Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

4 tên doanh nghiệp những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.01 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
Chương I: Lý luận chung về pháp luật đối với việc hình thành
tên doanh nghiệp
3
1. Sự cần thiết phải đặt tên doanh nghiệp 3
2. Các yếu tố cấu thành tên doanh nghiệp 4
3. Các điều quy định về tên doanh nghiệp trong Luật đầu tư năm
2005
5
4. Các điều quy định về tên doanh nghiệp trong Nghị định
88/2006/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh
8
Chương II: Những vấn đề cần hoàn thiện đối với quy định về
tên doanh nghiệp trong thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp
năm 2005 và Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về
đăng ký kinh doanh
11
1. Tên trùng và tên gây nhầm lẫn 11
2. Tên doanh nghiệp và nhãn hiệu hàng hóa 15
3. Phạm vi bảo hộ đối với tên doanh nghiệp 15
4. Tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm
theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được và có ít nhất hai thành tố
18
Kết luận 20
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng ”, đây chính là đoạn đầu
trong khái niệm doanh nghiệp được nghi nhận tại Điều 4 Luật Doanh nghiệp


2005 (LDN 2005). Điều này cho thấy tên doanh nghiệp là một thành tố - một
thành tố quan trọng - cấu thành doanh nghiệp. Tên có ý nghĩa rất lớn đối với
đời sống của doanh nghiệp, nó gắn liền với sự tồn tại, hưng thịnh hay suy
vong của doanh nghiệp. Hiểu được tầm quan trọng của tên doanh nghiệp,
nhiều doanh nghiệp đã có những chiến lược xây dựng và bảo vệ đối với tên
gọi của doanh nghiệp mình; bên cạnh đó, pháp luật kinh tế, đặc biệt là pháp
luật doanh nghiệp, cũng đã tạo dựng một hành lang pháp lý nhằm bảo hộ
quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp đối với tên gọi của doanh nghiệp.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Tên doanh nghiệp những vấn đề lý
luận và thực tiễn” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề này.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đưa ra tính pháp lý cần thiết phải
đặt tên doanh nghiệp, thực tiễn áp dụng theo quy định của pháp luật.
3. Kết cấu của đề tài
Trong khuôn khổ của bài viết, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội
dung chính của đề tài gồm 02 phần
Chương I: Lý luận chung về pháp luật đối với việc hình thành tên
doanh nghiệp
Chương II: Những vấn đề cần hoàn thiện đối với quy định về tên doanh
nghiệp trong thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp năm 2005 và Nghị định số
88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng ký kinh doanh
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH
THÀNH TÊN DOANH NGHIỆP
1. Sự cần thiết phải đặt tên doanh nghiệp
Tên doanh nghiệp là hình thức của doanh nghiệp, là đại từ xưng hô để
xác định một doanh nghiệp cụ thể với đầy đủ những đặc điểm riêng biệt của
nó, tên của doanh nghiệp A được sử dụng để ám chỉ về doanh nghiệp A với
những đặc điểm ngành, nghề kinh doanh, trụ sở, chủ sở hữu riêng có của
doanh nghiệp A chứ không phải doanh nghiệp B, C nào khác. Tên doanh

nghiệp được doanh nghiệp sử dụng thường xuyên trong các mối quan hệ với
các chủ thể khác như quan hệ thương mại với các đối tác, quan hệ quản lý với
các cơ quan quản lý nhà nước, quan hệ lao động với người lao động
Trong quan hệ thương mại, tên doanh nghiệp ngoài vai trò xưng danh và
giúp khách hàng nhận diện doanh nghiệp, tên doanh nghiệp còn có một vai trò
quan trọng hơn đó là sự khẳng định uy tín, vị thế của doanh nghiệp trước
khách hàng cũng như trước các đối tác. Chẳng hạn, nói đến Microsoft, người
ta nghĩ ngay đến tập đoàn phần mềm lớn nhất thế giới, nói đến Coca Cola
người ta nghĩ ngay đến công ty nước giải khát lớn nhất thế giới, nói đến
Trung Nguyên người Việt Nam tự hào vì có một công ty cà phê nổi tiếng
không chỉ ở thị trường trong nước Có thể nói, tên doanh nghiệp có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp, nó tồn tại suốt thời gian tồn tại của
doanh nghiệp từ khi thành lập đến khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động và
được sử dụng thường xuyên khi doanh nghiệp xuất hiện trước công chúng,
trong các giao dịch với khách hàng. Tên doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để
hình thành nên thương hiệu của doanh nghiệp. Trong thực tiễn hoạt động kinh
doanh ở nước ta hiện nay, không ít những doanh nghiệp Việt Nam đã xây
dựng được những thương hiệu mạnh thông qua hình ảnh tên gọi của doanh
nghiệp mình như siêu thị Coop Mart, dệt may Việt Tiến, đồ hộp Hạ Long,
điện tử Tiến Đạt, sữa Vinamilk Do đó, tên doanh nghiệp cũng được xem là
một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, được bảo hộ dưới hình thức là tên
3
thương mại bởi Luật sở hữu trí tuệ. Nhưng quyền đặt tên của doanh nghiệp
trước hết thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp. Pháp luật
doanh nghiệp khẳng định quyền tự do đặt tên doanh nghiệp, với điều kiện
không được xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể khác và không
được trái với truyền thống, đạo đức dân tộc. Các giới hạn quyền tự do đặt tên
này thể hiện ở các quy định cấm trong đặt tên doanh nghiệp.
Theo đó, (i) tên được đặt không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên
của doanh nghiệp khác đã đăng ký;

