Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.98 KB, 56 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước, đặc
biệt là chính sách đổi mới về đối ngoại và kinh tế đối ngoại cùng với xu hướng toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng nhanh ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới, ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch của Ninh Bình nói riêng
cũng có những bước tiến nhất định và ngày càng có tác động tích cực hơn đến nhiều
lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội đất nước. Du lịch được xác định “ là một
ngành kinh tế mũi nhọn” trong các ngành kinh tế quốc dân và đang hội nhập với
trào lưu phát triển du lịch của khu vực và thế giới. Khách du lịch đến Việt Nam đặc
biệt là Ninh Bình đang ngày một tăng. Phát triển du lịch của Ninh Bình là phù hợp
với xu thế của thời đại, phù hợp với chiến lược phát triển du lịch của Việt Nam đặc
biệt là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Với vị trí địa lý và tiềm năng tài nguyên du lịch phong phú, những chính sách phù
hợp, thời gian qua du lịch Ninh Bình đã có bước phát triển đáng ghi nhận, đóng góp
tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch của cả nước. Tuy nhiên trong quá trình
phát triển, nhiều tiềm năng du lịch chưa được khai thác hiệu quả, sự phát triển du
lịch Ninh Bình chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của mình. Cơ sở hạ tầng,
vật chất kĩ thuật của Tỉnh mặc dù đã được cải thiện rất nhiều trong những năm gần
đây nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, chất lượng phục vụ còn thấp,
sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, chưa phong phú. Đầu tư phát triển du lịch trên địa
bàn Tỉnh còn dàn trải và thiếu tập trung, khả năng thu hút vốn từ các nhà đầu tư
không được cao.
Chính vì thế trong thời gian đi thực tập vừa qua, em đã nghiên cứu và viết báo cáo
thực tập, tên đề tài là:
“Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình. Thực trạng và giải pháp.”



Nội dung bài viết gồm 3 phần chính:
Phần một: Tổng quan về tỉnh Ninh Bình và các khu du lịch trong tỉnh
Phần hai: Thực trạng đầu tư phát triển du lịch trong những năm qua


Phần ba: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vào du lịch
tỉnh Ninh Bình

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TỈNH NINH BÌNH VÀ CÁC KHU DU
LỊCH TRONG TỈNH
I. Đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực Nam đồng bằng sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Hà
Nam . Phía Đông giáp tỉnh Nam Định, phía Đông Nam giáp Biển Đông, phía Tây
và Tây Nam giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hòa Bình. Ninh Bình
cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua,
cùng với hệ thống sông ngòi phong phú với cảng Ninh Bình nên có điều kiện phát
triển mạnh giao thông cả đường bộ và đường thủy, giao lưu thuận lợi với các địa
phương trong nước và quốc tế.
Toàn bộ lãnh thổ của tỉnh nằm ở rìa Tây Nam đồng bằng sông Hồng, giáp với đồng
bằng sông Mã qua vùng núi thấp Tam Điệp là phần cuối cùng của vùng núi Tây
Bắc, trong khu đệm Hòa Bình – Thanh Hóa và tiếp giáp biển Đông. Do là vùng
chuyển tiếp nên địa hình Ninh Bình khá phong phú, đa dạng, bao gồm cả các núi,
đồng bằng, bờ biển. Đặc biệt là ở Ninh Bình, dạng địa hình Karst khá phổ biến và
đây là dạng địa hình đặc biệt tạo nên các hang động và cảnh quan hấp dẫn, rất có
giá trị trong việc thu hút khách du lịch.
Ninh Bình thuộc đới khí hậu gió mùa chí tuyến, á đới có mùa đông lạnh khô, mùa
hạ có gió mùa Tây Nam gây mưa nhiều. Do địa hình Ninh Bình phần lớn là đồng
bằng, chỉ có một phần nhỏ là đồi núi nên khí hậu ít có sự phân hóa theo lãnh thổ.
Nhìn chung khí hậu Ninh Bình tương đối thuận lợi cho hoạt động du lịch cả năm.
Ninh Bình có mật độ sông ngòi ở mức trung bình. Các sông thường chảy theo
hướng Tây Bắc – Đông Nam . Quan trọng nhất trong mạng lưới sông ngòi ở Ninh
Bình là sông Đáy, ngoài ra còn có sông Hoàng Long là phụ lưu sông Đáy và một số
sông ngòi nhỏ khác. Tại Ninh Bình còn một số hồ, đầm, tiêu biểu là đầm Cút và dãy
hồ Đồng Thái.

Về các hệ động thực vật, nơi lưu giữ được thảm thực vật và động vật rừng có giá trị
nhất tại Ninh Bình là Vườn quốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương là loại rừng
mưa nhiệt đới điển hình với cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng và phong phú về
thành phần loài. Gần đây Ninh Bình đã thành lập khu bảo tồn đất ngập nước Vân
Long là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước.
Ninh Bình có tổng diện tích đất tự nhiên là 138. 420 ha, trong đó đất cho sản xuất
nông nghiệp là 67.605 ha ( chiếm 48,87% diện tích tự nhiên), đất lâm nghiệp là
19.972 ha ( chiếm 14,4% diện tích tự nhiên), đất chuyên dùng 16.769 ha ( chiếm
12,1% diện tích tự nhiên), đất khu dân cư 5.068 ha ( chiếm 0,37% diện tích tự
nhiên) và đất chưa sử dụng 28.961 ha ( chiếm 21% diện tích tự nhiên). Hiện nay,
diện tích đất chưa sử dụng có khả năng đưa vào khai thác cho các hoạt động kinh tế
là 16.497 ha.
Dân số của Ninh Bình là 936.262 người trong đó số dân trong độ tuổi lao động xấp
xỉ 60%, mật độ dân số 659 người/ km
2
. Dân tộc ngoài dân tộc Kinh và dân tộc
Mường chiếm 1,7% dân số thì các dân tộc khác như Tày, Nùng, Thái, Hoa,
H’Mông, Dao…mỗi dân tộc có từ trên một chục đến hơn một trăm người. Dân tộc
Mường đã định cư khá lâu đời ở các xã thuộc miền núi cao như Nho Quan, Tam
Điệp, còn lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa truyền thống hấp dẫn du lịch. Các dân
tộc khác sống rải rác ở các địa phương trong tỉnh, không hình thành cộng đồng dân
tộc nhất định, đa số có quan hệ hôn nhân và chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong tục
tập quán sinh hoạt, sản xuất, truyền thống văn hóa của người Kinh.
Trong những năm qua, Ninh Bình đã thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã
hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và XIV đề ra với kết quả năm
sau cao hơn năm trước. Kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được tăng cường, văn hoá -
xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm đạt cao; tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn từ năm 1996-
2000 đạt bình quân: 8,12%/ năm; từ năm 2001-2005 bình quân đạt 11,9%/năm; năm
2006 đạt 12,6%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công

