Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

15 một số ý kiến hoàn thiện luật doanh nghiệp 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.16 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
CHƯƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT DN
NĂM 2005
4
1. Phạm vi điều chỉnh 4
2. Đối tượng áp dụng 4
3. Quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp, người lao động trong
doanh nghiệp
4
4. Các quy định về thủ tục và điều kiện gia nhập thị trường 6
5 Về tên doanh nghiệp 7
6 Mô hình doanh nghiệp 8
7. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp 13
CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
TRONG VĂN BẢN LUẬT
15
1. Về yêu cầu phải có chứng chỉ hành nghề đối với Giám đốc 15
2. Về tỷ lệ cổ phần phổ thông khi thông qua biểu quyết 16
3. Về tư cách pháp nhân của Công ty hợp danh 17
CHƯƠNG III: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC HƯỚNG DẪN
CỤ THỂ HƠN
19
1. Về việc áp dụng Luật Doanh nghiệp, điều ước quốc tế và các
Luật khác có liên quan:
19
2. Về quy định ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều
kiện kinh doanh
19
3. Về việc thành lập doanh nghiệp đối với nhà đầu tư nước


ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam
20
4. Về con dấu của doanh nghiệp 21
5. Về địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp 21
6. Về tiêu chuẩn của Giám đốc (Tổng Giám đốc) 21
7. Về thuê giám đốc (Tổng Giám đốc) 22
8. Về cho thuê doanh nghiệp, bán doanh nghiệp 23
9. Về Tập đoàn kinh tế 23
10. Về chia doanh nghiệp, tách doanh nghiệp, hợp nhất doanh
nghiệp và sáp nhập doanh nghiệp
24
11. Về di chuyển doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp 26
Kết luận 27
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ
8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1
tháng 7 năm 2006; đồng thời sẽ thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999,
Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1996 trong việc tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Việc xây dựng và ban hành Luật Doanh nghiệp là nhằm khắc phục những
khiểm khuyết của hệ thống pháp luật hiện hành về tổ chức quản lý và hoạt
động của doanh nghiệp, đồng thời là thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
IX của đảng và một số Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành TW chủ
trương xây dựng luật thống nhất về doanh nghiệp, tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi, bình đẳng và phù hợp với kinh tế thị trường định hướng
XHCN và quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật Doanh nghiệp được ban hành bao gồm 10 chương với 172 điều. So
với Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 có những

nội dung đổi mới cơ bản: Mở rộng phạm vi và đối tượng áp dụng, đơn giản
và rõ ràng hơn trong thành lập và đăng ký kinh doanh, hoàn thiện quản trị
doanh nghiệp, tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2005 - còn gọi là Luật Doanh
nghiệp thống nhất - đã có hiệu lực thi hành được gần hai năm. Với những
nội dung tiến bộ hơn, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã góp phần tích cực
trong việc tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng thông thoáng
cho mọi thành phần kinh tế ở nước ta.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, có khá nhiều vấn đề phát sinh trong
thực tế, đòi hỏi được nghiên cứu, giải đáp nhằm tháo gỡ kịp thời những khó
khăn không đáng có cho các doanh nghiệp.
2
Vì vậy, trong khuôn khổ của bài viết này em xin đi sâu nghiên cứu đề
tài “Một số ý kiến hoàn thiện Luật doanh nghiệp năm 2005” nhằm góp
phần đánh giá thực trạng và các giải pháp để hoàn thiện Luật doanh nghiệp
trong thực thi pháp luật của Việt Nam.
2. Những vấn đề phát sinh cần nghiên cứu
Có thể chia những vấn đề đã phát sinh cần nghiên cứu, giải quyết
thành hai nhóm:
Nhóm 1: Những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong văn bản luật
Nhóm 2: Những vấn đề cần được hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn
3. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm 03
phần
Chương I: Những nội dung cơ bản của Luật doanh nghiệp
Chương II: Những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong văn bản luật
Chương III: Những vấn đề cần được hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn
3
CHƯƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT DN NĂM 2005
3. Phạm vi điều chỉnh

