Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Sử dụng bài tập Lịch sử nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh trung học phổ thông (vận dụng khóa trình lịch sử thế giới cận đại lớp 11, trung học phổ thông chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 120 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





PHẠM THỊ THỦY









SỬ DỤNG BÀI TẬP LỊCH SỬ NHẰM RÈN LUYỆN
KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Vận dụng khóa trình lịch sử thế giới cận đại lớp 11,
Trung học phổ thông, chƣơng trình chuẩn).


LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ





Mã số: 60 14 10.





HÀ NỘI – 2012

2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC







PHẠM THỊ THỦY





SỬ DỤNG BÀI TẬP LỊCH SỬ NHẰM RÈN LUYỆN
KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Vận dụng khóa trình lịch sử thế giơi cận đại lớp 11,
Trung học phổ thông, chƣơng trình chuẩn).





LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LÍ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
Mã số: 601410



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thế Bình



HÀ NỘI – 2012

5
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn i
Danh mục các chữ viết tắt ii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng bài tập
nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh trong dạy học
lịch sử ở trương THPT 12
1.1. Cơ sở lý luận 12
1.1.1. Quan niệm về sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng tự
học cho học sinh 12
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc sử dụng bài tập.nhằm rèn luyện
kỹ năng tự học cho học sinh 26

1.1.3. Phân loại bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho học
sinh 30
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của bài tập đối với việc rèn luyện kỹ năng
tự học cho học sinh 32
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng việc rèn luyện kỹ năng tự học qua
bài tập lịch sử 36
1.1.6. Những kỹ năng tự học cơ bản cần rèn luyện cho học sinh
khi sử dụng bài tập lịch sử 39
1.2. Cơ sở thực tiễn 41
1.2.1. Nhận thức của giáo viên về vấn đề sử dụng bài tập nhằm
rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh 41
1.2.2. Thực trạng việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng tự
học của học sinh trong quá trình học tập bộ môn lịch
sử 46
1.2.3. Nguyên nhân thực trạng 49

6
Chương 2 : Một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ
năng tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới cận đại (thế
kỉ XIX-đầu thế kỉ XX) lớp 11, THPT, chương trình chuẩn 51
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung lịch sử cơ bản phần lịch sử thế giới cận
đại (thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX) lớp 11, THPT, chương trình chuẩn 51
2.1.1. Vị trí 51
2.1.2. Mục tiêu 52
2.1.3. Nội dung cơ bản của lịch sử thế giới cận đại (thế kỉ XIX-
đầu thế kỉ XX) 59
2.2. Một số yêu cầu khi xây dựng và sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ
năng tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử 55
2.3. Một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho học
sinh trong dạy học lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – đầu thế kỷXX)

lớp 11, THPT, chương trình chuẩn 58
2.3.1. Bài tập trắc nghiệm khách quan 58
2.3.2. Bài tập tự luận 69
2.3.3. Bài tập thực hành 76
2.4. Thực nghiệm sư phạm 84
2.4.1. Mục đích thực nghiệm 84
2.4.2. Đối tượng thực nghiệm 85
2.4.3. Nội dung thực nghiệm 85
2.4.4. Phương pháp thực nghiệm 85
2.4.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm 86
Kết luận và khuyến nghị 89
Tài liệu thamkhảo 92
Phụ lục 95


4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GV: Giáo viên
HS: Học sinh
TH: Tự học
KNTH: Kỹ năng tự học
RLKNTH: Rèn luyện kỹ năng tự học
SGK: Sách giáo khoa
THPT: Trung học phổ thông


















7
MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại, vấn đề tự học ngày càng được quan tâm và đang trở thành
một xu thế toàn cầu, các nhà giáo dục thực hiện “biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo”[4;151]. Vấn đề tự học tự đào tạo của người học đã được Đảng, nhà
nước quan tâm quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa
VIII từng nêu rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực
tự học, tự sáng tạo của học sinh, bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học
sinh, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp
toàn dân ”. Rèn luyện kỹ năng tự học cho HS có vai trò quan trọng đối với việc
thực hiện mục tiêu môn học, góp phần đào tạo những con người lao động có năng
lực thực hành, chủ động, sáng tạo, say mê học tập và có ý chí vươn lên. Vì vậy, rèn
luyện và phát triển các kỹ năng tự học là một nội dung quan trọng của đổi mới
phương pháp dạy học trong nhà trường ở nước ta hiện nay. Điều 28.2 của Luật giáo
dục đã ghi “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học,
bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng

vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh” [24;23].
Có nhiều kỹ năng tự học cần hình thành và rèn luyện cho HS trong quá trình dạy
học bộ môn lịch sử. Khi giải quyết bài tập, các kỹ năng cơ bản như làm việc với
sách giáo khoa; ghi nhớ sự kiện, tái hiện kiến thức lịch sử; phân tích, tổng hợp kiến
thức; so sánh, đối chiếu sự kiện, hiện tượng; đánh giá nhân vật; thực hành bộ môn
được củng cố và phát triển. Bên cạnh đó, rèn luyện cho HS tính tự giác, tích cực,
chủ động, độc lập và hứng thú đối với bộ môn. Đây là những yếu tố đặc trưng của
quá trình tự học.
Sử dụng bài tập để rèn luyện các kĩ năng tự học cho HS trong quá trình dạy học
lịch sử ở nhà trường phổ thông có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế
nhiều giáo viên chỉ tập trung vào dạy kiến thức, ít khuyến khích HS tự học. Do vậy,
sử dụng bài tập đôi khi chỉ mang tính hình thức, chiếu lệ, không đạt hiệu quả cao.