nghiệp, dịch vụ. Thu nhập bình quân đầu người năm 1991 đạt 0,51 triệu đồng, năm
2006 đạt 6,42 triệu đồng, tăng 12,5 lần. Thu ngân sách năm 1991 đạt 24,4 tỉ đồng,
năm 2006 đạt 878 tỉ đồng, tăng 35,98 lần.
Về nông nghiệp: tỉnh đã tập trung chỉ đạo chuyển được gần 9000 ha đất nông
nghiệp trồng cây có giá trị thấp sang nuôi trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế
cao như: nuôi tôm sú, trồng cói ở Kim Sơn, nuôi tôm càng xanh, trồng dứa ở Tam
Điệp, Nho Quan, nuôi thả cá chim trắng ở Gia Viễn, Hoa Lư, cấy các giồng lúa đặc
sản: tám, nếp, dự... ở Kim Sơn, Yên Khánh.... Cả tỉnh có 294 trang trại mỗi năm
doanh thu bình quân từ 20 triệu đồng trở lên.
Về công nghiệp: tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 22 khu công nghiệp, cụm công nghiệp
với diện tích 880 ha trong đó có các khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn như:
khu công nghiệp Tam Điệp, khu công nghiệp Ninh Phúc, cụm công nghiệp Gián
Khẩu.... Ninh Bình đã ban hành các cơ chế, chính sách như: chính sách khuyến
khích, ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp, khu du lịch; chính sách khuyến khích
tài năng thu hút nhân tài; quỹ khuyến công ; quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển. Trên địa
bàn tỉnh đã khởi công nhiều công trình lớn về giao thông, thuỷ lợi, du lịch, thể thao
như: hồ Yên Thắng; dự án phân lũ, chậm lũ Nho Quan và Gia Viễn; sân vận động,
Nhà thi đấu trung tâm; Nhà máy cán thép Tam Điệp công suất 36 vạn tấn/ năm; Nhà
máy xi măng Tam Điệp công suất 1,4 triệu tấn/ năm....Các công trình đầu tư trên lần
lượt đưa vào sử dụng sẽ tạo ra bước chuyển biến mạnh trong cơ cấu kinh tế của
tỉnh. Các hoạt động dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, tín dụng, du
lịch... đều đạt mức tăng trưởng bình quân trên 25%/ năm. Thu ngân sách tăng bình
quân trên 20%/ năm
II. Tài nguyên du lịch của tỉnh
1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
♦ Vườn quốc gia Cúc Phương
Cúc Phương là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam , thành lập vào ngày
7/7/1962. Vườn quốc gia Cúc Phương có một quần thể hệ động thực vật vô cùng
phong phú, đa dạng và độc đáo. Vườn có diện tích 22.000 ha, trong đó ¾ là núi đá
vôi cao từ 300 đến 600m so với mặt biển. Địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên

sinh chứa nhiều bí ẩn và cảnh quan độc đáo. Tại đây có nhiều chứng tích văn hóa
lâu đời như động Trăng Khuyết, động Chúa, động Thủy Tiên, động Người Xưa,
hang Con Moong, động San Hô.
Trong vườn có suối nước nóng, hệ động thực vật phong phú, đặc biệt có những cây
chò xanh, cây sấu cổ thụ trên dưới 1000 tuổi và những loài thú quí, lạ. Hiện nay,
vườn quốc gia Cúc Phương đã trở thành môt trung tâm cung cấp các lòai thực vật
quí hiếm, có giá trị kinh tế cao phục vụ cho chương trình trồng rừng trong khu vực
và trên cả nước.
♦ Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long
Là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước có diện tích
lớn nhất ở đồng bằng sông Hồng. Đây cũng là nơi khoanh vùng bảo vệ loài Vọoc
quần đùi trắng – là loài linh trưởng quí hiếm đã ghi trong Sách đỏ thế giới. Rừng
Vân Long có 8 loài thực vật, 9 loài động vật được ghi trong Sách đỏ Việt Nam .
Khu Vân Long có 32 hang động đẹp, nhiều hang động có giá trị. Nước ở đây mênh
mông phẳng lặng, không có gió to sóng lớn, mang phong cảnh một miền quê êm ả -
một Vịnh Hạ Long không song. Đây chính là một nơi du lịch sinh thái rất tốt, là
hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, sinh viên khi muốn nghiên
cứu về vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam .
♦ Quần thể hang động Tràng An
Nằm ở thôn Tràng An, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, với những dải đá vôi, các
thung lũng và những dòng sông ngòi đan xen với nhau tạo nên một không gian
huyền ảo và thơ mộng. Du khách đến bến thuyền sông Sào Khê, từ đây những chiếc
thuyền nan lướt nhẹ trên mặt nước qua Xuyên Thủy Động vào đến quần thể hang
động Tràng An. Hai bên dòng sông là những phong cảnh hữu tình mà thiên nhiên đã
ban tặng nơi đây.
♦ Tam Cốc
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động là một quần thể du lịch, một địa danh nổi tiếng
từ xa xưa, thuộc địa phận huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đô Hà Nội 100
km về phía Nam. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều hang
động, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi, Tam

Cốc, chùa Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc…
Tam Cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba. Du khách đi thăm Tam
Cốc chỉ có một con đường thủy duy nhất vào ra mất khoảng hai tiếng đồng hồ.
Những du khách ưa thích mạo hiểm có thể tiếp tục xuôi thuyền theo dòng Ngô
Đồng khoảng 2 km nữa tới thăm suối Tiên và tham gia chuyến du lịch mạo hiểm leo
núi vào đền Nội Lâm.
♦ Động Địch Lộng
Động thuộc huyện Gia Viễn, được nhân dân phát hiện từ năm 1739. Đến năm 1740
động được nhân dân trong vùng tu bổ thành một ngôi chùa để thờ Phật. Động rộng
chừng 10 gian nhà, trong động được bày nhiều tượng Phật, tượng La Hán, tượng Hộ
pháp đặt trên các bệ đá. Đặc biệt còn có 2 tượng phật được tác bằng đá xanh nguyên
khối, rất đẹp. Động gồm có 3 hang nối liền nhau, hang ngoài thờ Phật, rồi đến hang
Tối, hang Sáng. Cảnh đẹp của Địch Lộng được vua Minh Mạng ban tặng cho 5 chữ:
“ Nam thiên đệ tam động” – Động đẹp thứ 3 trời Nam .
♦ Động Tiên
Động nằm ở huyện Hoa Lư, cách Bích Động gần 1km. Động gồm có 3 hang lớn,
rộng và cao vời vợi. Trần động là vân đá, nhũ đá rủ xuống lấp lánh nhiều màu sắc.
Nhiều khối nhũ đá từ trên trần rủ xuống nền động cao hơn chục mét tựa như những
rễ cây đa cổ thụ. Xung quanh vách động và trên nền cũng có rất nhiều măng đá, nhũ
đá. Những nhũ đá được thiên nhiên chạm trổ vừa phóng khoáng, vừa tinh xảo mà
sống động. Đứng bên ngoài nhìn vào, dưới ánh sáng kì ảo, động Tiên như một lâu
đài nguy nga tráng lệ trong huyền thoại.
♦ Động Sinh Dược
Thuộc địa phận huyện Gia Viễn, là một động xuyên thủy dài gần 2km chạy dài theo
lòng núi Mắt Rồng, hai đầu hang là hai thung lũng rộng. Vào động bằng 1 trong 2
cửa: lối thứ nhất qua cửa hang Vồng – thung Nước và lối thứ hai là cửa hang thung
áng Nhồi. Hang Vồng là một chiếc cống bằng đá, mái uốn vòm cong tựa một chiếc
cầu vồng nhỏ bắc trên một dòng suối trong mát lạnh. Thung áng Nhồi là một lòng
thung rộng khoảng 3 ha, xung quanh là cây và hoa rừng, những thảm cỏ xanh mướt,
không khí trong lành.

