuyện cời định đem ra giảng
dạy.
Đối với học sinh, đọc truyện cời thì vui, nhng phải suy nghĩ để
trả lời những câu hỏi cời cái gì ? Vì sao mà cời ?, chắc không phải
chuyện dễ. Tuy vậy, đó cũng không phải điều quá khó. Chỉ cần giáo
viên gợi ý để các em tự mình phân tích tự nhìn lại quá trình sinh thành
của cái cời trong óc các em, các em sẽ cắt nghĩa đợc cái cời của mình.
Và các em sẽ cảm thấy hào hứng hơn so với khi chỉ cời mà không tự
hỏi mình cời cái gì ? Vì sao mình cời ?
Trên cơ sở yêu cầu làm cho học sinh có ý thức về cái cời của

mình, lý giải đợc nguyên do cái cời của mình, cần hớng dẫn để các em
suy nghĩ tiếp về cái đáng cời, về những điều nằm sau hành vi gây ra
cái cời cùng thói xấu mà hành vi đó đã để lộ ra.
ý nghĩa độc đáo của cái cời là ở chỗ nó nâng con ngời lên cao
với hoàn cảnh. Với thói h tật xấu, khi ta cời nó, ta đứng ở vị trí bên
trên nó. Nh vậy, cái cời, ở chiều sâu của nó, dờng nh luôn có một cái
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
16
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
gốc là những cảm xúc thấm đợm chất nhân văn- đó là niềm mong
muốn con ngời sống tốt đẹp hơn.
Ngời giáo viên nếu có một cái nhìn bao quát có thể nhận thấy
một số điều có ý nghĩa sâu xa hơn so với bản thân sự phân bản ở từng
truyện. Tuy chỉ dạy một ít truyện lẻ (Hiện nay là hai truyện trong ch-
ơng trình ngữ văn 6) nhng cần nắm đợc ý nghĩa chung của cả hai bức
ký hoạ về một hình thái xã hội đang biến thành tấn hài kịch của nó
trên sân khấu lịch sử. Điều này rất có ích cho việc nhận thức định hớng
chung của phân tích truyện cời Việt Nam.
2. Phân tích tình tiết nêu bật cái đáng cời.
Nghệ thuật gây cời của truyện dân gian khá phong phú. Nhng
biện pháp nghệ thuật quan trọng nhất của thể loại này là cách cấu tạo
truyện. Nét chung của cách cấu tạo này đã đợc trình bày ở mục Thi
pháp. Có thể tìm thấy ở đó những chỉ dẫn cơ bản về phơng pháp phân
tích truyện cời.
Trớc hết công việc phân tích phải hớng vào yêu cầu làm rõ cái
đáng cời thờng đợc dàn dựng theo nguyên tắc tự phơi bày để ngời
nghe, ngời đọc tự phát hiện qua một tình tiết gồm ba chặng, cho nên
công việc phân tích cũng thờng có thể tiến hành theo ba phân đoạn của