8
Về phía HS, do nhiều yếu tố tác động, đặc biệt tâm lý coi nhẹ môn phụ, tình trạng
học tập thụ động, ảnh hưởng từ quan niệm xã hội, chi phối tới quá trình hoàn
thành bài tập. Một bộ phận không nhỏ học sinh phổ thông hiện nay chưa có ý thức
làm bài hoặc làm bài tập để đối phó với sự kiểm tra của giáo viên. Thực trạng trên
khiến việc sử dụng bài tập để rèn luyện các kỹ năng tự học cho HS chưa phát huy
hết tác dụng của nó. Theo đó, hiệu quả học tập của HS chưa cao.
Quá trình phát triển của lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ
XX) trong chương trình lịch sử lớp 11 là giai đoạn phát triển tiếp nối giai đoạn lịch
sử thế giới trung đại (Thế kỷ V – XVI) và phần lịch sử thế giới cận đại lớp 10 (thế
kỷ XVI – XVIII), đồng thời kết nối và mở ra giai đoạn phát triền tiếp theo của lịch
sử thế giới hiện đại. Với nội dung phong phú và cơ bản, khóa trình lịch sử thế giới
cận đại chiếm vị trí quan trọng trong chương trình lịch sử lớp 11 ở trường THPT.
Muốn hiểu rõ về giai đoạn này cũng như vận dụng kiến thức để tìm hiểu giai đoạn
tiếp theo, học sinh cần học tập chủ động, rèn luyện các kỹ năng tự học của bản thân.
Sử dụng hệ thống bài tập sẽ giúp các em đạt được mục tiêu đó.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng bài tập nhằm
rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh trung học phổ thông” (Vận dụng khóa trình
lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX), lớp 11, chương trình
chuẩn) làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Người viết mong muốn có thể đưa
ra một số biện pháp sử dụng bài tập vừa gây hứng thú học tập, vừa rèn luyện tốt các
kỹ năng tự học cho học sinh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Trên thế giới
Trong lịch sử giáo dục thế giới, vấn đề tự học được quan tâm từ rất sớm và nhìn
nhận theo nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Các nhà bác học cổ đại như Xôcorat (469 – 690 TCN), Arixtot (384 – 322
TCN), Khổng Tử (551 – 479 TCN), Mạnh Tử (372 – 289 TCN), Trương Tài (97 –
27 TCN), đều đánh giá cao vai trò của tự giáo dục, tự bồi dưỡng và coi trọng việc
phát huy tính tích cực của HS. Tuy nhiên, do hạn chế của thời đại, vấn đề tự giáo

9
dục chưa được các nhà tư tưởng đặt vào đúng vị trí và hiểu một cách đầy đủ. Mặc
dù vậy, tư tưởng của các ông vẫn thể hiện sự tiến bộ, đặt những viên gạch đầu tiên
cho tự học, tự giáo dục sau này phát triển.
Ở phương Tây cũng như phương Đông thời trung đại, nền giáo dục nhìn chung
mang tính hà khắc. Vai trò của tự giáo dục bị xem nhẹ, cùng nhân cách học trò bị hạ
thấp. Những hạn chế đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến động cơ phục
hưng nền giáo dục ở châu Âu sau này.
Đến thời cận đại, vấn đề giải phóng cá nhân, phát huy tính tích cực sáng tạo của
HS đã trở thành ý tưởng chung của nhiều nhà tư tưởng và giáo dục. Một số nhà
nghiên cứu chú trọng tới vấn đề này như Thô-Mat-Mo-Rơ (1476 – 1535), Môn-tê-
nhơ (1533 – 1592), Cô-men-xki (1592 – 1670), Đi-xto-vec (1790 – 1866), Ma-ca-
ren-co (1888 – 1939). Krup-xcai-a (1869 – 1939)- nhà giáo dục lớn của Liên Xô đã
quan tâm rất nhiều đến việc giúp đỡ cho mọi người tự học. Bà chỉ ra những phương
pháp rất hiệu quả về việc tự đọc sách, hướng dẫn tự học.

Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đến nay, cùng với sự phát triển của xã hội
loài người, vấn đề tự học được đề cao. Báo cáo của Edgare Faure công bố năm 1972
do UNESCO bảo trợ nêu rõ “Học để làm người có nghĩa là khuyến khích sự phát
triển nhất tiềm năng sáng tạo của mỗi con người [42;103-104]. N.A Rubakin với
tác phẩm “Tự học như thế nào” nhấn mạnh “Việc giáo dục động cơ đúng đắn là
điều kiện cơ bản để bạn tích cực, chủ động trong tự học” [28; 36]. Trong cuốn
“Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào”, I.F.Kharlamop khẳng định: “Tự
học có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao tính tích cực nhận thức và hiệu
quả hoạt động trí tuệ của học sinh” [15; 48]. Rogers – nhà giáo dục Mỹ những năm
cuối thế kỷ XX cho rằng, mục đích dạy học là giúp người học khơi dậy tiềm năng
vốn có chưa được sử dụng thường xuyên. Khuyến cáo của UNESCO về “Giáo dục
cho thế kỷ XXI” nêu ra bốn trụ cột của giáo dục: Học để biết, học để làm, học để
chung sống và học để khẳng định mình.
Bên cạnh việc bổ sung hoàn chỉnh những vấn đề lý luận về tự học, các nhà
nghiên cứu cũng đưa ra nhiều quan điểm tổ chức hoạt động tích cực của HS, trong
đó có sử dụng hệ thống bài tập: Tác phẩm “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào”