♦ Đèo Tam Điệp
Đèo Tam Điệp còn có tên là đèo Ba Dội, thuộc thị xã Tam Điệp, cách thành phố
Ninh Bình 18km về phía Nam . Nơi đây có 3 dãy núi đá vôi chạy suốt từ Hòa Bình
về, ăn ra biển Đông theo hướng Tây Bắc – Đông Nam . Điều độc đáo là Đèo Tam
Điệp có đất đỏ. Từ đây du khách có thể quan sát cả một vùng rộng lớn. Toàn cảnh
đèo là những dãy núi hung vĩ, hiểm trở, quanh co như những con rồng uốn khúc,
đan xen là những thung lũng rộng và nhiều dòng suối trong xanh uốn lượn. Ngoài ra
Đèo Tam Điệp còn là một phòng tuyến lợi hại , có vị trí chiến lược trong quân sự,
như bức tường thành thiên nhiên án ngữ con đường Bắc Nam
♦ Suối nước nóng Kênh Gà
Suối nước nóng mặn Kênh Gà thuộc huyện Gia Viễn. Dòng nước từ trong núi chảy
ra, trong vắt, chưa bao giờ ngừng. Năm 1940 người Pháp biết tới, bắt đầu nghiên
cứu và đi vào khai thác. Nước khoáng Kênh Gà có chứa nhiều muối Natriclorua,
Kaliclorua, nước không màu, trong, nhiệt độ ổn định quanh năm 53
0
C. Nước
khoáng Kênh Gà dùng để tắm hay ngâm mình nhiều lần sẽ khỏi các bệnh như khớp
mãn tính, viêm dây thần kinh, các bệnh ngoài da và phụ khoa. Nước khoáng Kênh
Gà uống vào có tác dụng kích thích hoạt động của gan, mật, chữa bệnh bướu cổ và
dùng để bào chế huyết thanh tiêm tĩnh mạch.
♦ Động Vân Trình
Động rộng gần 3500m
2
, là một động lớn nhất và đẹp nhất tỉnh Ninh Bình, sánh
ngang với động Thiên Cung ở vịnh Hạ Long ( Quảng Ninh). Động nằm trong núi
Mõ, tên chữ thời xưa là núi Thổ Tích, thuộc huyện Nho Quan. Động Vân Trình gồm
2 hang liền nhau, so le một cao một thấp là Hang Cả và Hang Hai. Trong cả hai
hang đều có những nhũ đá đẹp như những “ vách gấm”, nhiều khối nhũ đá từ trên
nóc động chảy xuống, có khối chạm đến nền hang, như những nhánh rễ cây đa cổ
thụ to lớn thả xuống mặt đất. Động Vân Trình còn giữ được nét đẹp trinh nguyên,

tinh khiết của đá.

♦ Hồ Đồng Chương
Là một hồ nước trong nằm giữa hai xã Phú Lộc và Phú Long, huyện Nho Quan.
Xung quanh hồ là những dải đồi thông xanh mướt, nhấp nhô, trùng điệp vây phủ lấy
mặt hồ làm cho nước hồ đã xanh lại càng thêm xanh. Gần hồ có thác Ba Tua và
dòng Chín Suối. Đi thăm hồ và leo lên đến đỉnh du khách sẽ gặp được một hồ nước
nhỏ gọi là Ao Trời, cũng trong xanh và không bao giờ cạn nước. Hồ Đồng Chương
được ví như Đà Lạt của Ninh Bình.
♦ Hồ Đồng Thái
Nằm trên địa bàn hai xã Đông Sơn ( thị xã Tam Điệp) và Yên Đồng ( huyện Yên
Mô), có diện tích rộng hơn 380 ha được bao bọc bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ và
con đê trải dài hơn 10km. Hồ có trữ lượng hơn 8.000.000 m
3
nước với hàng trăm
loài động vật, thực vật thủy sinh. Hồ không chỉ phục vụ cho tưới tiêu nông nghiệp,
nuôi trồng thủy sản mà còn là một điểm du lịch sinh thái lý tưởng.
♦ Núi chùa Bái Đính
Núi Bái Đính thuộc địa phận huyện Gia Viễn. Núi Bái Đính cao 200m sừng sững
giữa vùng bán sơn địa, với diện tích gần 150.000 m
2
, được tạo thành bởi hai dãy núi
khép lại hình cánh cung và hướng về phía tây - tựa như tay ngai, mở ra một thung
lũng rộng hơn 3 ha - gọi là Thung Chùa. Lên thăm hang động ở núi Bái Đính, bước
trên 300 bậc đá đước xếp theo độ dốc vừa phải. Lên hết dốc là tới ngã ba: Bên phải
là động thờ Phật, bên trái là động thờ Tiên. Phía trên Động thờ Phật ( hay còn gọi là
Động Sáng) có 4 chữ đại tự khắc trên đá: “Minh Đỉnh Danh Lam” có nghĩa là: “Lưu
Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Động Tiên lớn hơn động Phật nhiều lần, gồm 7 hang.
Khu núi chùa Bái Đính mới đang được qui hoạch đồng bộ và nổi tiếng bởi 5 cái
nhất: chuông to nhất, nhiều tượng La Hán nhất, chùa lớn nhất, tượng phật to nhất,

khuôn viên rộng nhất. Khu núi chùa Bái Đính mới gồm có điện Tam Thế, chùa
Pháp Chủ, cổng Tam Quan, chùa Quan Âm, La Hán Đường, Tháp Chuông, khu hồ
phóng sinh,…


♦ Hệ sinh thái ven biển Kim Sơn
Với 18km đường bờ biển nơi có cửa sông đổ ra với sự hình thành 2 cồn nổi ( Cồn
Thoi và Hòn Nẹ), thảm thực vật ngập mặn đã hình thành nơi cư trú của nhiều loài
sinh vật, đặc biệt là một số loài chim di cư quí hiếm như Cò Thìa,…
2. Tài nguyên du lịch nhân văn
2.1. Các di tích lịch sử - văn hóa
♦ Cố đô Hoa Lư
Cố đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nền phong kiến tập quyền ở nước ta, thuộc
huyện Hoa Lư, nằm trên một diện tích khoảng 400ha.
Ngàn năm trước, Hoa Lư là đế đô nguy nga với núi đồi trùng điệp xung quanh kinh
đô như tấm bình phong, sông Hoàng Long và cánh đồng Nho Quan, Gia Viễn mênh
mông là hào sâu thiên nhiên rất thuận lợi về mặt quân sự. Khu thành Hoa Lư có qui
mô rộng lớn, có nhiều tuyến liên hoàn. Thành gồm hai khu, khu trong và khu ngoài,
thông với nhau bằng một lối đi nhỏ hẹp và hiểm trở. Mỗi khu gồm nhiều vòng,
nhiều tuyến nhỏ.
♦ Đền vua Đinh
Đến thờ vua Đinh Tiên Hoàng, hiện ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Đền quay
hướng Đông, trên khuôn viên rộng khoảng 5 mẫu, được xây dựng vào khoảng thế kỉ
17, lấy núi Mã Yên làm án. Đền vua Đinh Tiên Hoàng kiến trúc theo kiểu "nội công
ngoại quốc", đường đi trong đền theo hình chữ "vương". Các công trình kiến trúc
đối xứng nhau theo đường chính đạo, tên gọi phỏng theo tên gọi của cung điện ngày
xưa.
♦ Đền vua Lê
Đền thờ vua Lê Đại Hành, hiện ở làng Trường Yên Hạ, xã Trường Yên, huyện Hoa
Lư, cách đền vua Đinh chừng 300m về phía Bắc, cũng xây dựng trên nền cung điện

xưa của kinh đô Hoa Lư. Đền ở làng Trường Yên Hạ nên gọi là đền Hạ. Đền lấy núi
Đèn làm án. Kiến trúc của đền xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc", có thêm
Từ Vũ.


