Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng
trong giảng toán THCS
A/ Đặt vấn đề:
ở THCS học sinh đợc cung cấp những kiến thức cơ bản qua các môn
học trong đó có môn Toán. Để quá trình dạy học đạt kết quả cao cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa tâm huyết của thầy và say sa học hỏi của trò. Và
việc các em vận dụng kiến thức đó vào thực tế là cũng rất cần thiết.
Học tập luôn là nhiệm vụ đồng thời cũng là quyền lợi suốt đời. Khoa
học - kỹ thuật và đời sống đang thay đổi mau lẹ, ngừng học tập sẽ trở lên lạc
hậu, cần tìm những hình thức học tập thích hợp.
Môn Toán THCS cung cấp cho học sinh những kiến thức, phơng pháp
phổ thông cơ bản, thiết thực, hình thành và rèn luyện kỹ năng, khả năng suy
luận hợp lý, hợp lôgic, khả năng quan sát, dự đoán, phát triển trí tởng tợng,
bồi dỡng các phẩm chất t duy linh hoạt, độc lập, sáng tạo, hình thành thói
quen tự học, tự nghiên cứu, diễn đạt chính xác và sáng sủa ý tởng của mình.
Góp phần hình thành các phẩm chất lao động khoa học cần thiết của ngời lao
động mới. Có đợc điều đó không thể thiếu đợc vai trò của chủ đạo, quyết
định hớng của thầy, mỗi giáo viên phải không ngừng học tập, trao đổi chuyên
môn, nghiệp vụ, cải tiến phơng pháp dạy đáp ứng và phù hợp với mục tiêu
giáo dục theo kế hoạch giáo dục mới, rèn cho học sinh những kỹ năng tốt
nhất.
B. Giải quyết vấn đề
Để rèn kỹ năng cho học sinh tốt, tôi thờng xuyên dự giờ, thăm lớp, học
tập chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt qua những buổi góp ý, rút kinh nghiệm
của tổ chuyên môn cấp tổ, cấp trờng, cấp miền, cấp huyệnRút kinh
nghiệm học hỏi những bài học hay và thấy đợc những khó khăn, yếu kém,
hạn chế của một số giáo viên đứng lớp để rút kinh nghiệm cho cá nhân mình
nh:
Không xác định đúng trọng tâm của bài học, xác định mức độ kiến
thức cũng nh kỹ năng không đúng đối tợng học sinh, còn dừng lại ở kiến
thức lớp dới hoặc dùng kiến thức ở lớp trên để xây dựng cho lớp dới, cha
hiểu hết nội dung SGK, còn rập khuôn cứng nhắc, truyền thụ một cách áp
đặt, hạn chế trong việc liên hệ kiến thức thực tế, cha liên hệ, so sánh với kiến
thức cũ để nhận biết, khắc sâu và nhớ lâu nh so sánh giữa định lý hai tam
giác đồng dạng: Nếu một đờng thẳng song song với cạnh của tam giác và
cắt hai cạnh còn lại thì tạo thành một tam giác mới có ba cạnh tỉ lệ với ba
cạnh của tam giác đã cho. Để thấy đợc sự khác nhau, tránh nhầm lẫn trong
quá trình sử dụng, đồng thời thấy đợc sự phát triển của đơn vị kiến thức mới
so với đơn vị kiến thức cũ.
Trong quá trình giảng dạy, dùng ngôn ngữ thiếu chính xác, nói lắp, nói
nhịu, nói nhầm, diễn đạt không rõ ràng, đặt vấn đề cha có sự thu hút, lôi
cuốn học sinh, sử dụng phơng pháp không phù hợp với đối tợng học sinh và
môn học, hệ thống câu hỏi cha khoa học, lôgic, không phù hợp với đối tợng
học sinh, đặc biệt cha chú ý rèn kỹ năng cho học sinh. Không sử dụng đồ
dùng, thiết bị thí nghiệm trực quan, hoặc có sử dụng nhng tiến hành không
thành công, kết quả không cao, vị trí đứng của giáo viên còn che lấp vị trí
quan sát kết quả thí nghiệm, trình bày bảng còn cẩu thả, cha khoa học. Phân
phối thời gian không hợp lý, chọn bài tập, ví dụ không thích hợp, không quan
tâm đến đối tợng học sinh, cha biết khai thác lời của học sinh để uốn nắn cho
tập thể lớp, còn lúng túng trong việc điều khiển lớp, xử lí các tình huống còn
chậm cha linh hoạt, không làm chủ đợc các tình huống, thiếu chính xác
khách quan, không hớng dẫn học sinh về nhà hoặc hớng dẫn sơ sài không
chu đáo, không rõ ràng Đó là một số nhợc điểm giáo viên thờng mắc phải
khó có thể là tấm gơng sáng trong việc rèn kỹ năng cho học sinh vận dụng
kiến thức nhanh nhất, chính xác và rõ ràng.