hoàn cảnh:
+Phân đoạn đầu:
Ngay từ đầu câu truyện, nhân vật có thói xấu hay tính cách dẫn
đến hành vi buồn cời đã đợc giới thiệu không úp mở:
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
17
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
- Có anh tính hay khoe của (Lợn cới, áo mới)
Cũng ngay ở đầu câu chuyện, nhân vật ấy đợc đặt vào một tình
thế khiến cho nó trở thành một hiện tợng có mâu thuẫn tiềm tàng.
- Anh có tính hay khoe khoang của may đợc áo mới, liền đem ra
mặc từ sáng đến chiều chả thấy ai hỏi cả (Lợn cới, áo mới).
Phân đoạn đầu đợc gọi là tình thế mở đầu. Phân tích tình thế mở
đầu là gợi cho học sinh rõ hai nội dung chính nói trên (giới thiệu nhân
vật và đặt nhân vật vào tình thế có mâu thuẫn tiềm tàng), chủ yếu là
cái mâu thuẫn cụ thể ở thể tiềm tàng (đang chờ dịp để bộc lộ).
+ Phân đoạn nút.
Đến đây, mâu thuẫn tiềm tàng đã phát triển rất mau lẹ tới điểm
nút.
- Anh áo mới đang tức vì đứng hóng mãi cha có ai để khoe thì
anh lợn cới chạy đến nhng lại bị anh này khoe trớc (Lợn cới, áo
mới).
Phân đoạn nút có thể đợc gọi là tình thế gay cấn. Phân tích tình
thế gay cấn là gợi cho học sinh điểm lại diễn biến của của sự việc từ
tình thế mở đầu đến điểm nút, nhận rõ mâu thuẫn cụ thể ở tình thế gay
cấn (Ví dụ: anh áo mới vớ phải anh lợn cới, đã bị anh này vừa hỏi
vừa khoe,v.v.).
Đến đây, ngời nghe, ngời đọc cũng ở vào thế chờ xem đầy kịch

tính. (Cần chú ý rằng: ở những chuyện gây ra một tràng cời, cời rền,
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
18
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
thì điểm nút dờng nh cũng di động, tạo thành một chuỗi điểm nút,
nhng điểm nút đích thực vẫn ở chỗ kết thúc).
+ Phân đoạn kết thúc.
Nhân vật bị đặt vào tình thế có mâu thuẫn giải quyết mâu
thuẫn ngay ở điểm nút bằng một hành vi, một lời nói bất ngờ làm
bộc lộ cái đáng cời.
- Anh áo mới vớ phải anh lợn cới, bị một - không (tức là
đang lăm le khoe, lại bị nó khoe), lại ở thế phải trả lời, vậy mà lật
lại đợc thế cờ, vẫn trả lời nghiêm chỉnh theo đúng phép tắc (dùng
kiểu câu có mệnh đề phụ làm chức năng trạng ngữ chỉ thời gian), đồng
thời tranh thủ cung cấp đợc thông tin cần thiết: từ lúc tôi mặc áo
mới này (Lợn cới, áo mới).
Phân tích đoạn kết thúc gợi cho học sinh tự mình nhận ra cái
đáng cời, tự mình chỉ rõ cái đáng cời bất ngờ bộc lộ ở hành vi, lời nói
của nhân vật trực tiếp gay ra cái cời, tức là chỉ rõ hành vi, lời nói đó có
cái gì ngợc đời. Thực hiện đợc yêu cầu này có nghĩa là đã trả lời đợc
câu hỏi vì sao mình cời ?, mình cời cái gì.
- Nh đã nói ở mục Định hớng phân tích nội dung, công việc phân
tích truyện cời phải bắt đầu từ việc làm rõ cái đáng cời nhng không
dừng lại ở đấy. Cần hớng dẫn học sinh suy nghĩ tiếp về những vấn đề
thuộc về ý nghĩa của cái cời trong truyện (ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa
xã hội).
3. Phân tích ý nghĩa của cái cời:
Ngời viết