♦ Nhà thờ đá Phát Diệm
Cách thành phố Ninh Bình 28km, Nhà thờ toạ lạc trên một khu đất rộng khoảng
117m, dài 243m, giữa trung tâm thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn. Nhà thờ là một
kiệt tác về kiến trúc do cha Phê Rô Trần Lục (quen gọi là cụ Sáu) xây dựng trong
suốt 24 năm (1875 - 1899) với vô vàn khó khăn, phương tiện làm việc thô sơ. Đây
là một quần thể kiến trúc kiểu Đình chùa Phương Đông, kết hợp với lối kiến trúc
Gôtic của nhà thờ Phương Tây. Quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm được xây dựng
nhiều hạng mục khác nhau như: ao hồ, tượng đài, Phương Đình, Nhà thờ lớn, Nhà
nguyện kinh thánh Rô Cô, Nhà nguyện kinh trái tim chúa, Nhà nguyện kinh thánh
Giu-Se, Nhà nguyện kinh thánh Phê-Rô và các hang đá nhân tạo...
♦ Đền Thái Vy
Đền thờ Trần Nhân Tông, hoàng hậu Thuận Thiên và Trần Thánh Tôn, hiện ở xã
Ninh Hải, huyện Hoa Lư.
♦ Đền đức Thánh Nguyễn
Đền thờ quốc sư Nguyễn Minh Không hay còn được gọi là Lý Quốc Sư, tọa lạc tại
huyện Gia Viễn. Đền đức Thánh Nguyễn vốn là một ngôi chùa nhỏ do chính ông
xây dựng, khoảng năm 1121 và đặt tên là Viên Quang. Đền được xây dựng trên một
khu đất rộng gần 2 mẫu.
2.2. Các lễ hội
♦ Lễ hội Trường Yên: Hội được tổ chức từ 10 – 13 tháng 3 âm lịch hàng năm tại xã
Trường Yên, huyện Hoa Lư để tưởng nhớ công đức vua Đinh Tiên Hoàng và vua
Lê Đại Hành.
♦ Lễ hội đền Thái Vy: Hội được tổ chức hàmg năm từ ngày 14-17 tháng 3 âm lịch
tại xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Đây là dịp nhân dân Ninh Bình và cả nước tưởng
nhớ công lao của các vua Trần, những người có công lớn với đất nước.

♦ Lễ hội đền Địch Lộng: Được tổ chức vào ngày mùng 6,7 tháng 3 âm lịch, tại chùa
Địch Lộng thuộc xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn.
♦ Lễ hội chùa Bái Đính: Được tổ chức vào mùng 6 tháng giêng âm lịch hàng năm
tại thôn Sinh Dược, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn
♦ Lễ hội Báo bản Nộn Khê: Được tổ chức vào ngày 14 tháng giêng âm lịch hàng
năm, tại làng Nộn Khê, xã Yên Từ, huyện Yên Mô.
♦ Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ: Tổ chức ngày 13-15 tháng 11 âm lịch hàng năm,
tại xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn. Ngày 13 tế yết cáo, ngày 14 tế chính kị, ngày
15 tế tạ.
2.3. Các làng nghề truyền thống
♦ Thêu ren Ninh Hải: Nghề thêu ren ở đây đã có trên 700 năm. Tương truyền năm
1285 bà Trần Thị Dung là vợ Thái sư Trần Thủ Độ đã theo triều đình nhà Trần về
đây và truyền dạy cho nhân dân thôn Văn Lâm nghề thêu ren. Đường nét thêu ren
rất tinh xảo nhưng sống động. Sản phẩm thêu ren rất phong phú: ga trải giường, rèm
cửa, gối, khăn bàn, tranh, ảnh,…
♦ Mỹ nghệ cói Kim Sơn: Cây cói xuất hiện ở Kim Sơn mới gần 2 thế kỉ nhưng
chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của người dân nơi đây. Người
dân Kim Sơn dùng cây cói làm nhiều sản phẩm như: chiếu, thảm, làn, khay, hộp,
cốc, mũ,…đặc biệt là nghề dệt chiếu
♦ Chạm khắc đá Ninh Vân: Đây là làng nghề cổ truyền được cả nước biết đến. Sản
phẩm bao gồm nhiều loại, như tượng, chim, thú, bể cảnh, bia, thống, chậu hoa, xà
nhà,…Ngoài ra còn có các mặt hàng thủ công mĩ nghệ và những đồ vật bằng đá
như: bộ ấm trà, gạt tàn thuốc lá, khóm trúc, bé cưỡi trâu, tranh ảnh.
2.4. Ẩm thực
Bên cạnh những món ăn của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ, ẩm thực Ninh Bình
có đặc trưng riêng. Đó là: Tái dê Ninh Bình, Nhất hưởng thiên kim (cơm cháy),
Nem Yên Mạc ( Yên Mô), Rượu Lai Thành, Mắm tép Gia Viễn, Rượu cần Nho
Quan





Tỉnh Ninh Bình định hướng tổ chức các khu du lịch:
1. Khu du lịch Tam Cốc - Bích Ðộng, Tràng An, núi chùa Bái Đính và Cố đô Hoa Lư:
Du lịch Văn hóa, lễ hội, tâm linh; Du lịch nghiên cứu; Du lịch tham quan, thắng cảnh; Du
lịch cuối tuần.
2. Khu du lịch trung tâm thành phố Ninh Bình với Dục Thuý Sơn, Ngọc Mỹ Nhân và
hồ Kỳ Lân: Du lịch Văn hóa, Du lịch MICE, Du lịch vui chơi giải trí, Du lịch đô thị.
3. Khu du lịch vườn quốc gia Cúc Phương, Kỳ Phú, hồ Ðồng Chương: Du lịch sinh
thái, Du lịch thể thao, Du lịch tham quan, nghiên cứu, Du lịch nghỉ dưỡng.
4. Khu du lịch Suối nước nóng Kênh Gà - động Vân Trình, Vân Long, chùa Ðịch
Lộng: Du lịch Sinh thái, Du lịch Văn hóa- Lịch sử, Du lịch nghỉ dưỡng- Chữa bệnh
5. Khu du lịch phòng tuyến Tam Ðiệp - Biện Sơn: Du lịch Văn hóa – Lịch sử; Du lịch
Thể thao- Vui chơi giải trí
6. Khu du lịch hồ Yên Ðồng, Yên Thắng, động Mã Tiên, cửa Thần Phù: Du lịch Vui
chơi giải trí; Du lịch Thể thao; Du lịch nghỉ dưỡng vãn cảnh.
7. Khu du lịch quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm và khu dự trữ sinh quyển ngập mặn
Kim Sơn: Du lịch Văn hóa tín ngưỡng; Du lịch Tham quan nghiên cứu; Du lịch Biển-
ẩm thực hải sản.












CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRONG
NHỮNG NĂM QUA
I.Thực trạng đầu tư vào ngành du lịch của tỉnh
1. Thực trạng cơ sở hạ tầng phục vụ cho ngành du lịch của tỉnh
1.1. Hệ thống giao thông
Mạng lưới giao thông trên địa bàn tỉnh những năm gần đây đã được xây dựng tương
đối hợp lí, rộng khắp toàn tỉnh ô tô đi được tới tất cả các xã trong tỉnh, việc đi lại
thuận tiện, nhanh chóng. Toàn tỉnh hiện có 2.278,2km đường bộ và 496 km đường
sông với các tuyến quan trọng nối liền thị xã với các huyện thị và tỏa đi các xã. Các
tuyến đường từ tỉnh xuống huyện được nâng cấp rải nhựa. Mạng lưới giao thông
của Tỉnh được phân bố tương đối đều: đường sắt, đường bộ, đường thủy.
٭Đường bộ: bao gồm hệ thống đường quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện, liên huyện,
đường xã và liên xã với tổng chiều dài 2.278,2 km. Ngoài quốc lộ 1A , trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình còn có các tuyến quốc lộ chạy qua như 10, 12B, 45, trong đó:
Đường quốc lộ: có 110,5 km
Đường tỉnh lộ: có 261,5 km
Đường huyện lộ: có 194,92 km
Đường xã, liên xã: có tổng chiều dài 911,5 km
Hiện nay mạng lưới giao thông đang được cải thiện ngày một tốt hơn. Tuy nhiên hệ
thống giao thông vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hệ
thống các đường nội thị vẫn còn yếu kém, nhiều tuyến đường cần được cải tạo và
mở rộng. Đặc biệt cần nâng cấp, cải tạo toàn tuyến 1A trên địa bàn tỉnh nhất là đoạn
đi qua thành phố Ninh Bình. Đây chính là tuyến đường chủ đạo trong giao lưu kinh
tế giữa Ninh Bình với các tỉnh phía Bắc cũng như phía Nam, đáp ứng nhu cầu vận
chuyển hàng hóa và hành khách qua Ninh Bình ngày càng lớn. Hệ thống giao thông
nông thôn, đường liên thôn liên xã đã được nâng cấp, rải nhựa, cải tạo và làm mới.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khai thác thế mạnh của vùng, nhằm
phát triển kinh tế, nâng cao mức sống người dân đặc biệt là mở rộng giao lưu với
các địa phương trong tỉnh, phát triển các tour liên huyện.

٭ Đường sắt: Ninh Bình nằm trên tuyến đường sắt quốc gia Bắc Nam, đây là tuyến
đường sắt đóng góp một phần rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
và các địa phương khác trong vùng kinh tế và trên toàn quốc. Toàn tỉnh có 4 ga là :
ga Ghềnh, ga Đồng Giao, ga Cầu Yên và ga Ninh Bình. Ngoài ra tuyến tàu chạy Hà
Nội – Vinh đi qua Ninh Bình đi các tỉnh phía Nam .
٭Đường thủy: Ninh Bình có 22 sông có thể khai thác vận tải đường thủy với tổng
chiều dài 387,3km. Mật độ sông là 27,3km/km
2
( lớn hơn mật độ bình quân cả
nước), phần lớn là sông cấp II, III và IV mang đặc điểm chung của sông, kênh khu
vực đồng bằng sông Hồng. Toàn tỉnh có các sông chảy qua là sông Đáy, sông
Hoàng Long, sông Vạc, sông Vân, sông Lạng,.. giúp cho Ninh Bình có điều kiện
thuận lợi và là đầu mối quan trọng trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa các tỉnh
thuộc đồng bằng sông Hồng và toàn vùng Bắc Bộ rộng lớn.
1.2. Hệ thống cấp điện
Mạng lưới điện trong cả tỉnh đã được xây dựng với tổng chiều dài các đoạn đường
dãy trung cao áp là 770km. Hiện nay Tỉnh có 1 nhà máy điện Ninh Bình và 4 trạm
điện phân phối. Nguồn điện hiện nay bao gồm cả mạng lưới điện phân phối về cơ
bản có thể đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt.
1.3. Hệ thống cấp thoát nước và vệ sinh môi trường
Trong những năm gần đây tỉnh Ninh Bình đã từng bước phát triển đảm bảo nước
sinh hoạt cho vùng đô thị ( thành phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp và các thị trấn,
huyện lỵ). Các công trình cấp nước: giếng đào, bể chứa nước, nước tự chảy và
giếng khoan. Trong đó các khu tập trung dân cư và các khu vực thị trấn chủ yếu
dùng nước tự chảy và nước cấp từ bể chứa. Khả năng cung cấp nước trung bình vào
mùa hè là 16.000 m
3
/ngày; vào mùa đông 14.000m
3
/ngày. Tổng số hộ gia đình được

dùng nước sạch trong toàn tỉnh là 26.000 hộ. Trữ lượng nguồn nước ngầm của tỉnh
Ninh Bình là tương đối lớn, việc khai thác nguồn nước ngầm tương đối thuận lợi.
Về chất lượng, nguồn nước này đảm bảo vệ sinh đủ tiêu chuẩn cần thiết để sử dụng
cho ăn uống và sinh hoạt.
Mạng lưới thoát nước thải sinh hoạt tại các đô thị của tỉnh sử dụng hệ thống thoát
chung ( cho cả nước mưa và nước thải sinh hoạt). Hệ thống thoát nước mưa bao
gồm các lọai ống tròn bê tông cốt thép, cống hộp và mương có nắp đan. Nhìn chung
các tuyến thoát nước đều hoạt động tốt nhưng do mật độ còn quá thấp chưa đáp ứng
được nhu cầu nên ảnh hưởng không ít đến môi trường đô thị. Các lọai nước thải hầu
không được xử lí đến giới hạn cho phép và thường được xả trực tiếp ra sông suối.
Nước thải công nghiệp từ các nhà máy xi măng, nhà máy phân lân chưa được xử lí
đến độ trước khi xả ra sông suối. Nước thải bệnh viện được xử lí riêng đơn giản và
xả vào hệ thống thóat nước chung, phần lớn là hơn giới hạn cho phép. Lượng thu
gom rác thải để xử lí còn nhỏ. Các loại rác thải được xử lí chung, chôn lấp tự do.
Chính vì thế, hiện nay UBND tỉnh đã phê duyệt dự án và đang triển khai thi công
xây dựng nhà máy xử lí rác thải với công suất 2200 tấn/ngày.
1.4. Hệ thống bưu chính viễn thông
Mạng lưới thông tin liên lạc đã phủ kín các vùng trong tỉnh với hệ thống tổng đài
điện tử hiện đại của bưu điện trung tâm tỉnh và bưu điện của 7 huyện thị xã, hệ
thống viễn thông vi ba, cáp quang Bắc – Nam chạy qua đảm bảo cho liên lạc nhanh
chóng thuận tiện giữa Ninh Bình và các địa phương, các vùng trong nước và liên lạc
quốc tế.
Hệ thống bưu cục: 32 trạm. Các tuyến, trạm truyền thông tin: 25 tuyến, trạm. Hiện
toàn tỉnh có khoảng 6,6 máy điện thoại/ 100 dân. Mạng điện thoại di động đã phủ
sóng gần hết lãnh thổ Ninh Bình. Đến cuối 2005 đã có 112 xã có điểm bưu điện văn
hóa xã ( đạt 82%).
1.5. Hệ thống dịch vụ tài chính, ngân hàng
Các cơ sở dịch vụ về tài chính, ngân hàng của Ninh Bình bao gồm hệ thống ngân
hàng nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, hệ thống kho bạc từ tỉnh đến các
huyện, thị xã, công ty bảo hiểm, các quĩ tín dụng nhân dân… Hệ thống các cơ sở