Với tính chất là Luật doanh nghiệp thống nhất, phạm vi điều chỉnh của
Luật doanh nghiệp bao gồm việc thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động của
bốn loại hình doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; không phân biệt tính chất
sở hữu và thành phần kinh tế nhằm tạo khung pháp lý thống nhất, minh
bạch áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp.
4. Đối tượng áp dụng
Đối tượng áp dụng Luật là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế, bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty
hợp danh và doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến
việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp.
3. Quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp, người lao động trong doanh
nghiệp
3.1. Về quyền của doanh nghiệp
Các quyền cụ thể được quy định trong Luật doanh nghiệp (Điều 8)
bao gồm:
− Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình
thức kinh doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh
doanh; được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi
tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích;
− Quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng
vốn;
− Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng;
− Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu;
− Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; chủ
động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh
doanh và khả năng cạnh tranh;
4
− Tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ; chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp;

− Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật
quy định;
− Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng
theo quy định của pháp luật;
− Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
3.2. Về nghĩa vụ của doanh nghiệp
Để bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, kỷ cương, tính lành mạnh
trong hoạt động kinh doanh, Luật cũng quy định cụ thể nghĩa vụ của doanh
nghiệp, bao gồm các nghĩa vụ sau:
+ Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy
định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
+ Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực,
chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán.
+ Đăng ký mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa
vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
+ Bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp
luật về lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo
hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm.
+ Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo
tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc công bố.
+ Thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về thống kê;
định kỳ báo cáo đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính
của doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định;
khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa
đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó.
5
+ Tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá

và danh lam thắng cảnh.
3.3 Về quyền của người lao động trong các doanh nghiệp
Để bảo đảm quyền lợi của người lao động, tại khoản 4 Điều 9 của
Luật doanh nghiệp đã quy định nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong việc
bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về
lao động, pháp luật về bảo hiểm.
Ngoài ra, Luật cũng quy định quyền thành lập và tham gia các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị-xã hội trong doanh nghiệp, cụ thể Điều 6 quy
định như sau:
− Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và theo Điều lệ của tổ chức
mình phù hợp với quy định của pháp luật.
− Doanh nghiệp có nghĩa vụ tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi để người
lao động thành lập và tham gia hoạt động trong các tổ chức quy định tại
khoản 1 Điều này.”
4. Các quy định về thủ tục và điều kiện gia nhập thị trường
4.1 Về thủ tục đăng ký kinh doanh
Các quy định của Luật được xây dựng theo hướng tiếp tục đơn giản
hoá các thủ tục hành chính trong khâu đăng ký kinh doanh.
Trình tự thực hiện đăng ký kinh doanh được quy định cụ thể như sau:
− Người thành lập doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh theo
quy định của Luật này tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền và
phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ
đăng ký kinh doanh.
− Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký
kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn
mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp Giấy chứng
6
nhận đăng ký kinh doanh thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập
doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lý do và các yêu cầu sửa đổi, bổ

sung.
− Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp
lệ của hồ sơ khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không được yêu
cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ khác không quy
định tại Luật này.
Đối với trường hợp đăng ký kinh doanh gắn với dự án đầu tư cụ thể,
thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thực hiện theo quy định
của pháp luật về đầu tư.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam thì
hồ sơ, trình tự, thủ tục, điều kiện và nội dung đăng ký kinh doanh, đầu tư
được thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về đầu tư. Giấy
chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
4.2. Về điều kiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Theo quy định tại Điều 24 của Luật thì doanh nghiệp được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh khi có đủ các điều kiện sau:
- Ngành, nghề đăng ký kinh doanh không thuộc lĩnh vực cấm
kinh doanh;
- Tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định tại các
điều 31, 32, 33 và 34 của Luật này;
- Có trụ sở chính theo quy định tại khoản 1 Điều 35 của Luật
này;
- Có hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ theo quy định của pháp
luật;
- Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật.
5 Về tên doanh nghiệp
7
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, loại bỏ hành
vi cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, bảo đảm tính văn
hóa trong đặt tên doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp đã quy định một số điều