Với nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục, tôi tìm hiểu thực trạng những khó
khăn, những yếu kém trong quá trình truyền thụ kiến thức để từ đó đa ra ph-
ơng pháp giảng dạy phù hợp với đối tợng học sinh và nội dung từng tiết học,
bài học đáp ứng việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh tốt nhất, học sinh nhanh
chóng lĩnh hội tri thức, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Trớc hết, tôi tự rèn luyện cho mình có ý thức luôn xác định mục tiêu,
trọng tâm của bài, nắm những nội dung kiến thức, kỹ năng và từ đó mở rộng,
nâng cao cho học sinh khá, giỏi, nghiên cứu phơng pháp phù hợp với đối t-
ợng học sinh, năng lực học sinh với môn học, tiết học để phát huy tính tự
giác, tích cực của học sinh, kích thích học sinh động não và thực sự chủ động
lĩnh hội kiến thức. Hình thành cho học sinh phơng pháp suy nghĩ, nghiên
cứu, tự phát hiện vấn đề mà sách giáo khoa nêu ra cũng nh mục đích viết
sách, có thể theo hớng đặt và giải quyết vấn đề hoặc hợp tác trong nhóm nhỏ
nhằm tích cực hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển khả
năng tự học, nhằm hình thành cho học sinh t duy tích cực, độc lập, sáng tạo,
nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn kỹ năng vận dụng kiến
thức giải quyết bài tập, đặc biệt liên hệ kiến thức với thực tế, đồng thời hình
thành cho học sinh những kỹ năng , kỹ xảo qua các bài học, tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Chẳng hạn sử
dụng những kí hiệu trên hình vẽ cần đơn giản, không cần cầu kỳ dễ dẫn đến
nhầm lẫn trong quá trình phát hiện đờng nối chứng minh học hoặc trong giải
bài toán hình học, việc vẽ phác hình, ớm chừng cũng rất cần thiết song cũng
cần có cơ sở để đo độ chính xác tơng đối, giáo viên là ngời hớng dẫn học
sinh tìm tòi, phát hiện để trở thành kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Nh:
+ Học sinh khi xác định trung điểm, qua nhiều lần giáo viên nêu vấn
đề: Em hãy nêu cách xác định vị trí trung điểm, dựa vào số các dòng kẻ? Và
giáo viên cho học sinh kiểm tra lại. Hay khi vẽ đờng thẳng song song với đ-
ờng thẳng cho trớc. Và kể cả qua bài tập học sinh cũng nêu lên đợc kỹ năng
vẽ hình. Ví dụ: Sau khi giải bài tập: Cho xOy, A
Ox, B
Oy sao cho OA =
OB, M là trung điểm của AB. Chứng minh M
tia phân giác của xOy?.
Giáo viên nêu vấn đề: Hãy nêu cách vẽ phân giác của xOy. Học sinh nhìn
nhận lại và xác định. Đó là một trong những kĩ năng, kĩ xảo rất cần thiết
trong hình học.
* Hay với học sinh lớp 8, khi học ĐKXĐ cuả phơng trình SGK có viết.
Ví dụ 1: Tìm điều kiện xác định của mỗi phơng trình sau:
a.
2 1
1
2
x
x
+
=
b.
2 1
1
1 2x x
= +
+
Giải
a. Vì x -2 = 0
x = 2 nên ĐKXĐ của phơng trình
2 1
1
2
x
x
+
=
là: x
2
b. Ta thấy x -1
0 khi x
1 và x + 2
0 khi x
-2
Vậy ĐKXĐ của phơng trình
2 1
1
1 2x x
= +
+
là x
1 và x
-2.
Giáo viên định hớng cho học sinh thấy đợc dạng toán ở hai phần giống
nhau nhng bật lên hai cách làm khác nhau và cũng từ đó tơng tự học sinh đọc
sách phải biết đợc mục đích trình bày của sách cũng nh có kỹ năng phù hợp
với mình nhất.