10
của nhà sư phạm N.G.Đairi nhấn mạnh đến loại bài tập gợi vấn đề trên lớp để tổ
chức hoạt động nhận thức của người học. Giáo viên cần “quy định một cách hợp lý
những bài tập cho học sinh khi nghiên cứu tài liệu mới lần đầu tiên, khi học tập ở
nhà, khi kiểm tra kiến thức và khi ôn tập” [10; 98]. Trong cuốn “Phát triển tư duy
học sinh” tác giả V.Onhinsuc nêu ra các hình thức để rèn luyện kết quả cũng như
phát triển kỹ năng tự học cho HS, trong đó có việc làm bài tập. Học giả Savin cho
rằng, GV có thể tổ chức công việc tự học của HS qua bài tập như đọc sách giáo
khoa, viết (bài tập), bài tập thực hành. Điều quan trọng là giáo viên cần chỉ dẫn cách
làm bài tập, dạy các em cách làm việc độc lập và có phương pháp kiểm tra đánh giá
phù hợp hơn. Cuốn sách “Phương pháp dạy học lịch sử qua sơ đồ, bảng biểu và
hình vẽ” của các tác giả M.B Kôrokova, Studennhikin nêu ra các năng lực tự học
mà giáo viên cần định hướng cho người học như tái hiện và tái tạo lại các biểu

tượng lịch sử, phân tích, xử lý các nguồn thông tin; tư duy logic, tư duy hiện đại với
các nguồn tư liệu lịch sử; sơ đồ hóa; đánh giá sự kiện, hiện tượng lịch sử. Nhóm tác
giả Vincen Adoumie, Annette Bacrot hướng dẫn giáo viên cách dạy HS học lịch sử
theo chủ đề. Các học giả trình bày nội dung khoa học của chủ đề lịch sử, sách, tài
liệu tham khảo liên quan; một số vấn đề cần lưu ý đối với GV trong quá trình giảng
dạy; những gợi ý, kế hoạch dạy học; các bài tập lịch sử (bao gồm cả chỉ dẫn, giải
thích về cách sử dụng) và cách đánh giá kết quả học tập của HS. Nội dung cuốn
sách là gợi ý hữu ích cho GV trong việc lựa chọn cách thức hướng dẫn HS tự học
phù hợp với chủ đề nội dung của bộ môn.
Như vậy, vấn đề tự học được nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Tuy có nhiều
ý kiến khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu đều khẳng định vai trò to lớn của TH
đối với người học nói riêng, toàn xã hội nói chung. Đồng thời, các biện pháp để rèn
luyện, phát triển kỹ năng tự học cho người học cũng được đề xuất, trong đó có sử
dụng hệ thống bài tập.
2.2 Trong nước
Ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về TH. Tuy nhiên, mỗi thời kì quan
niệm về TH và KNTH khác nhau.

11
Dưới thời phong kiến, nền giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng của ảnh hưởng từ
Trung Quốc. Học trò muốn thi đậu để làm quan phải bước qua cửa Khổng, Sân
Trình. TH được thực hiện máy móc, tức chỉ cần thuộc thi, thư, lế, nghĩa. Điều đó
khiến người học bị động, mất đi suy nghĩ độc lập.
Sang thời Pháp thuộc, dưới ách cai trị thâm độc của kẻ thù, nền giáo dục nước ta
bị kìm nén, trì trệ. Trước Cách mạng tháng Tám (1945), số người mù chữ chiếm
hơn 90% dân số. Việc giáo dục hết sức khó khăn, do đó vấn đề tự học ít được đề
cập đến.
Từ sau năm 1945 đến nay, cùng với những bước tiến về kinh tế - chính trị - văn
hóa – xã hội của đất nước, vấn đề TH được quan tâm trong nhiều công trình nghiên
cứu.

Chủ tich Hồ Chí Minh không chỉ là tấm gương tự học, mà còn có nhiều quan
điểm lý luận đúng đắn xoay quanh vấn đề này. Người dạy rằng: “về cách học phải
lấy tự học là cốt Phải tự nguyện tự giác xem công việc học tập là nhiệm vụ cách
mạng, phải cố gắng hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành
kế hoạch học tập”[26;11]. Nguyên tắc TH đem lại thành công cho Hồ Chí Minh
chính là sự kết hợp giữa học và hành “học đến đâu, luyện tập thực hành đến đến
đó”[26;174].
Những năm 60, tư tưởng tự đào tạo đã xuất hiện ở trường Đại học sư phạm Hà
Nội với phong cách giảng dạy và học tập mới, cốt lõi là khẩu hiệu “Biến quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo”[42;106].
Từ những năm 1977 – 1978 đến năm 1986 – 1987, dưới sự chủ trì của GS.
Nguyễn Cảnh Toàn, tập thể các nhà khoa học đã nghiên cứu và triển khai chương
trình “Tự học có hướng dẫn kết hợp với thực tập dài hạn ở trường phổ thông” (gọi
tắt là vừa học vừa làm giáo viên). Nguyên thứ trưởng Nguyễn Kỳ có bài viết
“Thành công lớn của một chiến lược con người” in trong Tạp chí Giáo dục số
5/1990 đề ra chiến lược giáo dục với nguyên tắc “tự học, tự quản, tự rèn luyện”.
Năm 1998, ý thức được tầm quan trọng của TH trong giáo dục và phát triển, hội
thảo khoa học “Nghiên cứu và phát triển tự học, tự đào tạo” được tổ chức. Hội thảo

12
thu hút sự quan tâm của nhiều giáo sư và những nhà nghiên cứu đầu ngành. Cũng
trong năm này, Nhà xuất bản Giáo dục cho ra mắt cuốn “Tự học – tự đào tạo – tư
tưởng chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam”. Tác phẩm bao gồm nhiều bài
viết của các nhà sư phạm, nhà nghiên cứu giáo dục do GS. Nguyễn Cảnh Toàn và
GS. Nguyễn Như Ý chịu trách nhiệm xuất bản.
Ngoài ra, Tạp chí Tự học của Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học do GS.
Nguyễn Cảnh Toàn chịu trách nhiệm sản xuất ra đời. Tạp chí có nhiều bài viết của
các nhà khoa học, nhà chính trị, tiêu biểu như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng,
Nguyễn Tấn Phát, bàn về vấn đề TH ở các môn khác nhau.
Năm 2001, hai cuốn sách “Học và dạy cách học”, “Tuyển tập tác phẩm tự học,