cấm trong đặt tên doanh nghiệp, cụ thể như sau:
- Cấm đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh
nghiệp đã đăng ký.
- Cấm sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp để
làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có
sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.
- Cấm sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử,
văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
6 Mô hình doanh nghiệp
6.1 Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá
nhân. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử
dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính
khác theo quy định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực
tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh.
Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ
doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
8
Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư
nhân hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến
hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn của
chủ doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp

cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại
hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân nên
mức độ rủi ro của chủ doanh tư nhân cao, chủ doanh nghiệp tư nhân phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và của chủ doanh
nghiệp chứ không giới hạn số vốn mà chủ doanh nghiệp đã đầu tư vào
doanh nghiệp.
6.2 Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: (i) Phải có ít nhất hai
thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên
góp vốn; (i) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn
và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty; (i) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công
ty. Công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân và không được phát hành
bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn.
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty; tiến hành các hoạt
động kinh doanh nhân danh công ty; cùng liên đới chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận
theo tỷ lệ được quy định tại Điều lệ công ty; không được tham gia quản lý
công ty và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Các thành viên hợp
danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty.
Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của
nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên
hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn
9
hàng, đối tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty không quá phức
tạp do số lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin
tưởng nhau. Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao.
Loại hình công ty hợp danh mới chỉ được quy định trong Luật doanh

nghiệp năm 2000 nên trên thực tế loại hình doanh nghiệp này chưa phổ
biến.
6.3 Công ty TNHH
6.3.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên
Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên là doanh nghiệp
trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh
nghiệp. Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành
viên tối thiểu là hai và tối đa không vượt quá năm mươi. Công ty trách
nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được
quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có Hội
đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc. Công ty trách
nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên phải có Ban kiểm soát.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất
ở Việt nam hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế như: (i) do có tư cách
pháp nhân nên các thành viên công ty chỉ trách nhiệm về các hoạt động của
công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người
góp vốn; (ii) số lượng thành viên công ty trách nhiệm không nhiều và các
thành viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều
10
hành công ty không quá phức tạp; (iii) Chế độ chuyển nhượng vốn được
điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi
các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty. Tuy nhiên,
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có những hạn chế nhất định
như: (i) do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác,
bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng; (ii) công ty trách nhiệm hữu hạn
chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay

công ty hợp danh; (iii) việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn
bị hạn chế do không có quyền phát hành cổ phiếu.
6.3.2 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hình thức đặc biệt
của công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ
chức làm chủ sở hữu; chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của
doanh nghiệp.
Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần
vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên không được quyền phát hành cổ phiếu.
Chủ sở hữu công ty không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số
vốn đã góp vào công ty. Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng
cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá
nhân khác. Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận của công ty khi
công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến
hạn phải trả.
11
Tùy thuộc quy mô và ngành, nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý
nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: Hội đồng
quản trị và Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc.
Nhìn chung, công ty trách nhiệm hữu hạn có đầy đủ các đặc thù của
công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên. Điểm khác biệt duy
nhất giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách
nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên chỉ có một thành viên duy nhất và thành viên nàyphải là một tổ
chức có tư cách pháp nhân.

Lợi thế của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là chủ sở hữu
công ty có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của
công ty. Tuy nhiên, loại hình công ty này cũng có hạn chế là các cá nhân
không được phép thành lập loại hình công ty này, chỉ có một số chủ thể có
tư cách pháp nhân như các tổ chức chính trị xã hội, công ty cổ phần, công
ty nhà nước… mới được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên.
6.4 Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: (i)Vốn điều lệ được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; (ii)Cổ đông chỉ chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi
số vốn đã góp vào doanh nghiệp; (iii)Cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu
cổ phần ưu đãi biểu quyết; (iv)Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng
cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành
chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
12
Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ
đông phải có Ban kiểm soát.
Lợi thế của công ty cổ phần là: (i) chế độ trách nhiệm của công ty cổ
phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do
của các cổ đông không cao; (ii) khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất
rộng, trong hầu hết các lịch vực, ngành nghề; (ii) cơ cấu vốn của công ty cổ
phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty;
(iv) khả năng huy động vốn của công ty cổ phầnrất cao thông qua việc phát
hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần;