(ii) Không được dùng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội để làm toàn bộ
hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp (trừ trường hợp có sự chấp thuận
của cơ quan, đơn vị, tổ chức đó);
(iii) Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử,
văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc, tên danh nhân để đặt tên
cho doanh nghiệp;
(iv) Không được sử dựng tên thương mại của tổ chức, cá nhân khác đã
đăng ký bảo hộ để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp (trừ trường hợp được
sự chấp thuận của chủ sở hữu tên thương mại đó).
2. Các yếu tố cấu thành tên doanh nghiệp
Cũng giống như con người, doanh nghiệp khi được khai sinh cũng cần
có một cái tên. Tuy nhiên, khác với con người, doanh nghiệp là một sản phẩm
nhân tạo mang tính pháp lý vì thế tên của doanh nghiệp phải thể hiện được
những nội dung theo quy định của pháp luật, cụ thể là quy định của LDN
2005. Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 LDN 2005 thì tên doanh nghiệp
phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát
âm được và có ít nhất hai thành tố là loại hình doanh nghiệp và tên riêng.
Thành tố thứ nhất, loại hình doanh nghiệp là hình thức tổ chức của
doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
4
danh hay doanh nghiệp tư nhân. Thành tố thứ hai, tên riêng của doanh nghiệp
là từ hoặc nhóm từ mà những người thành lập tùy ý đặt cho doanh nghiệp.
Tên riêng của doanh nghiệp là yếu tố giúp phân biệt các doanh nghiệp với
nhau, nhất là các doanh nghiệp có loại hình giống nhau hoạt động cùng
ngành, nghề.
Theo quy định của Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về
đăng ký kinh doanh (sau đây viết tắt là Nghị định 88) thì doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có thể sử dụng tên riêng bằng tiếng nước ngoài đã đăng ký
để cấu thành một phần hoặc toàn bộ tên riêng của doanh nghiệp.

Như vậy, theo cách quy định của LDN 2005, ngoài hai thành tố trên, tên
doanh nghiệp còn có thể có các thành tố khác như ngành, nghề kinh doanh,
hình thức đầu tư, yếu tố sở hữu, mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các cơ
quan, tổ chức khác Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Nghị định
88 thì những yếu tố đó lại là một bộ phận để cấu thành tên riêng của doanh
nghiệp. Nghĩa là tên doanh nghiệp, theo quy định của Nghị định 88, chỉ bao
gồm 2 thành tố là loại hình doanh nghiệp và tên riêng, tất cả những yếu tố cấu
thành tên doanh nghiệp không phải là loại hình doanh nghiệp đều được xem
là tên riêng của doanh nghiệp. Điều này thể hiện sự thiếu thống nhất trong các
quy định của pháp luật mà cụ thể trong trường hợp này là sự thiếu thống nhất
giữa luật và văn bản hướng dẫn thi hành nó.
3. Các điều quy định về tên doanh nghiệp trong Luật đầu tư năm 2005
Điều 31. Tên doanh nghiệp
1. Tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ
số và ký hiệu, phải phát âm được và có ít nhất hai thành tố sau đây:
a) Loại hình doanh nghiệp;
b) Tên riêng.
2. Tên doanh nghiệp phải được viết hoặc gắn tại trụ sở chính, chi nhánh,
văn phòng đại diện của doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp phải được in hoặc
5
viết trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát
hành.
3. Căn cứ vào quy định tại Điều này và các điều 32, 33 và 34 của Luật
này, cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền từ chối chấp thuận tên dự kiến
đăng ký của doanh nghiệp. Quyết định của cơ quan đăng ký kinh doanh là
quyết định cuối cùng.
Điều 32. Những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp
1. Đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã
đăng ký.
2. Sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân,

tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc
một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ
quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.
3. Sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo
đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Điều 33. Tên doanh nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài và tên viết tắt của
doanh nghiệp
1. Tên doanh nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài là tên được dịch từ tên
bằng tiếng Việt sang tiếng nước ngoài tương ứng. Khi dịch sang tiếng nước
ngoài, tên riêng của doanh nghiệp có thể giữ nguyên hoặc dịch theo nghĩa
tương ứng sang tiếng nước ngoài.
2. Tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp được in hoặc viết với
khổ chữ nhỏ hơn tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp tại cơ sở của doanh
nghiệp hoặc trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh
nghiệp phát hành.
6
3. Tên viết tắt của doanh nghiệp được viết tắt từ tên bằng tiếng Việt hoặc
tên viết bằng tiếng nước ngoài.
Điều 34. Tên trùng và tên gây nhầm lẫn
1. Tên trùng là tên của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được viết và đọc
bằng tiếng Việt hoàn toàn giống với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.
2. Các trường hợp sau đây được coi là tên gây nhầm lẫn với tên của
doanh nghiệp đã đăng ký:
a) Tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được đọc
giống như tên doanh nghiệp đã đăng ký;
b) Tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên
doanh nghiệp đã đăng ký bởi ký hiệu “&”;
c) Tên viết tắt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên viết tắt
của doanh nghiệp đã đăng ký;

d) Tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng
với tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp đã đăng ký;
đ) Tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng của
doanh nghiệp đã đăng ký bởi số tự nhiên, số thứ tự hoặc các chữ cái tiếng
Việt ngay sau tên riêng của doanh nghiệp đó, trừ trường hợp doanh nghiệp
yêu cầu đăng ký là công ty con của doanh nghiệp đã đăng ký;
e) Tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng của
doanh nghiệp đã đăng ký bởi từ “tân” ngay trước hoặc “mới” ngay sau tên
riêng của doanh nghiệp đã đăng ký;
g) Tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên riêng của
doanh nghiệp đã đăng ký bằng các từ “miền bắc”, “miền nam”, “miền trung”,
“miền tây”, “miền đông” hoặc các từ có ý nghĩa tương tự, trừ trường hợp
doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là công ty con của doanh nghiệp đã đăng ký.
7
4. Các điều quy định về tên doanh nghiệp trong Nghị định 88/2006/NĐ-
CP về đăng ký kinh doanh
Điều 10. Tên doanh nghiệp
1. Tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo
chữ số và ký hiệu, phát âm được và phải có hai thành tố sau đây:
a) Thành tố thứ nhất: Loại hình doanh nghiệp, bao gồm: công ty trách
nhiệm hữu hạn, cụm từ trách nhiệm hữu hạn có thể viết tắt là TNHH; công ty
cổ phần, từ cổ phần có thể viết tắt là CP; công ty hợp danh, từ hợp danh có
thể viết tắt là HD; doanh nghiệp tư nhân, từ tư nhân có thể viết tắt là TN;
b) Thành tố thứ hai: Tên riêng của doanh nghiệp;
Riêng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể sử dụng tên riêng
bằng tiếng nước ngoài đã đăng ký để cấu thành một phần hoặc toàn bộ tên
riêng của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp có thể sử dụng ngành, nghề kinh doanh, hình thức đầu
tư hay yếu tố phụ trợ khác để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp nếu doanh
nghiệp có đăng ký kinh doanh ngành, nghề đó hoặc thực hiện đầu tư theo hình

thức đó. Khi không còn kinh doanh ngành, nghề hoặc thực hiện hình thức đầu
tư đã dùng để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải
đăng ký đổi tên.
3. Nếu tên riêng của doanh nghiệp sử dụng các thành tố có tính chất mô
tả xuất xứ, chất lượng hàng hóa, dịch vụ thì phải được cơ quan quản lý nhà
nước xác nhận.
Điều 11. Những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp
1. Không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh
nghiệp khác đã đăng ký trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Quy định này không bao gồm doanh nghiệp đã bị thu hồi Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
2. Không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội để làm toàn bộ
8
hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận
của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.
3. Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử,
văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc, tên danh nhân để đặt tên
riêng cho doanh nghiệp.
4. Không được sử dụng tên thương mại của tổ chức, cá nhân khác đã
đăng ký bảo hộ để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp trừ trường hợp được
sự chấp thuận của chủ sở hữu tên thương mại đó. Doanh nghiệp phải tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật nếu vi phạm quy định này. Trường hợp tên của
doanh nghiệp vi phạm các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với tên thương mại thì doanh nghiệp có tên vi phạm phải
đăng ký đổi tên.
Điều 12. Tên trùng và tên gây nhầm lẫn
1. Tên trùng là trường hợp tên của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được
viết và đọc bằng tiếng Việt hoàn toàn giống với tên của doanh nghiệp đã đăng
ký.

2. Các trường hợp sau đây được coi là gây nhầm lẫn với tên của các
doanh nghiệp khác:
a) Tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được đọc
giống như tên doanh nghiệp đã đăng ký;
b) Tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên
doanh nghiệp đã đăng ký bởi ký hiệu "&"; ký hiệu "-" ; chữ "và";
c) Tên viết tắt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên viết tắt
của doanh nghiệp khác đã đăng ký;
d) Tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng
với tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp khác đã đăng ký;
đ) Tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng của
doanh nghiệp đã đăng ký bởi một hoặc một số các số tự nhiên, số thứ tự hoặc
một hoặc một số chữ cái tiếng Việt (A, B, C, ) ngay sau tên riêng của doanh
9
nghiệp đó, trừ trường hợp doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là doanh nghiệp con
của doanh nghiệp đã đăng ký;
e) Tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng của
doanh nghiệp đã đăng ký bởi từ "tân" ngay trước, hoặc “mới" ngay sau tên
của doanh nghiệp đã đăng ký;
g) Tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên riêng của
doanh nghiệp đã đăng ký bởi các từ "miền Bắc", "miền Nam", "miền Trung",
"miền Tây", "miền Đông" hoặc các từ có ý nghĩa tương tự; trừ trường hợp
doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là doanh nghiệp con của doanh nghiệp đã đăng
ký;
h) Tên riêng của doanh nghiệp trùng với tên riêng của doanh nghiệp đã
đăng ký.
Điều 13. Các vấn đề khác liên quan đến đặt tên doanh nghiệp
1. Các doanh nghiệp đăng ký trước khi Nghị định này có hiệu lực có tên
trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp khác theo quy định
tại Điều 12 Nghị định này không bị buộc phải đăng ký đổi tên. Khuyến khích