dịch vụ này hiện tại thường xuyên được cải tiến về nghiệp vụ chuyên môn và phong
cách phục vụ, tăng cường trang bị kĩ thuật hiện đại, thực hiện vi tính hóa trong quản
lí và thanh toán… đang ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn cho sản xuất –
kinh doanh, đáp ứng tốt hơn các công tác thanh toán, trao đổi hàng hóa – dịch vụ;
phục vụ kịp thời cho công tác lãnh đạo, quản lí của các cấp, các ngành; góp phần
tích cực cho phát triển kinh tế, caỉ thiện đời sống nhân dân trong tỉnh.
1.6. Hệ thống nhà hàng, khách sạn
Thời gian qua, với vị thế đã có và khai thác có hiệu quả tiềm năng phong phú về tài
nguyên phục vụ phát triển du lịch, Ninh Bình đã dần khẳng định du lịch là một
ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, nhiều công trình cơ sở hạ tầng được xây dựng, tu
bổ tôn tạo để phục vụ phát triển du lịch. Hạ tầng Ninh Bình thay đổi mạnh mẽ và
nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt là hoạt
động du lịch.
Cùng với xu hướng chung của cả nước hiện nay, do lượng khách quốc tế ngày càng
tăng và khách nội địa có nhu cầu đi nghỉ nhiều hơn nên các khách sạn nhà trọ được
xây dựng thêm để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách du lịch. Ngành du lịch Ninh
Bình cũng không ngừng nâng cấp, xây mới khách sạn, nhà nghỉ phục vụ khách du
lịch. Số lượng khách sạn, nhà nghỉ của các thành phần kinh tế tăng nhanh cả về số
lượng và qui mô và phương thức hoạt động.
Năm 1992, toàn tỉnh chỉ có duy nhất 1 khách sạn Hoa Lư được tách ra từ công ty du
lịch Hà Nam Ninh với 33 phòng nghỉ. Hiện tại, Ninh Bình có 290 cơ sở lưu trú du
lịch trong đó có 67 khách sạn với 1.680 phòng ngủ ( có 359 phòng đạt tiêu chuẩn
quốc tế); 8 bể bơi, 1 sân golf, 48 sân tennis, 82 phòng xông hơi - massage - vật lí trị
liệu và 128 cơ sở phục vụ ăn uống với 9.107 chỗ ngồi. Trong đó có 7 cơ sở với 266
buồng đã được thẩm định đạt tiêu chuẩn 2 sao và 1 cơ sở với 17 buồng đạt tiêu
chuẩn 1 sao. Công suất sử dụng khách sạn bình quân đạt khoảng 50%. Qui mô xây
dựng hầu hết là vừa và nhỏ, trang thiết bị nội thất chưa đồng bộ. Nhìn chung chất
lượng của các khách sạn của tỉnh còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng
cao của khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch thương mại. Giá phòng trung bình
của các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh cũng không cao lắm. Mức giá tương đối cạnh

tranh so với hầu hết các địa phương khác trong vùng.
Bảng 2.1. Cơ cấu cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2004-
2008
Đơn vị 2004 2005 2006 2007 2008
Cơ sở lưu trú Cơ sở 60 76 222 244 290
- Số lượng phòng Phòng 815 883 1277 1407 1680
- Số lượng giường Giường 937 1600 3300 3600 4100
Phân theo loại hình Cơ sở
- Khách sạn Cơ sở 28 38 47 57 67
- Nhà hàng, nhà nghỉ Cơ sở 20 30 36 38 48
Nguồn: Cục thống kê Ninh Bình
Trong năm 2008, cả tỉnh có 10 cơ sở lưu trú mới xây dựng. Trong đó có 1 khách sạn
1 sao, 1 khách sạn 2 sao với tổng số vốn là 50 tỷ đồng. So với nhu cầu thực tế, khả
năng đáp ứng về cơ sở lưu trú của Ninh Bình còn rất thiếu, nhất là các cơ sở lưu trú
cao cấp.
2. Vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư
2.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường không mang lại những lợi ích kinh tế cụ thể hay
thời gian thu được lợi nhuận là rất dài, đồng thời đây là lĩnh vực yêu cầu nguồn vốn
khá lớn. Chính vì vậy các nhà đầu tư thường không đủ khả năng hoặc không mong
muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhưng cơ sở hạ tầng lại là yếu tố tiên quyết để phát
triển kinh tế - xã hội. Vậy để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết nguồn vốn. Trong thời gian
qua, những công trình lớn, trọng điểm đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường là do Nhà
nước đầu tư. Sự hỗ trợ từ ngân sách, kết hợp cả nguồn vốn địa phương và nguồn
vốn đầu tư phát triển hạ tầng du lịch của Trung ương thật sự là “xúc tác” góp phần
quan trọng trong việc tạo ra môi trường thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư
trong nước và quốc tế. Tỉnh Ninh Bình có nguồn tài nguyên du lịch phong phú
nhưng với ngân sách địa phương eo hẹp nên những năm trước đây đã không cho
phép tỉnh đầu tư phát triển trong lĩnh vực này. Từ năm 2000 đến nay, với nguồn vốn

hỗ trợ của Ngân sách Trung Ương nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ chiến
lược phát triển du lịch đã được triển khai.
Bảng 2.2. Tổng hợp các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ 2001-2008
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Thời gian
thực hiện
Dự toán được
duyệt
Vốn giải ngân
đến 31/12/2008
I. Ngân sách địa phương: 5.384 4,335
1. XD Trụ sở làm việc của Sở Du lịch 2004-2005 5.181,6 4,185.20
2. Qui hoạch khu DL Kênh Gà - Vân
Trình 2004 102,4 50
3. Bổ sung Qui hoạch Khu DL Tam
Cốc- Bích Động 2005-2006 100 100
II. Ngân sách Trung ương 4.119.121 908.919,6
1.Khu du lịch Kênh Gà, Vân Trình, Vân
Long 2002-2007 43.289 21.300,6
2.Khu DL vườn QG Cúc Phương 2003-2008 36.619 36.619
3.Khu DL Tam Cốc Bích Động, Tràng
An 2008-2010 4.020.257 836.000
4. XD CSHT Khu DL các làng nghề
truyền thống 2002-2006 18.956 15.000
Tổng số 4.124.505 913.254,6
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du Lịch Ninh Bình
Tính đến 31/12/2008, cơ sở hạ tầng của du lịch Ninh Bình đã được đầu tư 913,2546
tỷ đồng tập trung vào 11 dự án, bằng 29,1% tổng mức đầu tư đã được duyệt. Trong
đó vốn đầu tư từ Ngân sách Trung ương là 908,9196 tỷ đồng, riêng khu du lịch

Tràng An được xác định là điểm nhấn quan trọng để thu hút khách du lịch đến Ninh
Bình. Cùng với đó Tỉnh phối hợp với Viện Kiến trúc nhiệt đới – Trường Đại học
Kiến trúc Hà Nội từng bước hoàn chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Ninh
Bình giai đoạn 2007 – 2015, có một số khu du lịch đã quy hoạch đến năm 2020.
Các bản quy hoạch của từng vùng du lịch được công bố công khai để từng người
dân được biết, từ đó họ ý thức hơn về làm du lịch, đây cũng là điều kiện thuận lợi
để tiến đến xã hội hóa du lịch. Trong những năm qua, Tỉnh đã đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng các khu du lịch. Những khu du lịch trọng điểm của Ninh Bình được ưu
tiên vốn đầu tư, đang gấp rút xây dựng và hoàn thành xong phần cơ bản về hạ tầng,
bắt đầu tiến hành khai thác như khu Tam Cốc – Bích Động, Tràng An, núi chùa Bái
Đính, nước nóng Kênh Gà. Các dự án khác như: Cơ sở hạ tầng tuyến du lịch đường
thủy Bích Động- Hang Bụt, Thạch Bích- Thung Nắng, cơ sở hạ tầng Khu du lịch
các làng nghề truyền thống cũng đang được gấp rút hoàn thiện để đưa vào khai thác.
Cơ sở hạ tầng được đầu tư cải thiện là đệm phóng cho những dự án đầu tư của khu
vực tư nhân. Những năm gần đây, các doanh nghiệp trong Tỉnh cũng như ở trong
nước đang liên tiếp đăng kí đầu tư. Hiện nay, các dự án đang được triển khai thực
hiện đầu tư theo đúng tiến độ đã phê duyệt. Nhiều hạng mục công trình của các dự
án đã đưa vào khai thác, sử dụng phục vụ khách du lịch hiệu quả.