(v) việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do
vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả
các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có
những hạn chế nhất định như: (i) việc quản lý và điều hành công ty cổ phần
rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không
hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ
động đối kháng nhau về lợi ích; (ii) Việc thành lập và quản lý công ty cổ
phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt
chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.
7. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
Theo quy định tại Điều 161 thì nội dung quản lý nhà nước bao gồm:
- Ban hành, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp
luật về doanh nghiệp và văn bản pháp luật có liên quan.
- Tổ chức đăng ký kinh doanh; hướng dẫn việc đăng ký kinh
doanh bảo đảm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng
phát triển kinh tế - xã hội.
13
- Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng
cao đạo đức kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp; phẩm chất chính
trị, đạo đức, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp;
đào tạo và xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề.
- Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp theo định
hướng và mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội.
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, của cá nhân và tổ
chức có liên quan theo quy định của pháp luật.
14
CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG

VĂN BẢN LUẬT
Nhìn chung, những vấn đề thuộc nhóm này không nhiều. Theo nghiên
cứu của tác giả, có ít nhất ba vấn đề sau:
1. Về yêu cầu phải có chứng chỉ hành nghề đối với Giám đốc
Khoản 4 Điều 16 quy định:
"4. Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc và cá nhân khác đối với doanh
nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có
chứng chỉ hành nghề"
Khoản 5 Điều 18 quy định:
"5. Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá
nhân khác đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của
pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề".
Khoản 5 Điều 19 quy định:
"5. Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá
nhân khác đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của
pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề".
Những quy định trên có nghĩa là với những lĩnh vực, ngành nghề kinh
doanh đòi hỏi phải có chứng chỉ hành nghề thì Giám đốc (Tổng Giám đốc)
phải có chứng chỉ đó. Đó là điều vô lý và đã được giải thích rằng, do sơ
suất trong việc soạn văn bản đã có sự nhầm lẫn giữa chuyển chữ " hoặc"
thành chữ " và".
15
2. Về tỷ lệ cổ phần phổ thông khi thông qua biểu quyết
Khoản 2 Điều 52 quy định:
"2. Quyết định của Hội đồng thành viên được thông qua tại cuộc họp
trong các trường hợp sau đây:
a) Được số phiếu đại diện ít nhất 65% tổng số vốn góp của các thành
viên dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định;
b) Được số phiếu đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp của các thành
viên dự họp chấp thuận đối với quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc

lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất
của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty và
việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại, giải thể công ty; tỷ lệ cụ
thể do Điều lệ công ty quy định".
Khoản 3 Điều 104 quy định:
"3. Quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua tại cuộc họp
khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của
tất cả cổ đông dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định;
b) Đối với quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại
được quyền chào bán; sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; tổ chức lại, giải thể
công ty; đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá
trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ
công ty không có quy định khác thì phải được số cổ đông đại diện ít nhất
75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận; tỷ lệ
cụ thể do Điều lệ công ty quy định".
Quy định đã trích dẫn trên gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước
ngoài khi trong lộ trình mở cửa của Việt Nam theo cam kết gia nhập WTO,
16
ở một số lĩnh vực, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được góp vốn đến tỷ lệ cao
nhất là 49%.
Vì vậy, một trong những cam kết của Việt Nam liên quan đến vấn đề
này trong WTO là: "Sửa lại quy định về tỷ lệ cổ phần phổ thông khi thông
qua biểu quyết tại Điều 52 và 104 Luật DN đối với liên doanh là cho các
bên liên doanh thỏa thuận tỷ lệ cụ thể trong Điều lệ công ty".
Trong thực tế, quy định tại Điều 52 và Điều 104 như trích dẫn trên
cũng gây khó khăn cho các Công ty TNHH, Công ty Cổ phần của Việt
Nam vì việc triệu tập cho đủ những thành viên góp vốn hoặc Cổ đông đại
diện đủ 65% hoặc 75% tổng số phiếu có quyền biểu quyết là không dễ.
Nếu chúng ta chỉ sửa lại theo hướng "cho các bên liên doanh thỏa