và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có tên trùng và tên gây nhầm
lẫn tự thương lượng với nhau để đăng ký đổi tên doanh nghiệp.
2. Căn cứ quy định tại các Điều 31, 32, 33 và 34 của Luật Doanh nghiệp
và quy định tại Chương này, cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền từ chối
chấp thuận tên dự kiến đăng ký của doanh nghiệp và quyết định của cơ quan
đăng ký kinh doanh là quyết định cuối cùng.
3. Trước khi đăng ký đặt tên doanh nghiệp, doanh nghiệp tham khảo tên
các công ty đang hoạt động lưu giữ tại Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh
nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính.
10
CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN HOÀN THIỆN ĐỐI VỚI QUY
ĐỊNH VỀ TÊN DOANH NGHIỆP TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT
DOANH NGHIỆP NĂM 2005 VÀ NGHỊ ĐỊNH SỐ 88/2006/NĐ-CP NGÀY
29/8/2006 VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
1. Tên trùng và tên gây nhầm lẫn
Theo Điều 34 LDN 2005, tên trùng là tên được viết và đọc bằng tiếng
Việt hoàn toàn giống với tên của doanh nghiệp đã đăng ký. Tên của hai doanh
nghiệp được coi là trùng khi tất cả các thành tố cấu tạo nên tên của hai doanh
nghiệp này hoàn toàn giống nhau trong cách viết lẫn cách đọc. Còn nếu có bất
kỳ một sự khác biệt nào trong các thành tố của tên doanh nghiệp hay trong
cách đọc hoặc cách viết của tên doanh nghiệp này thì chúng sẽ không bị coi là
trùng tên. Chẳng hạn như sẽ bị coi là hai doanh nghiệp trùng tên khi cả hai
đều có tên là công ty TNHH A&B, song doanh nghiệp sẽ không bị coi là
trùng nếu chỉ có một doanh nghiệp tên “A&B”, doanh nghiệp còn lại tên
“a&b” (cách đọc giống nhau nhưng viết khác nhau), trong trường hợp này hai
doanh nghiệp sẽ bị coi là tên gây nhầm lẫn.
LDN 2005 xem những trường hợp sau đây là tên gây nhầm lẫn:
− Tên bằng tiếng Việt được đọc giống như tên doanh nghiệp đã đăng ký
hoặc chỉ khác tên doanh nghiệp đã đăng ký bởi ký hiệu “&”;
− Tên viết tắt hoặc tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp yêu cầu

đăng ký trùng với tên viết tắt, tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp đã
đăng ký;
− Tên riêng của doanh nghiệp chỉ khác tên riêng của doanh nghiệp đã
đăng ký bởi số tự nhiên, số thứ tự, hay bởi các chữ cái tiếng Việt (A, B, C ),
các từ “tân”, “mới”, “Bắc”, “miền Bắc”, “Nam”, “miền Nam”, “Trung”,
“miền Trung”, “Tây”, “miền Tây”, “Đông”, “miền Đông”.
− Ngoài ra, Nghị định 88 còn bổ sung thêm một trường hợp đó là trường
hợp tên riêng của doanh nghiệp trùng với tên riêng của doanh nghiệp đã đăng
11
ký. Quy định bổ sung này của Nghị định 88 là hoàn toàn hợp lý bởi trước đây,
do Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Nghị định 109/2004/NĐ-CP không quy
định về trường hợp này nên theo nguyên tắc công dân được quyền làm những
gì mà pháp luật không cấm nên một số người đã đặt tên cho doanh nghiệp
mình có thành tố tên riêng giống với tên riêng của các doanh nghiệp đã nổi
tiếng trước đó và tổ chức doanh nghiệp dưới loại hình khác. Do đó, tình trạng
một loạt các công ty TNHH Bình Minh, công ty cổ phần Bình Minh, DNTN
Bình Minh và nhiều cái tên khác nữa được thành lập một cách tràn lan đã gây
ra không ít nhầm lẫm cho người dân trong việc xác định đối tượng để tiến
hành giao dịch.
Nhìn chung, so với Luật doanh nghiệp năm 1999 và Nghị định
109/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật này thì Điều 34 LDN 2005 và
Điều 12 Nghị định 88 đã quy định khá toàn diện và chi tiết về tên trùng và tên
gây nhầm lẫn. Mặc dù vậy, vẫn còn một số vấn đề cần bàn thêm về quy định
của LDN 2005 và Nghị định 88.
Thứ nhất, sự thiếu thống nhất của LDN 2005 và Nghị định 88 về các
thành tố cấu thành tên doanh nghiệp gây nên sự nhập nhằng trong trong việc
áp dụng điểm h khoản 2 Điều 12 của Nghị định 88.
Như đã trình bày ở trên, nếu căn cứ vào Điều 31 của LDN 2005 thì tên
doanh nghiệp được cấu thành không chỉ bởi hai thành tố loại hình doanh
nghiệp và tên riêng mà có thể có thành tố thứ ba là các yếu tố phụ trợ khác