: Lê Hòa Bình
19
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
- Nếu định nghĩa Cái đáng cời là cái xấu đợc coi là đúng thì
khái niệm cái xấu ở đây chắc chắn phải đợc hiểu theo nghĩa rộng -
nó vừa gồm những thói h tật xấu (xét chung, đồng thời dựa theo
chuẩn mực về tốt - xấu của mỗi thời đại, mỗi xã hội); vừa gồm những
cái không thích hợp. Hiểu nh vậy thì có thể chấp nhận quan niệm cho
rằng: cái cời, trong bản chất của nó, luôn luôn có ý nghĩa phê phán.
Với những truyện cời châm biếm những thói h tật xấu thì chắc không
ai hoài nghi gì cả về ý nghĩa lẫn mục đích phê phán của nó. (Nói mục
đích là nói về chủ định chủ quan của những ngời đặt truyện, nói ý
nghĩa là nói về tác dụng khách quan của truyện). Nhng với những
truyện hài hớc thì ý nghĩa phê phán là ở mặt nào?. Vậy, nếu ta muốn
đề cập ý nghĩa phê phán của truyện, thì chỉ nên coi đó là một thứ
phản ứng tự động t duy suy lý. Tất nhiên, cái cời hài hớc vẫn có tác
dụng giáo dục về nhiều mặt, nh đã nêu ở mục chức năng.
- Khi nói về ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa xã hội của cái cời, ngời ta
thờng nghĩ, chủ yếu đến cái cời châm biếm. Cái cời châm biếm cũng
phải tìm cái đáng cời ở những hiện tợng, những hành vi trái tự nhiên,
ngợc đời nh cái cời hài hớc. Những dụng ý phê phán của nó thể hiện
rõ ở chỗ nó luôn luôn tìm cái cời ở những hiện tợng, những hành vi trái
tự nhiên, ngợc đời nảy sinh từ những thói xấu, những tính cách đặc
biệt liền với bản chất của một tầng lớp xã hội, một số loại ngời. Do đó,
cần hớng dẫn để học sinh suy nghĩ đến mục đích, ý nghĩa phê phán
của cái cời châm biếm từ quan điểm đạo đức, quan điểm ý thức t tởng,
quan điểm đấu tranh xã hội. ở đây, có một điểm cần lu ý là; hành vi
Ngời viết
: Lê Hòa Bình

20
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
gây ra cái cời châm biếm ít khi bộc lộ một cách hồn nhiên nh hành vi
gây cái cời, cần cân nhắc kỹ: trờng hợp nào dừng lại ở việc phân tích
hành vi, trờng hợp nào tiến thêm tới chỗ nhận xét về nhân vật. Đó
chính là đối tợng thực sự của ngọn roi châm biếm.
iv. dạy - học truyện cời trong chơng trình ngữ văn 6
1. Nhận diện các văn bản truyện cời trong chơng trình Ngữ
văn 6
SGK Ngữ văn 6 tuyển chọn hai truyện cời "Treo biển" và "Lợn c-
ới áo mới" là truyện trào phúng, cái cời thiên về ý nghĩa phê phán nh-
ng chỉ là phê phán nhẹ nhàng có tính chất giáo dục.
Có thể nói hai văn bản trên là những văn bản hay, tiêu biểu cho
tiếng cời của ngời bình dân. Nội dung lại là những câu truyện ngộ
nghĩnh, phù hợp gần gũi với lứa tuổi học sinh lớp 6. Về hình thức nghệ
thuật thì đây là những truyện cời có kết cấu chặt chẽ, cách kể truyện dí
dỏm, kịch tính cao, tình huống gây cời đặc sắc. Các truyện đều ngắn
gọn, dễ hiểu, phù hợp tâm lý, trình độ nhận thức của học sinh lứa tuổi
11-12.
2. Phân biệt truyện cời với truyện ngụ ngôn:
Để hiểu rõ hơn đặc trng bản chất của truyện cời, ta có thể so
sánh truyện cời với truyện ngụ ngôn.
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
21
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
Truyện cời và truyện ngụ ngôn có những điểm giống nhau: Đều
có những hiện tợng đáng cời, những cái trái với tự nhiên, không hợp