thuận tỷ lệ cụ thể trong Điều lệ công ty" sẽ vi phạm nguyên tắc thương mại
không phân biệt đối xử. Do đó, xin đề nghị sửa lại quy định của Luật theo
hướng quy định một tỷ lệ khác áp dụng chung cho các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế.
3. Về tư cách pháp nhân của Công ty hợp danh
Điều 130 Luật Doanh nghiệp quy định:
1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty,
cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp
danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
17
2. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Quy định nêu trên mâu thuẫn với Điều 84 Luật Dân sự năm 2005 quy
định về pháp nhân. Điều 84 Luật Dân sự quy định như sau:
"Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện
sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập".
Như vậy, khi các thành viên hợp danh góp vốn thành lập công ty và
công ty có tư cách pháp nhân thì họ hoạt động nhân danh pháp nhân đó. Do
đó, quy định "Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty" là vô lý.

Luật Doanh nghiệp mới được ban hành. Mặc dù vậy, "những hạt sạn"
trong văn bản luật xuất hiện vì một lý do nào đó cũng cần được sửa đổi, bổ
sung kịp thời. Không nên xử lý "chữa cháy" bằng những văn bản dưới luật.
Cách triệt để nhất là: trong khi chờ đợi trình Quốc hội thông qua
những nội dung cần bổ sung, sửa đổi, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội
có một Nghị quyết về những bổ sung sửa đổi này. Đó là cách làm tích cực
nhất và chúng ta đã thực hiện trước đây đối với một số nội dung của Luật
Thuế giá trị gia tăng trong những ngày đầu Luật thuế này được ban hành.
18
CHƯƠNG III: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC HƯỚNG DẪN CỤ THỂ HƠN
1. Về việc áp dụng Luật Doanh nghiệp, điều ước quốc tế và các Luật
khác có liên quan:
Khoản 2, Điều 3 Luật Doanh nghiệp quy định:
"2. Trường hợp đặc thù liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý
và hoạt động của doanh nghiệp được quy định tại Luật khác thì áp dụng
theo quy định của Luật đó".
Trong những năm vừa qua, chúng ta đã có cố gắng rất lớn trong lĩnh
vực ban hành các văn bản Luật. Vì vậy, đã có rất nhiều Luật được ban hành
ở những thời điểm khác nhau. Đề nghị, có chỉ dẫn cụ thể trong một Nghị
định của Chính phủ về " Những trường hợp đặc thù" nêu trên.
2. Về quy định ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh
doanh
Khoản 5 Điều 7 Luật Doanh nghiệp quy định:
"5. Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các
cấp không được quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều
kiện kinh doanh."
Khoản 5 Điều 5 Nghị định 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định:
"5. Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại các Luật,
Pháp lệnh hoặc Nghị định của Chính phủ. Nghiêm cấm việc ban hành và
quy định không đúng thẩm quyền về các ngành, nghề kinh doanh có điều