tự nghiên cứu” (tập 1, 2) của GS.Nguyễn Cảnh Toàn được xuất bản. Tác phẩm là
lời tâm sự, đúc kết kinh nghiệm, phương pháp TH và những thành công trên con
đường thử nghiệm của giáo sư về vấn đề TH. Có thể coi đây là “Cẩm nang” quý giá
cho những người có ý thức TH.
Bên cạnh việc tìm hiểu lý luận chung về vấn đề TH, các học giả trong nước còn
chú ý tới sử dụng bài tập để rèn luyện và phát triển các KNTH cho HS.
Giáo trình Phương pháp dạy học lịch sử do GS.Phan Ngọc Liên chủ biên khẳng
định có nhiều loại bài tập lịch sử. Trong đó, “bài tập nhận thức có ý nghĩa rất lớn
đối với phát triển tư duy học sinh khi học tập lịch sử” [18; 296].
Năm 2010 và 2011, hội thảo khoa học quốc gia về “Nghiên cứu, giảng dạy lịch
sử trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển kỹ năng tự học cho học sinh” được
tổ chức. Tiêu biểu như kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia, Trường ĐHSP Hà Nội,
Mã số 02.02.7/66. ĐH 2010, tr 574-579; Học cơ chế tín chỉ với việc phát triển kỹ
năng tự học cho sinh viên khoa Lịch Sử, Kỉ yếu hội thảo Khoa học Quốc Gia, Đổi
mới phương pháp dạy học đại học theo chế tín chỉ, Trường ĐHSP Huế, 4/2011, 47-
55.
Nhiều học giả quan tâm tới vấn đề sử dụng câu hỏi, bài tập rèn luyện và phát
triển các KNTH của người học. Điển hình là một số báo cáo: Sử dụng hệ thống câu
hỏi để rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh của tác giả Nguyễn Thị Phương

13
Thanh, Sử dụng câu hỏi nhằm tổ chức hoạt động tự học cho học sinh trong dạy học
lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1954 ở lớp 12 (chương trình chuẩn) của Nguyễn
Thị Duyên, Tổ chức tự học ở nhà cho học sinh THPT thông qua hệ thống bài tập
của Võ Văn Minh, Tổ chứchoạt động tự học ở nhà cho học sinh trong dạy học
chương “Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX” lớp 11 THPT của Ngô Phú
Hoài, Nâng cao kỹ năng tự học cho sinh viên thông qua hệ thống bài tập của
chuyên đề “Lịch sử ngoại giao Việt Nam” của Nguyễn Thu Hiền,
Các luận văn thạc sĩ Rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trong dạy học lịch
sử Việt Nam từ 1858 – 1918 ở lớp 11 THPT (chương trình chuẩn của Nguyễn Thị

Thanh Thủy, Thiết kế và sử dụng bài tập về nhà trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông của trần Thị Phương Lan đề cập tới một số biện pháp sử dụng các dạng bài
tập để rèn luyện, phát triển năng lực TH cho HS.
Bên cạnh đó, có nhiều bài báo, khóa luận tốt nghiệp đề cập tới các biện pháp rèn
luyện và phát triển KNTH lịch sử. Điển hình như “Hướng dẫn làm bài tập lịch sử”
của tác giả Nguyễn thị Côi và Phạm Thị Kim Anh đăng trên Tạp chí Giáo dục số
6/1994, Một số biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực cho HS trong dạy
học lịch sử lớp 7 THCS vùng kim Sơn – Ninh Bình” của Lê Thị Huệ, Một số biện
pháp rèn luyện ký năng tự học cho học sinh trong dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng
kết môn lịch sử lớp 11 THPT (chương trình chuẩn) của Đỗ Thu Quyên,
Như vậy, vấn đề tự học và các biện pháp tổ chức hoạt động TH được đông đảo
các nhà giáo dục trên thế giới và trong nước đề cập tới dưới nhiều hình thức, mức
độ khác nhau. Nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu các biện pháp sử
dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho HS. Chính vì vậy, chúng tôi khẳng
định đây là hướng khai thác mới của luận văn.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS trong dạy học lịch sử
ở trường THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

14
Luận văn không đi sâu nghiên cứu về bài tâp, rèn luyện KNTH nói chung, mà
trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những thành tựu về vấn đề này, chúng tôi tập trung
xác định các biện pháp nhằm rèn luyện KNTH cho HS thông qua sử dụng bài tập
lịch sử. Nội dung kiến thức cần khai thác giới hạn ở phần lịch sử thế giới cận đại
(thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX), lớp 11 THPT, chương trình chuẩn.
Do thời gian và trình độ có hạn, luận văn tiến hành điều tra ở một số trường tại
huyện Kinh Môn – tỉnh Hải Dương. Chúng tôi chỉ thực nghiệm sư phạm qua một
bài: Chiến tranh thế giới thứ nhất(1914 – 1918), (tiết 01) tại trường THPT Phúc

Thành (Kinh Môn – Hải Dương).
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Trên cơ sở khẳng định vai trò của việc sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử,
đề tài đi sâu tìm hiểu nội dung các dạng bài tập và đề xuất một số biện pháp sử dụng
bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS khi dạy học lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ
XIX – nửa đầu thế kỷ XX).
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là:
- Nghiên cứu các cơ sở lý luận về kĩ năng tự học, việc sử dụng bài tập nhằm
rèn luyện KNTH cho HS.
- Điều tra thực tiễn sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS trong dạy
học lịch sử ở các trường THPT thuộc huyện Kinh Môn – tỉnh Hải Dương.
- Tìm hiểu nội dung chương trình SGK lịch sử lớp 11 THPT (Phần lịch sử
thế giới cận đại) để xác định các dạng bài tập lịch sử sử dụng trong các tiết dạy
nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho HS
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận

15
Cơ sở phương pháp luận của đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về giáo dục – đào tạo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng những phương pháp sau:
- Nghiên cứu lý luận giáo dục học, tâm lý học, phương pháp dạy học lịch sử
về vấn đề sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh trong dạy
học lịch sử ở trường phổ thông.
- Nghiên cứu chương trình SGK lịch sử lớp 11 nói chung và khóa trình lịch

sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX– nửa đầu thế kỷ XX) nói riêng.
- Tiến hành khảo sát, điều tra thực tiễn bằng phiếu hỏi, quan sát, dự giờ,
phỏng vấn giáo viên, học sinh về vấn đề sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH.
- Đề xuất các biện pháp sư phạm và tiến hành thực nghiệm ở trường phổ
thông.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả thực nghiệm.
6. Giả thuyết khoa học
Trong thực tế giảng dạy lịch sử ở trường THPT hiện nay, việc sử dụng bài
tập lịch sử nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh còn nhiều hạn chế. Vì vậy,
nếu sử dụng các biện pháp theo yêu cầu của luận văn đưa ra sẽ góp phần rèn luyện
tốt kỹ năng tự học cho học sinh và nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường
THPT.
7. Đóng góp của luận văn
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH
cho HS trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
- Phản ánh rõ thực trạng sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS
trong dạy môn học lịch sử ở trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS
trong dạy học lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX) lớp 11
THPT, chương trình chuẩn.

16
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
8.1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần làm phong phú thêm lí luận phương pháp dạy học lịch sử về rèn
luyện KNTH cho HS qua sử dụng bài tập lịch sử.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh ở
trường THPT trong việc rèn luyện KNTH cho HS trong dạy học lịch sử.
9. Bố cục khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn gồm 2
chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng bài tập nhằm rèn
luyện kỹ năng tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Chƣơng 2: Một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng tự học
cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ
XX), lớp 11, THPT, chương trình chuẩn.












17
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÀI TẬP
NHẰM RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG THPT
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho
học sinh
1.1.1.1. Quan niệm về học, tự học, tự học lịch sử
- Khái niệm “học”:
Thực tế đã có nhiều định nghĩa về học của HS đã được phân loại và sắp xếp

theo trình độ nhận thức của người học từ đơn giản đến phức tạp như sau:
(1) Học là chiếm lĩnh thông tin càng nhiều càng tốt. Càng học càng nắm bắt
được nhiều thông tin. Học là tích lũy, gia tăng số lượng kiến thức
(2) Học là ghi nhớ lặp lại và thuộc lòng, là quá trình tích lũy thông tin mà ta
có thể tái hiện như là những mẩu kiến thức tách biệt
(3) Học là quá trình chiếm lĩnh, ứng dụng hay sử dụng kiến thức. Học là nắm
bắt sự kiện, kĩ năng hay quy trình có thể lưu trữ và sử dụng khi cần. Học là tích lũy
thông tin vào bộ nhớ để sử dụng mỗi khi có tình huống đòi hỏi.
(4) Học là quá trình trừu tượng hóa, định hướng, định giá trị. Học là liên kết
cái đang học với cái đã biết với thực tiễn của cuộc sống. Học là hiểu bản chất sự
vật, nối liền sự vật với nhau, lý giải và kiểm nghiệm giá trị của sự vật trong thực
tiễn.
(5) Học là tạo ra sự biến đổi trong nhận thức để hiểu biết thế giới bằng lí giải
và thông hiểu thực tiễn. Học là xác định mô hình thông tin và liên kết mô hình đó
với thông tin từ các tình huống và hoàn cảnh khác nhau.
(6) Học là biến đổi con người. Học là thông hiểu thế giới bằng nhiều con
đường khác nhau mà kết quả là làm biến đổi bản thân con người. Học là quá trình tự

18
tạo ra sự tiến hóa tổng hợp về tri thức, kĩ năng, thái độ và giá trị của một con người.
Đi vào chiều sâu, học có bản chất cốt lõi là tự học.
Với những định nghĩa khác nhau về khái niệm “học” cho ta một cái nhìn khá
toàn diện. Ổ mỗi giai đoạn khác nhau, mục đích học tập thay đổi nên việc “học”
cũng thay đổi. Khi người học là học sinh THPT thì việc “học” có thể hiểu đơn giản
là việc các em tiếp nhận kiến thức của bản thân bằng cách tự tìm hiểu qua sách, báo
hay do người khác (chủ yếu là GV) truyền đạt lại cho mình. Kiến thức đó bao gồm
cả tự nhiên, xã hội và kinh nghiệm sống.
Theo Nguyễn Kì (1998): “Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội
tại trong đó chủ thể tự thể hiện mình tự làm phong phú giá trị của mình bằng cách
thu nhận, xử lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong con người

mình”[16]. Ngoài ra, Nguyễn Kì cũng chỉ ra rằng có ba cách tiếp cận cùng với quan
niệm chủ yếu sau đây về học
Cách tiếp cận thứ nhất quan tâm đến kết quả cuối cùng đạt được là sản phẩm
học hay hành vi nhận biết được. Đó là cách tiếp cận theo hành vi, đáp lại phản xạ có
điều kiện của Paplop, hay theo hành vi tác động phản xạ có điều kiện của Skinner:
“Học là quá trình làm biến đổi hành vi từ kinh nghiệm hay là từ sự tiếp xúc với môi
trường sống của chủ thể”
Cách tiếp cận thứ hai quan tâm đến quá trình học bằng cách tìm hiểu những
gì đã xảy ra trong trí óc người học là cách tiếp cận về trí tuệ , theo bước chân Piaget
với cơ chế đồng hóa, điều ứng, cân bằng
Cách tiếp cận thứ ba có xu hướng kết hợp hai cách tiếp cận trên thành một
mô hình quá trình thông tin với các thuật ngữ: thu nhận, xử lí, chương trình hóa
“học là tự tạo khả năng xác định vấn đề cần giải quyết, thu nhận , xử lí thông tin và
ứng dụng chương trình giải quyết vấn đề”
Như vậy, với ba cách tiếp cận và sáu định nghĩa ta thấy việc học như là một
quá trình thu nhận ghi nhớ, tích lũy, sử dụng, lí giải, liên kết, xử lí thông tin, giải
quyết vấn đề. Đó là cách tiếp cận việc học theo mô hình quá trình thông tin dẫn đến
một quan niệm có thể ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn thực hành sư phạm.