với lẽ thờng và đều có thể gây cời.
Ví dụ: "Thầy bói xem voi" là hai truyện ngụ ngôn có hiện tợng
đáng cời đều có thể gây cời. Nhng những truyện ngụ ngôn có yếu tố gây
cời chiếm không nhiều lắm.
Nhìn một cách chặt chẽ hai thể loại này lại có nhiều điểm khác
nhau. Nếu tiếng cời nổ ra để mua vui hoặc phê phán là mục đích của
truyện cời thì mục đích của truyện ngụ ngôn lại là việc rút ra một bài
học luân lý, một triết lý ngụ ngôn trong câu chuyện.
Nh truyện "Treo biển" (truyện cời) và truyện "Đẽo cày giữa đ-
ờng" (truyện ngụ ngôn) có thể thấy na ná giống nhau: Một bên là anh
"Đẽo cày giữa đờng", một bên là anh "bán cá giữa phố". Cả hai anh
đều nghe theo tất cả những lời góp ý của mọi ngời qua đờng để rồi một
anh thì "vốn liếng đi đời nhà ma" còn một anh thì "hạ cái biển bán
hàng xuống". Thế nhng truyện "Đẽo cày giữa đờng" thì có hẳn một
câu cuối để rút ra bài học luân lý, còn truyện "bán cá" thì khi cất cái
biển xuống, tiếng cời lại bật lên, truyện kết thúc ngay.
Tóm lại, vấn đề so sánh truyện cời và truyện ngụ ngôn là vấn đề
hoàn toàn không đơn giản, cần đợc các nhà nghiên cứu chuyên môn,
các nhà giáo nghiên cứu thêm. Những ý kiến trên đây xin đợc coi là
những gợi ý ban đầu đợc rút ra từ việc dạy học. Để hớng học sinh biết
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
22
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
cách so sánh hai thể loại truyện này thiết nghĩ giáo viên có những định
hớng cụ thể, cần thiết.
3. Dạy - học truyện cời trong chơng trình Ngữ văn 6:
Thực ra khi đọc truyện cời (quá trình đọc, hiểu văn bản) các em
đã có thể bật ra tiếng cời. Nhng dạy - học là phải làm cho cái tiếng cời

ấy bật ra một cách khoái trá, hứng khởi, thích thú. Để làm đợc điều đó
nên tập trung khai thác sâu về mặt nghệ thuật của truyện cời về mặt
nội dung: truyện cời Việt Nam rất dễ hiểu, đọc lên có thể hiểu ngay).
Chỉ có khai thác về nghệ thuật thì học sinh mới có cảm nhận đợc cái
hay, cái thú vị của tiếng cời bật ra từ câu chuyện, từ đó, mà nhận ra
một cách sâu sắc ý nghĩa của tiếng cời. Qua quá trình thử nghiệm về
việc Dạy - học truyện cời, ngời viết Sáng kiến kinh nghiệm đã định h-
ớng cho học sinh đi sâu và tìm hiểu, phân tích các mặt nghệ thuật sau:
+ Cách xây dựng kịch tính.
+ Cách sáng tạo tình huống gây cời.
+ Cách kết thúc của truyện.
Trong quá trình giảng dạy cần chú ý vào những vấn đề sau:
+ Giáo viên cần hớng dẫn học sinh biết chủ động tiếp cận tác
phẩm theo hớng đọc -> suy ngẫm -> liên tởng. Đặc biệt thao tác đọc -
kể. Đây là thao tác hỗ trợ cho giảng - cảm thụ cái hay của truyện: đọc
diễn cảm, đọc sáng tạo đặc biệt những đoạn văn đối thoại, những từ
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
23
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
ngữ quan trọng sẽ giúp cho việc khai thác, phân tích truyện đạt kết quả
cao.
+ Cần phát huy cách học, thảo luận theo nhóm, tổ (với các vấn
đề lý thú, nổi cộm trong truyện). Tăng cờng luyện tập, thực hành.
+ Để đáp ứng các yêu cầu về việc dạy - học theo quan điểm đổi
mới giáo viên cần phải tìm ra yếu tố đồng quy giữa ba phân môn để
tích hợp. Dạy - học theo quan điểm đó thể hiện rõ nhất trong mỗi bài
giảng, là ở hệ thống câu hỏi và bài tập luyện tập. Cần đặt ra các tình
huống, khuyến khích học sinh giải quyết các tình huống bằng nhiều