như ngành, nghề, hình thức đầu tư Ngược lại, Nghị định 88 lại khẳng định
tên doanh nghiệp chỉ bao gồm hai thành tố là loại hình doanh nghiệp và tên
riêng, những yếu tố phụ trợ kể trên là một bộ phận của thành tố tên riêng.
Điều này sẽ dẫn đến hai hệ quả khác nhau trong việc xác định tên gây nhầm
lẫn do có tên riêng trùng nhau như trong tình huống cụ thể sau đây:
Một doanh nhân muốn thành lập công ty TNHH thương mại điện tử Tự
Do ở tỉnh Gia Lai nhưng đã bị Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Gia Lai từ chối
cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với lý do trên địa bàn tỉnh đã có
12
một công ty TNHH Tự Do đang hoạt động. Sau đó vị doanh nhân này đã đến
đăng ký ở Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh thì lại được Sở này cấp
phép thành lập mặc dù tại thời điểm đó đã có một công ty TNHH Tự Do
đang hoạt động ở quận Bình Thạnh. Vậy cách xử lý của Sở nào đúng? Với
cách quy định như của LDN 2005 thì cách xử lý của Sở Kế hoạch và Đầu tư
tỉnh Gia Lai là đúng còn nếu căn cứ theo quy định của Nghị định 88 thì cách
xử lý của Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh là đúng. Về nguyên tắc,
khi có sự thiết thống nhất giữa hai văn bản pháp quy, văn bản nào có hiệu lực
cao hơn sẽ được áp dụng, trong trường hợp này là LDN. Tuy nhiên, xét về nội
dung thì quy định của Nghị định 88 sẽ phù hợp, bởi lẽ:
− Xét về mặt ngôn ngữ, tiếng Việt của chúng ta quả thật là phong phú,
song để có được một cái tên hay, dễ đọc, dễ nhớ và dễ nhận biết cho doanh
nghiệp thì không phải là dễ, đặc biệt là khi chúng ta thực hiện chính sách hội
nhập kinh tế, giao dịch ngoại thương với các đối tác nước ngoài ngày càng
nhiều thì việc đặt tên cho doanh nghiệp còn phải đáp ứng được yêu cầu tên
giao dịch tiếng nước ngoài được dịch từ tên tiếng Việt là có ý nghĩa.
− Xét về tính phù hợp thì Nghị định 88 là phù hợp hơn, bởi vì dù có hiệu
lực thấp hơn LDN 2005 nhưng Nghị định được ban hành sau nên có điều kiện
để nắm bắt những biến đổi của thực tế, nhất là trong điều kiện hiện nay,
chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO, các quan hệ kinh tế
đang có nhiều những thay đổi cho phù hợp với trình độ chung của thế giới.

Thứ hai, các trường hợp tên gây nhầm lẫn theo quy định của LDN 2005
và Nghị định 88 là chưa đầy đủ, cũng nên coi là gây nhầm lẫn nếu tên viết tắt
của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên riêng của doanh nghiệp đã
đăng ký. Bởi vì khả năng gây nhầm lẫn trong trường hợp này là rất cao. Ví
dụ, giả sử có một số thương nhân kinh doanh giầy ở chợ thấy nhãn hiệu giầy
T&T (tiếng Việt đọc là Tờ và Tờ) hiện đang được ưa chuộng nhiều nên rủ
nhau thành lập công ty Tập thể và Tôi với tên viết tắt là T&T để kinh doanh
mặt hàng giầy, nếu dựa theo quy định của pháp luật hiện hành thì công ty Tập
13
thể và Tôi này sẽ được phép thành lập, lúc đó chắc chắn sẽ không ít người bị
nhầm lẫn công ty này với nhãn hiệu đã nổi tiếng T&T và như thế, thiệt hại
cho khách hàng và công ty giầy T&T là không tránh khỏi.
Một tình huống gây tranh cãi khác xảy ra khá nhiều trong thực tiễn xét
xử ở TP. Hồ Chí Minh đó là liệu có gây nhầm lẫn không khi tên riêng của
doanh nghiệp (thậm chí cùng loại hình doanh nghiệp và hoạt động cùng lĩnh
vực) chỉ khác tên riêng của doanh nghiệp bởi một chữ cái, ví dụ như công ty
XAMEXCO và công cy TAMEXCO, công ty SAMACO và công ty
SAMICO Xét về mặt ngôn ngữ, trường hợp khác một chữ cái trong âm tiết
đầu tiên là để nhận biết (XAMEXCO và TAMEXCO), các trường hợp khác
một chữ cái từ âm tiết thứ hai trở đi thì khó phân biệt hơn vẫn rất dễ gây nhầm
lẫn (SAMACO và SAMICO). Thực tiễn khi hỏi nhiều người tiêu dùng về
những trường hợp trên thì họ cũng cho rằng dễ dẫn đến nhầm lẫn giữa công ty
SAMACO và công ty SAMICO. Tôi cũng đồng tình với quan điểm của số
đông người tiêu dùng cho rằng trường hợp khác một chữ cái từ âm tiết thứ hai
trở đi là rất dễ gây nhầm lẫn và kiến nghị bổ sung trường hợp này vào các quy
định của pháp luật về tên gây nhầm lẫn.
Thứ ba, trường hợp tên gây nhầm lẫn do có chữ “tân” ngay trước hoặc
“mới” ngay sau tên riêng của doanh nghiệp, theo tác giả, là không cần thiết,
bởi: Một là, luật chỉ quy định trường hợp xuôi chứ chưa có quy định trường
hợp ngược, nghĩa là luật chỉ cấm thành lập doanh nghiệp có tên riêng khác