kiện".
Song, tại khoản 5 Điều 9 của Nghị định 88/2006/NĐ-CP lại quy định:
"5. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm
vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm hướng dẫn về các ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành, nghề đó".
19
Quy định nêu trên lại ”bật đèn xanh” cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ
thuộc Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh. Với chức năng ”hướng
dẫn”, các Giấy phép con vẫn ra đời như "trăm hoa đua nở" mặc cho có rất
nhiều chỉ thị, nghị quyết về việc ngăn chặn "đại nạn" này.
Thậm chí, người ta còn "sáng tác" thêm những điều kiện khác nữa.
Chẳng hạn, với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực kiểm toán, theo
một Thông tư của Bộ Tài chính, Giám đốc không chỉ phải có chứng chỉ
kiểm toán viên mà còn phải đáp ứng điều kiện "đính kèm" là "Có chứng chỉ
kiểm toán viên ít nhất 03 năm trước ngày đăng ký kinh doanh".
3. Về việc thành lập doanh nghiệp đối với nhà đầu tư nước ngoài lần
đầu tiên đầu tư vào Việt Nam
Điều 20 Luật Doanh nghiệp quy định:
”Hồ sơ, trình tự, thủ tục, điều kiện và nội dung đăng ký kinh doanh,
đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam được
thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về đầu tư. Giấy chứng
nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”.
Nội dung trên chưa được hướng dẫn. Do đó, hàng loạt câu hỏi đã
được đặt ra như: Thế nào là nhà đầu tư nước ngoài "lần đầu tiên đầu tư vào
Việt Nam"? nếu nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào một công ty đã thành
lập ở Việt Nam thì có phải thực hiện theo Luật Đầu tư không? Thế nào là
"thực hiện theo Luật này và pháp luật về đầu tư"?
Trong những trường hợp cụ thể, nếu xẩy ra mâu thuẫn giữa hai luật
thì xử lý theo Luật nào? Tổ thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã
phải có một công văn hướng dẫn về vấn đề này. Song, công văn hướng dẫn

không thể thay cho một văn bản pháp quy.
20
4. Về con dấu của doanh nghiệp
Khoản 2 Điều 36 quy định:
"Trong trường hợp cần thiết, được sự đồng ý của cơ quan cấp dấu,
doanh nghiệp có thể có con dấu thứ hai".
Đề nghị quy định rõ hơn trường hợp cần thiết là những trường hợp
nào?
Ngoài ra, về con dấu của doanh nghiệp, một vấn đề đã được đề nghị
sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn chưa được quan tâm giải quyết, đó là: không
nên đưa thông tin về quận, huyện trong con dấu để khi di chuyển địa điểm
trong phạm vi một tỉnh, thành phố doanh nghiệp không phải xin khắc lại
con dấu. Đề nghị nghiên cứu, cải tiến vấn đề này.
5. Về địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp
Khoản 3 Điều 37 quy định:
"3. Địa điểm kinh doanh là nơi hoạt động kinh doanh cụ thể của
doanh nghiệp được tổ chức thực hiện. Địa điểm kinh doanh có thể ở ngoài
địa chỉ đăng ký trụ sở chính".
Đề nghị quy định rõ hơn: Địa điểm kinh doanh là đơn vị phụ thuộc
của doanh nghiệp, mọi giao dịch thương mại và nghĩa vụ với ngân sách nhà
nước đều do Công ty thực hiện.
6. Về tiêu chuẩn của Giám đốc (Tổng Giám đốc)
Tiết b, Khoản 1 Điều 57 quy định:
"1. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải có các tiêu chuẩn và điều kiện
sau đây:
b) Là cá nhân sở hữu ít nhất 10% vốn điều lệ của công ty hoặc người
không phải là thành viên, có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế
21
trong quản trị kinh doanh hoặc trong các ngành, nghề kinh doanh chủ yếu
của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty".

Quy định nêu trên đặt ra những câu hỏi sau:
Phải chăng nếu là cá nhân sở hữu 10% vốn điều lệ của công ty thì
không cần những điều kiện khác?
Thế nào là có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản trị
kinh doanh?
Có trình độ chuyên môn và có kinh nghiệm thực tế là hai điều kiện
phải đồng thời đáp ứng hay chỉ cần một trong hai?
7. Về thuê giám đốc (Tổng Giám đốc)
Khoản 1 Điều 70. quy định:
"1. Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty bổ nhiệm hoặc thuê
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc với nhiệm kỳ không quá năm nămđể điều
hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc chịu trách nhiệm trước pháp luật và Hội đồng thành viên hoặc
Chủ tịch công ty về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình.
Khoản 2 và 3 Điều 74 quy định:
2. Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người khác làm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
3. Quyền, nghĩa vụ, nhiệm vụ cụ thể của Giám đốc được quy định tại
Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký
với Chủ tịch công ty".
Trong thực tế hiện nay, khi các doanh nghiệp mở rộng phạm vi kinh
doanh, tăng quy mô, phá vỡ phương thức "gia đình trị", việc thuê Giám đốc
(Tổng Giám đốc) sẽ phát sinh ngày càng nhiều. Vì vậy, rất cần một hành
lang pháp lý cho việc thuê Giám đốc (Tổng Giám đốc).
22
Nếu việc thuê Giám đốc (Tổng Giám đốc) chỉ thông qua hợp đồng lao
động thì rất nguy hiểm cho chủ sở hữu. Bởi lẽ, Luật Lao động của nước ta
được sử dụng để bảo vệ người lao động, thậm chí có phần bao che, dung
túng cho hành vi sai phạm của người lao động.
Với vị trí Giám đốc (Tổng Giám đốc) được thuê, người lao động có