hình thức khác nhau. Tăng cờng hệ thống câu hỏi mở, câu hỏi sáng
tạo, nhằm hình thành tính năng động trong học sinh. Ví dụ: khi giảng
dạy "Treo biển, Lợn cới áo mới" để làm nổi bật yếu tố gây cời và ý
nghĩa của cái cời giáo viên cần tập trung vào việc khai thác các từ ngữ
quan trọng trong văn bản, cách xây dựng kịch tính, cách tạo tình
huống, cách kể chuyện dí dỏm, cách kết thúc của truyện. Làm đợc
điều đó chúng ta không chỉ cho học sinh nắm bắt đợc kiến thức cơ bản
của văn bản mà còn củng cố cho học sinh một lợng kiến thức về Tiếng
việt và Tập làm văn. Tuy nhiên, để giữ đợc đặc trng cơ bản của bộ
môn, ở mỗi truyện, giáo viên cần có cách khai thác riêng sao cho học
sinh thấy rõ đặc sắc về nghệ thuật của truyện cời
Chơng 2
bài soạn thực nghiệm
Tiết 51 - Bài 12
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
24
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
Treo biển - Lợn cới áo mới
(Truyện cời)
A. mục tiêu cần đạt
* Học sinh nắm đợc định nghĩa truyện cời.
* Hiểu đợc nội dung ý nghĩa và nghệ thuật gây cời của truyện
"Treo biển", "Lợn cới áo mới".
* Kể lại đợc hai truyện này.
B. tiến trình lên lớp
Bớc 1 - Tổ chức
Bớc 2 - Kiểm tra
Bớc 3 - Bài mới

* Giới thiệu bài: Ngời Việt Nam rất biết cời, dù ở trong tình
huống, hoàn cảnh nào. Vì vậy, rừng cời Việt Nam rất phong phú, có
đủ màu sắc, cung bậc khác nhau. Có tiếng cời mua vui hóm hỉnh, lại
có tiếng cời sâu cay, châm biếm, phê phán những thói h tật xấu. "Treo
biển" và "Lợn cới áo mới" là một ví dụ.
A. Treo biển
I. Tiếp xúc với văn bản
(Giáo viên đọc mẫu gọi 3 học
sinh đọc, 1 học sinh kể)
(Đọc phân vai)
1. Đọc, kể:
- Yêu cầu: đọc to, rõ ràng, diễn
cảm, chú ý các đoạn hội thoại
- Kể:
Đọc chú thích sao cho biết thế
2. Chú thích:
Ngời viết
: Lê Hòa Bình
25
Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 -
2010
nào là truyện cời.
- Truyện cời: là loại truyện kể về
những hiện tợng đáng cời trong
cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cời
mua vui hoặc phê phán thói h, tật
xấu của con ngời.
- Chú ý các chú thích khác (SGK)
3. Bố cục: 3 phần
Mở đầu: Giới thiệu việc treo biển.

Diễn biến: Việc treo biển
Kết thúc: Kết thúc sự việc.
- Tác giả dân gian chọn sự
việc gì để gây cời.
II. Phân tích văn bản
1. Việc treo biển:
- Đọc các từ ngữ trên tấm biển.
Tấm biển có mấy yếu tố ? Các
yếu tố thông báo nội dung gì ?
- Tấm biển: "ở đây có bán cá tơi"
H: ở đây (trạng ngữ) thông
báo địa điểm cửa hàng.
+ Có bán (động từ): Hoạt động
của cửa hàng.
+ Cá (danh từ): mặt hàng.
+ Tơi (tính từ): chất lợng hàng.
- Từ những yếu tố đó em có
nhận xét gì về nội dung tấm
biển ?
Nội dung đúng, đủ, cần thiết để
quảng cáo.
- Khi đọc tấm biển ngời mua - Góp ý: Về chữ "tơi" = mất chất l-
Ngời viết
: Lê Hòa Bình

×