với tên riêng của doanh nghiệp đang tồn tại do có thêm chữ “tân” hoặc “mới”,
trường hợp ngược lại thì luật vẫn còn bỏ ngõ. Cụ thể, trong lĩnh vực công
nghệ thông tin hiện có một công ty tên Tân Thiên Niên Kỷ, nếu một nhà đầu
tư nào đó muốn thành lập công ty Tân Thiên Niên Kỷ Mới thì công ty của ông
ta sẽ không được chấp nhận theo điểm e khoản 2 Điều 34 LDN 2005, nhưng
nếu ông ta đặt tên công ty là Thiên Niên Kỷ thì lại được chấp nhận. Hai là,
việc cho thêm chữ “tân” hay chữ “mới” vào tên riêng của doanh nghiệp là
một sự phân biệt dễ nhận thấy và cũng không làm cho khách hàng liên tưởng
14
đến mối quan hệ công ty mẹ - công ty con giữa các doanh nghiệp này. Ví dụ
về công ty Tân Thiên Niên Kỷ và công ty Thiên Niên Kỷ cũng đã thể hiện rõ.
2. Tên doanh nghiệp và nhãn hiệu hàng hóa
Nghị định 88 mới chỉ cấm việc sử dụng tên thương mại đã đăng ký bảo
hộ để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp, chưa quy định về việc sử dụng
nhãn hiệu hàng hóa để đặt tên. Một ví dụ minh chứng điều này là nhãn hàng
Trà xanh 0
0
của công ty TNHH TM&DV Tân Hiệp Phát hiện là một trong
những loại nước giải khát được ưa chuộng trên thị trường, song khi được hỏi
thì một số người tiêu dùng và người bán lẻ trả lời không biết về công ty sản
xuất của nhãn hàng Trà xanh 0
0
. Còn khi được hỏi nếu bây giờ có một công ty
có tên là Trà xanh 0
0
thì họ có nghĩ đây là công ty đã sản xuất ra loại nước
uống trà xanh đang được yêu thích đó không thì đa số câu trả lời là “có”. Như
vậy, với quy định của LDN 2005 và Nghị định 88, liệu rằng các cơ quan đăng
ký kinh doanh có từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay
không?