Hình thành hệ thống câu hỏi phù hợp, lôgíc cũng là rất cần thiết. Định
hớng câu hỏi hợp lý giúp cho phơng pháp học tập, lĩnh hội tri thức hào hứng,
giờ học sôi nổi, các em tự cảm nhận đợc mình nh một nhà tìm kiếm, phát
minh, thúc đẩy, hối thúc thời gian nghiên cứu của mỗi thành viên trong
nhóm, trong tổ để đạt đợc mục đích chính xác nhất, nhanh nhất. Song cũng
do sự phát triển tâm lý lứa tuổi muốn khẳng định mình nên nhiều em trình
bày lời giải trong khoảng thời gian rất ngắn, không chú ý đến kiểm tra lại,
không đi tìm lời giải đúng, lời giải hay. Giáo viên thờng xuyên kiểm tra chỉ
ra những lỗi sai không đáng có của học sinh giúp các em nhận ra những kĩ
năng đã đợc và cha đợc để rút kinh nghiệm. Đồng thời giáo viên luôn khuyến
khích những học sinh có những hớng giải khác nhau để thúc đẩy các em
khẳng định mình theo chiều hớng tiến bộ, hứng thú học tập, yêu thích bộ
môn.
Bản thân tôi còn nghiên cứu, lựa chọn những từ ngữ trong sáng, dễ
hiểu, sử dụng những hình thức thể hiện và trình bày rộng rãi theo sơ đồ, tranh
vẽ và bảng tóm tắt, đồng thời sử dụng những cách đặt vấn đề khác nhau phù
hợp với từng bài, từng phần nh tạo ra tình huống làm nảy sinh vấn đề bằng
các hoạt động trả lời câu hỏi, làm bài tập thực hành, đồng thời có những ví
dụ phản vấn đề để học sinh dần đi đến kiến thức mới một cách tự nhiên, nhẹ
nhàng đồng thời tự rèn luyện cho mình kĩ năng về vấn đề đó là đúng hay sai.
Chẳng hạn nh khi học về Tứ giác nội tiếp. Sau khi giới thiệu tứ giác nội
tiếp, giáo viên đa bài tập nhận biết và nảy sinh vấn đề nh sau. Cho hình vẽ:
Hãy tìm những tứ giác nội tiếp và một vài tứ giác không nội tiếp. Có
thể học sinh có thể kẻ hoặc không thể kể đến tứ giác EFGH là tứ giác không
nội tiếp thì giáo viên cũng đa ra (nếu học sinh không kể). Tứ giác EFGH có
nội tiếp hay không? Học sinh dễ nhầm là không bởi có 2 đỉnh không nằm
trên đờng tròn. Khi đó giáo viên vẽ một đờng tròn đi qua 4 đỉnh E, F, G, H để
học sinh quan sát đồng thời giáo viên chốt lại và giới thiệu phần tiếp theo.
Một tình huống đơn giản nhng học sinh xác định đợc kỹ năng đúng, hay sai.
Bên cạnh đó, tôi còn luôn luôn học tập và tìm cho mình có nghệ thuật
trình bày bảng ngắn gọn, sáng sủa, sạch sẽ, làm nổi bật trọng tâm của bài và
tận dụng tối đa phơng tiện, thiết bị dạy học với t cách làm phơng tiện nhận
B
A
C
E
thức mà không đơn thuần chỉ là minh hoạ đơn giản, ngoài ra còn tự làm
những đồ dùng phục vụ cho bộ môn nh: Compa, êke, thớc kẻ, và định h-
ớng, kích thích cho học sinh cùng làm nh mô hình: hình thoi, hình vuông,
hình chữ nhật, hình lập phơng và trong quá trình hớng dẫn cũng nh tiến
hành thí nghiệm, tôi luôn có ý thức xác định vị trí đứng phù hợp.
Trong mỗi tiết học, tôi luôn xác định vai trò chủ đạo, làm chủ các tình
huống, vận dụng linh hoạt các phơng pháp, biện pháp hớng dẫn học sinh có
những kĩ năng chính xác, làm chủ tri thức, đánh giá chính xác, khách quan
để học sinh nhận ra những mặt mạnh, mặt còn hạn chế. Hơn nữa tôi thờng
xuyên trao đổi trực tiếp, thăm dò ý kiến học sinh, lắng nghe từ phía học sinh
để nắm bắt, rút kinh nghiệm trong phơng pháp dạy, truyền đạt kiến thức để
học sinh lĩnh hội kiến thức tốt nhất và có kỹ năng tốt nhất.
C. Kết luận và những bài học kinh nghiệm.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn Toán THCS
nói riêng, trong quá trình giảng dạy nói chung rất mong đợc sự góp ý của
đồng nghiệp.
Với những kinh nghiệm đó trong quá trình giảng dạy tôi đã đạt đợc
những kết quả khả quan nh nhiều năm liền là giáo viên giỏi, đối tợng học
sinh hết cấp và đầu vào cấp III khá cao. Tôi tin rằng đó là những kinh
nghiệm quý báu, mong các đồng nghiệp tham khảo và thể nghiệm.
Giao Hà, ngày tháng năm 2008
Giáo viên