19
Có thể khẳng định rằng, học cốt lõi là tự học. Vậy tự học là gì?
- Tự học:
Tự học là một vấn đề có tính truyền thống và tính phổ biến không chỉ ở nước
ta mà còn là vấn đề của toàn thế giới. Con người ngay từ khi sinh ra đã phải tự học,
tự học để nhận biết thế giới xung quanh, tự học để tồn tại và phát triển. Rubakin
trong cuốn “ Tự học như thế nào” đã kết luận rằng: “Hãy mạnh dạn tự mình đặt ra
câu hỏi rồi tự mình tìm lấy câu trả lời, đó là phương pháp tự học” [29]. Ông cho
rằng tự học không chỉ là xem sách mà phải biết so sánh cái viết trong sách với thực
tế cuộc sống, biết so sánh cái khoa học với cái không khoa học, biết liên hệ giữa các
môn khoa học. Không nên sợ bất đồng ý kiến với người khác, không nghiên cứu cái

chung chung mà phải nghiên cứu vấn đề đang được trao đổi, thảo luận – những vấn
đề chủ yếu của thời đại mở rộng tầm nhìn cho bản thân “Hãy học bằng tất cả lí trí
và tâm hồn, cảm xúc của mình”. Như vậy với Rubakin tự học là quá trình người học
tự so sánh, đối chiếu hỏi và đáp, sự so sánh giữa lí thuyết và thực hành, giữa sách
vở với thực tế cuộc sống, từ đó mà rút ra cho mình một tri thức riêng đầy sáng tạo.
Trong quá trình tự học con người không hoàn toàn phụ thuộc vào cuộc sống mà cần
phải đưa nó lên trên cơ sở tự nâng mình lên [29]
Các tác giả trong nước cũng đưa ra một số ý kiến về tự học. Theo GS.TS
Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường định nghĩa, tự học là tự
mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, cơ bắp, phẩm chất, động cơ,
tình cảm để “chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực
đó thành sở hữu của mình” [34;101]. Theo tác giả Thái Duy Tuyên “Tự học là hoạt
động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo về kinh nghiệm lịch sử loài
người và của chính bản thân người học” [38;114].
Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào
tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “ Học bao giờ và
lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế
hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện
cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”

20
Theo Từ điển giáo dục học cho rằng: “Tự học là quá trình tự mình hoạt động
lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành không có sự hướng dẫn
trực tiếp của giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục, đào tạo [13;34].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về tự
học. Tuy nhiên, các học giả đều thống nhất ở yếu tố tự giác, chủ động và độc lập
của người học trong quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học, những kiến thức của
cuộc sống hàng ngày.
Như vậy, tự học là một bộ phận của học tập, nó được tạo thành bởi những
thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học. Đó là quá trình cá nhân tập

trung chú ý, tự giác, tích cực, chủ động trong hoạt động nhận thức, nhằm tìm ra
cách học để lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách người học. Kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào năng lực của mỗi con
người.
Bản chất hoạt động tự học của HS là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động,
sáng tạo dưới sự hướng dẫn của GV nhằm tìm ra cách chiếm lĩnh tri thức khoa học.
Trong hoạt động tự học việc tích cực, độc lập nhận thức của HS không tách rời vai
trò tổ chức điều khiển của GV đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động
dạy của thầy và hoạt động học của trò. Theo các nhà sư phạm: Quá trình tự học là
một hệ thống toàn vẹn bao gồm 3 thành tố: Thầy (dạy) – Trò ( học) và tri thức.
Chúng tương tác, thâm nhập vào nhau và quy định lẫn nhau tạo ra chất lượng và
hiệu quả giáo dục. Có thể sơ đồ hóa mối quan hệ giữa 3 thành tố: Thầy – Trò – Tri
thức của mô hình dạy – tự học lấy nội lực học làm nhân tố quyết định như sau:
Sơ đồ: Mô hình dạy – tự học





Tri
thức
Lớp

21





Trò: chủ thể

Lớp: cộng đồng lớp học, môi trường xã hội
Tri thức: Tự tìm ra với sự hướng dẫn của thầy và hợp tác của cả lớp
Thầy: tác nhân hướng dẫn, tổ chức
Tự học có những vai trò sau đây:
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Trong quá trình hoạt động
dạy học giáo viên không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ
cần yêu cầu HS ghi nhớ, mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho HS tự
khám phá ra quy luật, thuộc tính mới của khoa học. Giúp HS không chỉ nắm bắt
được tri thức, mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Muốn thành công trên
bước đường học tập thì phải có khả năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề
mà cuộc sống, khoa học đặt ra.
Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh
mẽ cho quá trình học tập. Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân
là tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Nhiệm vụ quan trọng của
giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới
mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi hoàn
cảnh, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực như một điều kiện,
kết quả của sự phát triển nhân cách. Trong đó, hoạt động tự học là những biểu hiện
sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng HS trong quá trình nhận thức thông qua sự
hưng phấn tích cực. Mà sự hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú học tập. Có
hứng thú HS mới có được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu. Hứng thú là động
lực dẫn tới tự giác, nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập của HS.
Thầy

Trò

22
Tự học giúp mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng
định năng lực phẩm chất và cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi
hoàn cảnh sống. Nếu rèn luyện cho HS có được kỹ năng tự học thì tạo cho họ lòng

ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
+ Tự học dưới sự hướng dẫn của GV: Đây là kiểu tự học của những người
còn đang học trong các nhà trường. Hình thức tự học này được tiến hành một cách
linh hoạt phù hợp với từng bậc học, từng loại hình trường học nhưng không làm mất
đi đặc điểm chung là có sự hướng dẫn của GV. Trong trường hợp này việc dạy được
tiến hành trên một nền tảng khoa học đích thực. GV hướng dẫn HS tự nghiên cứu,
tự tìm ra kiến thức có tính chất cá nhân. GV tổ chức cho HS tự thể hiện mình, hợp
tác trao đổi, đối thoại. GV là trọng tài khoa học kết luận, đánh giá kết quả của từng
HS.
+ Tự học không có sự hướng dẫn của GV: Hình thức này gọi là tự nghiên
cứu của những người trưởng thành. Kết quả của quá trình nghiên cứu đi đến sự sự
sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, đây là đỉnh cao của hoạt động tự
học. Dạng tự học này phải được dựa trên nền tảng một niềm khao khát say mê khám
phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa rộng vừa sâu. Tới trình
độ tự học này, người học không có GV mà tự lực tìm hiểu và cọ sát với thực tiễn để
tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình.
+ Tự học trong cuộc sống. Trường hợp này thường gặp ở các nhà văn, các
nhà văn hóa, các nhà kinh tế, các nhà chính trị xã hội,
+ Hình thức tự học có sự hướng dẫn từ xa của GV: Đây là hình thức tự học
của những người theo học các chương trình, các khóa đào tạo từ xa. Hình thức này
được tiến hành có tổ chức, có kế hoạch với một hệ thống tài liệu hướng dẫn tự học
và SGK được soạn riêng cho người học. Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có mối quan
hệ trao đổi thông tin giữa thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin dưới
dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra đánh giá

23
+ Tự học mò mẫm: Đây là hình thức tự học của những người không có điều
kiện để đi học. Vốn tri thức và kĩ năng từ hình thức này là vốn kinh nghiệm thu thập
được trong cuộc sống đầy khó khăn của người lao động. Xã hội càng phát triển thì

hình thức tự học này càng thu hẹp.
Đối với HS THPT thì hình thức tự học có sự hướng dẫn trực tiếp của GV ở
trên lớp và học tập ở nhà (HS tự làm bài tập, tự đọc, tự nghiên cứu theo SGK, tài
liệu tham khảo ) là phổ biến nhất. Do đó hoạt động tự học của HS có một số dấu
hiệu đặc trưng:
+ Học sinh phải tìm ra kiến thức bằng chính hoạt động của mình.
+ Học sinh tự thể hiện mình, đặt mình vào tình huống, nghiên cứu cách xử
lý, tự trình bày, bảo vệ sản phẩm của bản thân, tỏ rõ thái độ trước cách ứng xử của
bạn, tập giao tiếp, hợp tác với mọi người trong quá trình tìm ra kiến thức.
+ GV là người hướng dẫn HS nghiên cứu tìm ra kiến thức và tự thể hiện
mình trong lớp học. Đồng thời, người dạy cũng là trọng tài cố vấn, kết luận trong
các cuộc tranh luận, đối thoại giữa trò với thầy, trò với trò, để khẳng định kiến thức
do trò tự tìm ra. Thầy giáo là người kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của học sinh.
+ HS tự đánh giá, tự kiểm tra lại sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi hợp
tác với bạn. Dựa vào kết luận của giáo viên, các em tự sửa chữa, điều chỉnh, hoàn
thiện và rút kinh nghiệm về cách học, xử lý tình huống, giải quyết vấn đề của mình.
Như vậy quá trình tự học của HS có thể chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: HS tự phát hiện vấn đề, định hướng cách giải quyết vấn đề, thu
thập thông tin và ghi lại những nghiên cứu ban đầu.
Gai đoạn 2: Tự thể hiện bằng văn bản, trình bày giới thiệu và bảo vệ ý kiến
của mình, ghi lại ý kiến của bạn bè, thầy giáo.
Giai đoạn 3: So sánh đối chiếu kết luận của thầy, bạn với ý kiến của mình để
tự sửa chữa điều chỉnh, tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống,
cách giải quyết vấn đề.

24
Để HS có thể thực hiện tốt ba giai đoạn tự học thì người giáo viên phải dạy
tốt ba giai đoạn dạy tự học ở trên lớp cho HS của mình:
Giai đoạn 1: Hướng dẫn thông qua những tình huống, những vấn đề và đề ra
nhiệm vụ học tập cho HS.

Giai đoạn 2: Tổ chức các hoạt động trao đổi, thảo luận, thuyết trình.
Giai đoạn 3: Làm trọng tài, kiểm tra đánh giá nhận thức của HS.
Như vậy, nói đến vấn đề tự học của HS THPT không phải nói tới một vấn đề
gì cao siêu khó thực hiện. Tự học của HS không đòi hỏi mức độ cao như tự học của
một nhà nghiên cứu, mà chủ yếu dựa vào các bài học cụ thể trong SGK, những tài
liệu có liên quan đến bài học để đối chiếu, so sánh, mở rộng làm cho quá trình nhận
thức của HS mang tính chủ động và có tính chất nghiên cứu. Quan trọng hơn, việc
tự học của HS được hình thành và rèn luyện dưới sự dìu dắt định hướng của GV.
Mục đích tự học của HS THPT là giúp các em hiểu sâu sắc trọn vẹn bài học bằng
chính năng lực của mình và biết vận dụng nó như một “kinh nghiệm” của bản thân
- Tự học lịch sử:
Trong bộ môn lịch sử, quan niệm về vấn đề tự học của HS là yếu tố quan
trọng giúp GV xác định các phương pháp dạy học thích hợp.
Trước đây từng tồn tại ý kiến sai lầm cho rằng, học lịch sử chỉ cần thuộc lòng
sự kiện, không cần tư duy, không cần làm bài tập, không cần thực hành. Quan điểm
này đã hạ thấp chất lượng, hứng thú và khả năng tự học của học sinh.
Ngày nay, cùng với quá trình đổi mới giáo dục, quan niệm trên đã dần dần
thay đổi. Trong dạy học lịch sử, “tự học của HS là việc tự nắm vững kiến thức lịch
sử một cách chính xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận
dụng một cách thành thạo” [28;107]. Như vậy, đối với bộ môn lịch sử, tự học của
HS là việc tự nắm vững kiến thức và có thể vận dụng chúng một cách thành thạo
trong học tập cũng như trong cuốc sống. Đó là quá trình đi từ biết đến hiểu, vận
dụng kiến thức. Tự học lịch sử phải được tiến hành với sự hứng thú, ý thức, trách
nhiệm và tinh thần lao động cần cù từ phía người học. Khi có khả năng tự học lịch