Thật ra, cơ sở pháp lý về vấn đề trên thì có nhưng điều kiện để thực hiện
thì vẫn còn đầy vướng mắc. Điều 78 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: tên thương
mại không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên
thương mại đó được sử dụng. Vì thế, để đảm bảo tính thống nhất giữa các văn
bản pháp luật và tạo một sự rõ ràng cho hoạt động đăng ký kinh doanh, tác giả
kiến nghị nên bổ sung thêm cụm từ “nhãn hiệu hàng hóa” vào sau cụm từ
“tên thương mại” của khoản 4 Điều 11 Nghị định 88.
3. Phạm vi bảo hộ đối với tên doanh nghiệp
Trên thực tế đã xảy ra một trường hợp liên quan đến phạm vi bảo hộ tên
doanh nghiệp như sau: Vào năm 1997, một “công ty TNHH thương mại dịch
vụ Chính Quang” được thành lập và đăng ký kinh doanh tại TP. Hồ Chí Minh.
Sau đó, năm 1999 Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội lại cấp Giấy chứng nhận
15
đăng ký kinh doanh cho “công ty TNHH thương mại dịch vụ Chính Quang”
hoạt động kinh doanh cùng ngành nghề với công ty cùng tên tại TP. Hồ Chí
Minh mà không phải là công ty con của công ty này. Đến năm 2003 thì công
ty Chính Quang có trụ sở tại Hà Nội đã lập một chi nhánh ở TP. Hồ Chí Minh
và đặt văn phòng ngay bên cạnh công ty Chính Quang có trụ sở tại TP. Hồ
Chí Minh. Chi nhánh này đã tiến hành các hoạt động kinh doanh dưới sự ủy
quyền của công ty Chính Quang tại Hà Nội và đã gây nhiều thiệt hại cho công
ty cùng tên tại TP. Hồ Chí Minh do khách hàng đến liên hệ bị nhầm chi nhánh
của công ty ngoài Hà Nội với công ty Chính Quang tại TP. Hồ Chí Minh.
Mặc dù đại diện công ty Chính Quang tại TP. Hồ Chí Minh đã nhiều lần gặp
gỡ để thỏa thuận với công ty Chính Quang tại Hà Nội về việc đổi tên doanh
nghiệp nhưng cho đến nay vụ việc vẫn chưa được giải quyết xong. Đây mới
chỉ là một vụ việc điển hình về trùng tên doanh nghiệp và còn biết bao nhiêu
vụ việc khác giống như vụ việc trên vẫn chưa tìm được hướng giải quyết.
Vụ việc trên sẽ càng trở nên khó khăn hơn khi Nghị định 88 chỉ giới hạn
phạm vi bảo hộ tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn trong phạm vi tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương vì như thế hành vi của công ty Chính Quang tại
Hà Nội hoàn toàn không trái luật. Như vậy, phạm vi bảo hộ tên doanh nghiệp
như quy định của Nghị định 88 là hẹp, chưa đảm bảo được triệt để quyền lợi
của các doanh nghiệp đối với tên doanh nghiệp. Thiết nghĩ, với điều kiện
thông tin liên lạc và trình độ quản lý nhà nước đối với hoạt động đăng ký kinh
doanh ở nước ta hiện nay thì việc rà soát tên doanh nghiệp trong cả nước xem
có trùng hoặc nhầm lẫn không là khả thi, bởi vậy có thể và nên mở rộng phạm
vi bảo hộ đối với tên doanh nghiệp ra cả nước. Hơn nữa, tên thương mại có
thể được bảo hộ trên phạm vi toàn quốc nếu được đăng ký với Cục Sở hữu trí
tuệ, mà tên doanh nghiệp thực chất chính là tên thương mại theo định nghĩa
của Luật Sở hữu trí tuệ. Như vậy, để tên của doanh nghiệp được bảo hộ trong
phạm vi cả nước, doanh nghiệp phải đăng ký bảo hộ dưới hình thức tên
thương mại, điều này gây phiền hà và tốn kém không cần thiết cho doanh
16
nghiệp, đồng thời tạo ra sự chia cắt trong hoạt động quản lý của các cơ quan
nhà nước. Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường, việc một doanh nghiệp
có quan hệ làm ăn với các đối tác trong khắp cả nước, thậm chí ở nước ngoài
là rất phổ biến hiện nay. Nếu đem soi vào khái niệm khu vực kinh doanh
trong Luật Sở hữu trí tuệ thì rõ ràng tên doanh nghiệp sẽ được bảo hộ trong
phạm vi cả nước. Mở rộng phạm vi bảo hộ còn giúp hạn chế được những khó
khăn cho doanh nghiệp vì điều kiện kinh doanh phải chuyển trụ sở sang tỉnh
khác, tránh được việc doanh nghiệp không thể thay đổi trụ sở do tên bị trùng
hoặc gây nhầm lẫn với một doanh nghiệp khác ở tỉnh mà doanh nghiệp dự
định chuyển đến.
Cần phải nói thêm là Điều 13 Nghị định 88 quy định: “Các doanh
nghiệp đăng ký trước khi Nghị định này có hiệu lực có tên trùng hoặc tên gây
nhầm lẫn với tên doanh nghiệp khác theo quy định tại Điều 12 Nghị định này
không bị buộc phải đăng ký đổi tên. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp có tên trùng và tên gây nhầm lẫn tự thương lượng với
nhau để đăng ký đổi tên doanh nghiệp”. Với quy định này thì những vụ việc

như vụ của công ty Chính Quang nói ở trên sẽ không biết phải thương lượng
đến bao giờ và sẽ giải quyết ra sao nếu một trong hai bên không chịu đổi tên
của doanh nghiệp mình. Ngoài trường hợp trên còn có hàng chục trường hợp
doanh nghiệp trùng tên khác ngay trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, như các tên
doanh nghiệp “Bình Minh”, “Hoàng Long”, hay “Thịnh Phát” Dù biết rằng
những trường hợp như vậy xảy ra là do trước đây điều kiện vật chất chưa cho
phép để có thể có một mạng lưới thông tin quốc gia nhằm giúp các cơ quan
đăng ký kinh doanh kiểm tra tên các doanh nghiệp trong cả nước. Song nếu
chúng ta không kiên quyết khắc phục triệt để từ bây giờ thì vấn đề cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp có tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn
sau này là điều khó tránh khỏi. Đến lúc đó, chi phí để giải quyết tranh chấp sẽ
lớn hơn rất nhiều.
17
4. Tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo
chữ số và ký hiệu, phải phát âm được và có ít nhất hai thành tố
Câu chuyện tên riêng của doanh nghiệp tưởng chừng đơn giản, song hóa
ra nó lại không hề đơn giản, dù việc đặt tên doanh nghiệp tại Luật Doanh
nghiệp 2005 và các quy định có liên quan đã khá rõ ràng và cụ thể.
Vì, nếu bạn đang trong quá trình thành lập doanh nghiệp và đặt tên cho
doanh nghiệp của mình là OXM, Vinasin, T&G,…thì việc đăng ký thành lập
doanh nghiệp của bạn sẽ không thành công vì tên doanh nghiệp không có
nghĩa. Hay, nếu bạn đặt tên là TONY, hay EROS thì cũng tương tự, trừ khi
bạn chuyển thành tương ứng TÔ NY và Thần Tình Yêu.
Bởi, theo quy định của Luật Doanh nghiệp “Tên doanh nghiệp phải viết
được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được
và có ít nhất hai thành tố…”.
Trong khi đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đang
“mếu máo” trong việc đặt tên cho doanh nghiệp của mình.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài muốn sử dụng tên bằng tiếng nước ngoài thì chỉ được dùng tên