thể bội tín, chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu và làm đơn xin thôi việc. Khi
đó, nếu chủ sở hữu phát đơn kiện thì " được vạ, má đã sưng"!.
8. Về cho thuê doanh nghiệp, bán doanh nghiệp
Điều 144 quy định:
"Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp
của mình "
Điều 145 quy định ":
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho
người khác ".
Câu hỏi được đặt ra là: Vì sao chỉ chủ doanh nghiệp tư nhân mới có
quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp và bán doanh nghiệp của mình?
Trong thực tế hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp thuộc loại hình Công ty
TNHH, Công ty Cổ phần, Công ty hợp danh được chào bán trên mạng
thông tin mua- bán doanh nghiệp.
Việc chào bán như vậy có là hợp pháp? Trình tự, thủ tục của việc cho
thuê và bán doanh nghiệp như thế nào? Nghị định 88 không đề cập gì đến
vấn đề này.
9. Về Tập đoàn kinh tế
Điều 149 quy định:
23
"Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy
định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh
tế".
Hiện nay, chúng ta đã có một số tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô
hình công ty mẹ - công ty con do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập.
Câu hỏi đặt ra là: Trong khu vực kinh tế tư nhân, việc hình thành Tập
đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ - công ty con có được pháp luật thừa
nhận không? Để hình thành Tập đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ -
công ty con trong khu vực kinh tế tư nhân phải đáp ứng những điều kiện

gì? Thực hiện những thủ tục gì?
10. Về chia doanh nghiệp, tách doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp
và sáp nhập doanh nghiệp
Việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp sẽ là tất yếu khách
quan và sẽ xẩy ra ngày càng nhiều trong những năm sắp tới. Những quy
định đáng quan tâm về vấn đề này như sau:
Khoản 3 Điều 150 quy định:
“3. Công ty bị chia chấm dứt tồn tại sau khi các công ty mới được
đăng ký kinh doanh. Các công ty mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm
về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty bị chia hoặc thoả thuận với chủ nợ, khách hàng và người
lao động để một trong số các công ty đó thực hiện các nghĩa vụ này”.
Khoản 3 Điều 151 quy định:
“3. Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty bị tách và công ty được tách
phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp
đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách, trừ trường hợp
24
công ty bị tách, công ty mới thành lập, chủ nợ, khách hàng và người lao
động của công ty bị tách có thoả thuận khác”.
Khoản 4 Điều 152 quy định:
“4. Sau khi đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn
tại; công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách
nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa
vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất”.
Tiết c, khoản 2, Điều 153 quy định:
“Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại;
công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu
trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa
vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập”.
Vướng mắc lớn nhất khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp

là phải có xác nhận đã hoàn thành nghĩa vụ thuế. Vì vậy, không ít trường
hợp đã lựa chọn phương án thành lập một doanh nghiệp mới thay cho việc
hợp nhất doanh nghiệp vì nếu phải chờ quyết toán thuế của các công ty sẽ
hợp nhất thì thời gian quá dài.
Đề nghị có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này theo hướng những công ty
mới hình thành sau việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập phải chịu trách
nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, trong đó có cả nghĩa vụ với ngân
sách nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi thực
hiện những phương án này.
Tương tự như vậy đối với việc chuyển đổi từ Công ty TNHH thành
công ty cổ phần và ngược lại.
25

×