Bảng 2.3. Phân loại nguồn vốn trong nước theo khu du lịch của tỉnh Ninh
Bình
tính đến 31/12/2008
Đơn vị: triệu đồng

STT Khu du lịch Vốn tư nhân
Vốn Ngân
sách
Tổng vốn
đầu tư

1 Khu DL Kênh Gà, Vân Trình, Vân Long 484.930 43.289 528.219
2 Khu DL vườn QG Cúc Phương 355.082 36.619 391.701
3 Khu phòng tuyến Tam Điệp- Biện Sơn 23.583 0 23.583
4 Khu DL Hồ Yên Thắng, Đồng Thái 1.074.840 0 1.074.840
5 Khu DL Kim Sơn, nhà thờ đá Phát Diệm 10.107 0 10.107
6 Khu DL Trung tâm thành phố Ninh Bình 973.160 0 973.160
7 Khu DL Tam Cốc Bích Động, Tràng An 639.597 4.020.257 4.659.854
Tổng vốn đầu tư vào DL của Tỉnh 3.561.299 4.100.165 7.661.464
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du Lịch Ninh Bình
Đến hết ngày 31/12/2008 UBND tỉnh Ninh Bình đã chấp thuận 45 dự án trong nước
kinh doanh dịch vụ với tổng số vốn là 7.661,464 tỷ đồng ( trong đó có 34 dự án tư
nhân) và 2 dự án 100% vốn nước ngoài. Trong những năm gần đây, đầu tư trong
lĩnh vực này tăng lên nhanh chóng cả về số dự án và vốn đầu tư. Năm 2007 có 6 dự
án đầu tư được chấp thuận đầu tư với tổng mức vốn đầu tư là 610,347 tỷ đồng. Năm
2008, đã có 8 dự án lớn được chấp thuận với tổng số vốn đầu tư là 4.055 tỷ đồng.
Năm 2009, các doanh nghiệp phấn đấu đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các dự án
du lịch với số vốn 1.097,956 tỷ đồng.
Đặc biệt là các dự án lớn đều tập trung vào các khu du lịch trọng điểm như:
♦ Khu trung tâm liên hợp du lịch và thể thao sân golf 54 lỗ Hồ Yên Thắng ( huyện
Yên Mô và Thị xã Tam Điệp), trên diện tích 670 ha, với tổng vốn đầu tư 1.757 tỷ
đồng, giai đoạn 1 là 495,6 tỷ đồng.
♦ Dự án Ninh Bình Anna Mandara Resort có diện tích 16 ha do công ty Cổ phần du
lịch Tân Phú đầu tư với tổng vốn đầu tư là 255 tỷ đồng ( tại khu du lịch Vân Long,
huyện Gia Viễn).

♦ Dự án Suối nước khoáng Kênh Gà- huyện Gia Viễn, tổng vốn đầu tư 11 tỷ đồng
(tại tuyến du lịch Kênh Gà – Vân Trình).
♦ Dự án Khách sạn và văn hóa Cung đình Vân Long, do công ty TNHH Thảo Sơn
đầu tư với tổng vốn đầu tư 27 tỷ đồng ( tại Vân Long, Gia Viễn).
Trong đó phải kể đến 2 dự án FDI:
♦ Dự án khu du lịch sinh thái Đông Phương Sư ( 100% vốn của Đài Loan), tổng vốn
đầu tư là 32 triệu USD ( tại Vân Long, Gia Viễn)
♦ Làng quần thể du lịch Ninh Bình, cụm biệt thự bằng đá ( tại khu Tam Cốc- Bích
Động, huyện Hoa Lư) do tập đoàn Hotel Project BV – Hà Lan đầu tư với tổng số
vốn 2,35 triệu USD.
2.2. Xúc tiến, quảng bá du lịch
Từ năm 2000, Sở văn hóa - thể thao - du lịch ( mà dưới đây gọi tắt là Sở du lịch) đã
tham mưu cho UBND tỉnh thành lập Ban chỉ đạo nhà nước về du lịch và xây dựng
qui chế, chương trình hành động về du lịch giai đoạn 2001-2005 làm cơ sở cho việc
đầu tư, phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh. Cũng trong năm 2000, Sở đã tổ chức các
lớp học tập, nghiên cứu về du lịch, tổ chức đi khảo sát và học tập kinh nghiệm thực
tế tại các tỉnh miền Trung và miền Nam, tham gia triển lãm gian hàng hội xuân Du
lịch – Văn hóa Việt Nam tại Vân Hồ - Hà Nội và đã đạt được giải ba toàn quốc;
phối hợp với các ban ngành trong tỉnh tổ chức thành công Lễ hội Trường Yên 2000.
Trong khuôn khổ chương trình hành động về du lịch của Tỉnh, năm 2002, Sở Du
lịch Ninh Bình đã chính thức đưa trung tâm xúc tiến đầu tư và phát triển du lịch đi
vào hoạt động và bước đầu đạt được kết quả tốt. Đơn vị này đã phối hợp với các
doanh nghiệp du lịch trên địa bàn tỉnh tích cực triển khai thực hiện các chương trình
quảng bá, xúc tiến hình ảnh du lịch Ninh Bình. Tổ chức thành công hội thi “ Nấu
các món ăn dân tộc Việt Nam ngành du lịch Ninh Bình – 2002”, phát động chương
trình Báo chí viết về du lịch Ninh Bình và đã thu hút được nhiều tầng lớp dân cư
tham gia.
Nhằm đa dạng hóa các sản phẩm du lịch mang đặc trưng Ninh Bình, Sở Du lịch đã
tiến hành nghiên cứu, tổ chức thực hiện và đưa vào thử nghiệm đề tài “ Nghiên cứu
tổ chức đóng thử tàu chở khách trên sông”. Cũng trong khuôn khổ đề tài này, lần

đầu tiên du lịch Ninh Bình tiến hành khảo sát chuyên sâu và công bố kết quả về
tuyến du lịch sinh thái chùa Bái Đính – động Sinh Dược, công bố động Sinh Dươc
dài 1.360 m – một tài nguyên du lịch hết sức quí giá. Hiện nay, đang triển khai thực
hiện đề tài “ Nghiên cứu cơ sở khoa học và giải pháp khai thác tiềm năng hang động
Karst phục vụ phát triển du lịch Ninh Bình” làm cơ sở để xây dựng và đưa vào khai
thác các tuyến tham quan du lịch mới nhằm từng bước đa dạng hóa sản phẩm dịch
vụ du lịch và nâng cao sức hấp dẫn cho du lịch Ninh Bình.
Sở Du lịch phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam xây dựng 4 bộ phim giới thiệu
về tiềm năng du lịch Ninh Bình, gồm: “ Non nước Tràng An – Ninh Bình”, “ Non
nước Ninh Bình”, “ Làng đá Ninh Vân”, “ Về thăm Gia Viễn”. Xuất bản và đưa vào
lưu hành cuốn sách “ Non nước Ninh Bình”, đưa vào sử dụng website du lịch Ninh
Bình, xuất bản “ Thông tin du lịch Ninh Bình”.Ngành Du lịch tỉnh Ninh Bình cũng
đã tổ chức thành công các cuộc thi “ Hướng dẫn viên du lịch giỏi toàn ngành”, hoàn
thiện 10 bài thuyết minh tại các điểm du lịch nổi tiếng của Ninh Bình và đã được
dịch ra tiếng Anh, Pháp, Hoa làm tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền quảng bá và
cho hướng dẫn viên làm tài liệu cơ sở để hướng dẫn du khách.
Đặc biệt, trong năm 2008 tỉnh đã tổ chức “ Tuần lễ du lịch” với nhiều nét văn hóa
đặc sắc, là dịp để quảng bá, giới thiệu tiềm năng du lịch Ninh Bình, không những
thu hút đông đảo du khách mà còn mời gọi mạnh mẽ đầu tư, nhất là đầu tư cơ sở hạ
tầng. Nhiều giải pháp tổng thể đã được đặt ra như: thu hút đi đôi với quản lí có hiệu
quả nguồn vốn; tạo các điểm vui chơi giải trí, dịch vụ, nhà hàng, khách sạn hấp dẫn,
đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên phục vụ và nâng cao kiến thức về
du lịch cho người dân.
2.3. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong thời gian qua, được sự quan tâm đầu tư về cơ sở hạ tầng của Chính phủ, các
chính sách khuyến khích phát triển du lịch, xúc tiến đầu tư, tuyên truyền quảng bá
du lịch của tỉnh và ngành, du lịch Ninh Bình đã có những bước phát triển khá mạnh
mẽ. Năm 2007 số lượng khách đến Ninh Bình là 1.518.559 lượt, tăng 2,3 lần so với
năm 2002. Trong đó lượng khách quốc tế đạt 457.920 lượt tăng so với năm 2002 là
1,8 lần, khách nội địa đạt 1.060639 tăng 2,7 lần so với năm 2002, đưa tốc độ tăng