25
sử, HS không chỉ nắm vững, hiểu sâu kiến thức, các kỹ năng học tập bộ môn, mà
còn có phẩm chất của người lao động chân chính.
Như vậy, bản chất của tự học lịch sử là quá trình nhận thức tự giác, tích cực,
độc lập, sáng tạo của người học với sự hướng dẫn của GV nhằm đạt được mục đích,

nhiệm vụ học tập bộ môn.
1.1.1.2. Kỹ năng và rèn luyện kỹ năng tự học lịch sử
- Kỹ năng
Có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng. Theo Từ điển Tiếng Việt, “kỹ
năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào
đó vào thực tế” [38;520].
Nhóm các tác giả AV Petrovxki, VA Cruchetxki, AG Covaliov, a Rudich,
xem kỹ năng là kỹ thuật của hành động. Quan niệm này cho rằng, kỹ năng là
phương tiện thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động nào
đó. “Chỉ cần nắm vững phương thức hành động là con người đã có kỹ năng, không
cần đến kết quả của hành động” [13;42].
M.Alêxeep quan niệm “kỹ năng là sự vận dụng tri thức trong thực tiễn, việc
hình thành tri thức tạo điều kiện thuận lợi cho việc rèn luyện kỹ năng” [17;27].
KK Platonov, N Đ Levitov, B. Phlomov, MA Danhilov, xem kỹ năng
không chỉ là kỹ thuật của hành động mà bao gồm cả năng lực giải quyết vấn đề.
“Kỹ năng không chỉ bao gồm các hành động vận động, mà cả những hành động trí
tuệ, độc lập lập kế hoạch quá trình làm việc, tìm thấy trong mỗi trường hợp cụ thể
các phương pháp hợp lý” [14;343]
Cũng theo các nhà tâm lý học, giáo dục học, người có kỹ năng về một hành
động nào đó là người có:
+ Tri thức về hành động bao gồm mục đích, cách thức thực hiện, các điều
kiện để thực hiện hành động.
+ Thực hiện hành động đúng với yêu cầu của nó.
+ Đạt được hiệu quả của hành động như mục đích đã đặt ra.

26
+ Có thể hành động đạt kết quả với những hành động tương tự trong những
điều kiện khác.
Như vậy, nếu xem kỹ năng đơn thuần chỉ nghiêng về mặt kỹ thuật của hành
động thì có thể sẽ đồng nhất kỹ năng với các thao tác của thiết bị máy móc đã được

lập sẵn. Vì thế, kỹ năng không chỉ dừng lại ở kỹ thuật, thao tác hành động, mà còn
là khả năng thực hiện hành động có kết quả trong những tình huống cụ thể. Người
có kỹ năng là người biết lựa chọn, sắp xếp và thực hiện đúng các thao tác nhằm đạt
được kết quả mong muốn.
- Kỹ năng tự học của học sinh
Kỹ năng học tập được hiểu là kỹ năng thực hiện có kết quả các hoạt động
học tập. Trên cơ sở vận dụng tri thức, kỹ xảo đã có, người học giải quyết nhiệm vụ
quá trình dạy học đề ra trong điều kiện học tập nhất định. Kỹ năng tự học là một
nhánh của kỹ năng học tập. Kỹ năng tự học đặc trưng bởi tính “tự”, tức là tính chủ
động, tích cực, độc lập. Nói một cách khác, kỹ năng tự học là kỹ năng tự thu nhận
thông tin phục vụ cho những mục đích học tập nhất định và vận dụng các thông tin
đó để giải quyết một nhiệm vụ mới.
Kỹ năng tự học được cấu thành bởi những hành động tự học diễn ra theo một
trình tự logic, hướng tới mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ tự học được đề ra. Các hành
động tự học cơ bản gồm: xây dựng kế hoạch tự học, đọc – ghi chép, hệ thống hóa,
khái quát hóa tài liệu, giải quyết bài toán nhận thức, trao đổi đàm thoại, Mỗi hành
động trên đòi hỏi phải có sự hiểu biết và mức độ thành thạo nhất định. Nói cách
khác, nó đòi hỏi có những tri thức và kỹ năng tương ứng. Như vậy, có thể hiểu, kỹ
năng tự học bao gồm cả vốn thông tin và tri thức sẵn có, phương pháp và thao tác
vận dụng chúng để người học tự mình giải quyết nhiệm vụ học tập, chiếm lĩnh tri
thức mới.
Kỹ năng tự học của học sinh THPT luôn gắn liền với tính chủ động, tích cực.
Đó là quá trình người học hoạt động để chiếm lĩnh kiến thức và rèn luyện kĩ năng
thực hành bằng cách tự đọc sách giáo khoa, sưu tầm tài liệu. Người học biết cách
thu nhận những thông tin cần thiết như: biết ghi chép, viết tóm tắt, Từ đó, tự làm
các bài tập của môn học, tham gia công việc trong tổ học tập chuyên môn.

×