của công ty mẹ. Chính vì quy định này mới nảy ra những tình huống dễ
gây “cười” khi có những tên nước ngoài dịch sang tiếng Việt Nam hoàn toàn
không mang một ý nghĩa nào: Công ty Hậu cần quyền lực (Power Logistics
Corporation), Công ty Chuyên nhân tạo (Artifial Pro Inc.), Công ty Sản xuất
phim bạc (Silver Production), v.v… Khi một số doanh nghiệp nước ngoài vào
đầu tư tại Tp.HCM, Sở Kế hoạch và Đầu tư của thành phố đã không tiếp nhận
hồ sơ mà yêu cầu phải đổi tên doanh nghiệp lại bằng tiếng Việt và cũng yêu
cầu tên tiếng Việt đã đổi phải phát âm được.
Ví như, trường hợp của công ty TNHH ACE EMB phải đổi tên thành
Thêu Châu Á, song vẫn không được chấp nhận với lý do đã có 18 doanh
nghiệp trên địa bàn Tp.HCM có tên Châu Á, nên tên riêng của doanh nghiệp
bị trùng và buộc phải thay đổi tiếp. Hay, Công ty TNHH Juno Việt Nam phải
18
đổi tên thành Công ty TNHH Vệ Nữ Việt Nam. Những yêu cầu này là không
hợp lý và gây khó khăn cho nhà đầu tư.
Có ý kiến cho rằng việc đặt tên doanh nghiệp cốt sao cho dễ nhớ, ăn sâu
vào tâm trí người tiêu dùng là mục đích tối hậu của nhà đầu tư. “Như vậy,
việc buộc đặt tên bằng tiếng Việt là quy định hình quá hình thức gây cản trở
hoạt động của doanh nghiệp”.
Trong khi đó, các nước láng giềng đều cho phép doanh nghiệp sử dụng
tiếng nước ngoài để đặt tên nhằm nâng cao khả năng hội nhập, như Lenovo,
Haier, Chery (Trung Quốc), Lucky Goldstar, sau này là LG (Hàn Quốc), Sony
(Nhật Bản), v.v…
Những quy định trong Luật Doanh nghiệp về đặt tên doanh nghiệp là
khá rõ ràng và cụ thể. Việc dẫn tới tình trạng một vấn đề đơn giản là đặt tên
riêng của doanh nghiệp lại trở thành vướng do ở một số địa phương cán bộ
đăng ký kinh doanh vẫn chưa thống nhất nhận thức và hiểu đúng, hoặc hiểu
một cách khá cứng nhắc về “tên viết bằng tiếng Việt.
Thậm chí, một số địa phương do nhận thức không đúng về yêu cầu đặt
tên doanh nghiệp, áp dụng máy móc mà nhiều doanh nghiệp đã không thể

đăng ký được để hoạt động kinh doanh.
19
KẾT LUẬN
Tên doanh nghiệp là một nội dung không mới nhưng cho đến nay,
những tranh chấp về tên doanh nghiệp vẫn đang là một vấn đề mang tính thời
sự. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy tên doanh nghiệp là một vấn đề rất quan
trọng, tên doanh nghiệp không chỉ là phương tiện giúp khách hàng phân biệt
các doanh nghiệp với nhau mà nó còn liên quan đến vấn đề thương hiệu, vấn
đề cạnh tranh, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Vì thế, những quy định chặt chẽ của pháp luật về vấn đề này là cần
thiết và hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của các
doanh nghiệp, góp phần tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh cho
các doanh nghiệp hoạt động và phát triển.
20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Luật doanh nghiệp năm 1999
2. Luật doanh nghiệp năm 2005
3. Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003
4. Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng ký kinh doanh
II. Các tài liệu chuyên khảo
5. Giáo trình Luật thương mại – Trường đại học Luật Hà Nội xuất bản năm
2007
III. Các trang Web
6. vietlaw.org.vn
7. dangkykinhdoanh.net
8. issi.gov.vn
9. kinhdoanh.com.vn
10. dangcongsan.vn
11. bussine.gov.vn

21

×