trưởng lượng khách trung bình giai đoạn 2002 -2007 đạt 18,6%. Đặc biệt năm 2008,
mặc dù chịu nhiều tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng Ninh
Bình vẫn đón được 1,9 triệu lượt khách, tăng 26% so với năm 2007.
Tuy nhiên so với một số điểm du lịch khác ở nước ta, thì du lịch Ninh Bình có nhiều
lợi thế hơn về tài nguyên, nhưng chưa phát huy được lợi thế so sánh sẵn có để tạo ra
lợi thế cạnh tranh. Du lịch Ninh Bình phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế
mạnh của tỉnh. Hiệu quả kinh tế, xã hội còn ở mức độ thấp. Một trong những
nguyên nhân cơ bản của sự phát triển kém hiệu quả này, theo đánh giá của các
chuyên gia là do nguồn nhân lực du lịch của Ninh Bình hiện nay vừa thừa, vừa
thiếu, vừa yếu, lại mất cân đối về cơ cấu lao động trong du lịch. Đội ngũ cán bộ
quản lý du lịch và lao động làm dịch vụ du lịch còn vừa yếu về năng lực chuyên
môn vừa yếu về ngoại ngữ, vừa thiếu tính chuyên nghiệp và thái độ làm việc để
thực thi các công việc theo chức danh đảm nhiệm.
Theo thống kê của ngành, tính đến năm 2007, số lao động trực tiếp trong ngành du
lịch là 960 người tăng 2,3 lần so với năm 2002. Số lượng lao động trong ngành có
trình độ chuyên môn về du lịch: đại học, cao đẳng 196 người chiếm 20,4%, trung
cấp và nghề 410 người chiếm 42,7%. Đào tạo trong các lĩnh vực khác (chưa qua
đào tạo về du lịch) là 219 người chiếm 22,8%. Số lao động có khả năng sử dụng
một trong 3 ngoại ngữ phổ biến (Anh – Pháp – Trung) là 315 người chiếm 33%.
Riêng đối với lao động thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch, ngành đã
thực hiện tốt chủ trương thu hút nhân tài về làm việc: Tuyển thẳng 01 sinh viên tốt
nghiệp loại giỏi chuyên ngành du lịch, tiếp nhận hơn 10 lao động có trình độ cử
nhân về du lịch về công tác tại các phòng ban, đơn vị thuộc Sở. Đưa đội ngũ nhân
lực thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch (biên chế của Sở Du lịch trước
khi sát nhập thành Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) có trình độ đại học và trên đại
học chiếm 39%, trình độ cao đẳng trung cấp 29%.
Bảng 2.4. Thực trạng lao động du lịch Ninh Bình giai đoạn 2003- 2007
Đơn vị: người
STT Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
1 Lao động trực tiếp làm du lịch 470 621 650 916 960

- Trình độ đại học, cao đẳng 50 70 85 183 196
- Trình độ trung cấp và sơ cấp nghề 195 158 190 322 410
- Trình độ đào tạo khác 195 215 255 220 219

- Có khả năng giao tiếp 1 trong 3 ngoại ngữ
Anh, Pháp, Trung 147 180 286 290 315
2 Số lao động gián tiếp làm du lịch 5620 5700 5750 5900 6150
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du Lịch Ninh Bình
Nguồn nhân lực du lịch được coi là yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi chủ
trương phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, động lực thúc đẩy sự
phát triển các ngành nghề dịch vụ và nâng cao đời sống nhân dân theo tinh thần
Nghị quyết số 03-NQ/TƯ của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XIV về phát triển du
lịch đến 2010 và kế họach số 17/KH - UBND ngày 16/8/2006 của UBND tỉnh về
việc thực hiện thông báo 192-TB/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc tiếp tục
triển khai thực hiện nghị quyết 03-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khoá
XIV) về phát triển du lịch đến năm 2010. Sở Du lịch nay là Sở Văn hóa Thể thao và
Du lịch Ninh Bình chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh tổ chức các lớp
đào tạo, đào tạo lại tại chỗ và bồi dưỡng kiến thức du lịch cộng đồng cho nhân dân
địa phương nơi có khu, điểm du lịch.
Từ năm 2002 đến nay, ngành du lịch đã phối hợp với các cơ sở đào tạo lớn như
Khoa du lịch Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Trường đại
học Kinh tế quốc dân và trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội… tổ chức được 10 lớp
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch cho 564 lao động của các đơn vị quản lý khu,
điểm du lịch, khách sạn, nhà hàng, công ty du lịch trên địa bàn toàn tỉnh, chiếm
58% tổng số lao động trực tiếp trong ngành. Trong đó nghiệp vụ du lịch tổng hợp
( Lễ tân, buồng, bàn, bar và bếp) cho 275 lao động, nghiệp vụ hướng dẫn viên
thuyết minh cho 163 lao động, đào tạo ngoại ngữ du lịch tiếng Anh và tiếng Pháp
trình độ A và B cho 126 lao động. Công tác đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động
trực tiếp làm du lịch đã được tổ chức và thực hiện sát với nhu cầu đào tạo thực tế
qua đó đã cập nhật và làm mới lại kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, thái độ làm

việc và tăng cường khẳ năng giao tiếp ngoại ngữ của đội ngũ lao động góp phần
đáng kể vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ và hình ảnh du lịch Ninh Bình trong
thời gian qua.
Năm 2008, Sở văn hoá - thể thao - du lịch Ninh Bình đã mở tổ chức, đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ du lịch cho hơn 1000 người. Trong đó sở đã mở 2 lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch và 2 lớp đào tạo tiếng Anh,
tiếng Pháp giao tiếp du lịch cho trên 100 học viên tại khu du lịch Tam Cốc- Bích
Động và khu du lịch sinh thái Vân Long; 10 lớp bồi dưỡng kiến thức du lịch cộng
đồng cho hơn 900 cán bộ và nhân dân làm du lịch tại xã Gia Sinh (Gia Viễn) và
thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải (Hoa Lư). Ngoài ra Sở còn tổ chức nhiều buổi tư vấn
về chuyên môn, nghiệp vụ cho các doanh nghiệp, khách sạn, đoàn khách du lịch,
công ty lữ hành trong nước và quốc tế.
Một trong những đặc điểm của du lịch Ninh Bình là phát triển dựa vào cộng đồng
do yếu tố xen ghép và hòa quyện giữa tài nguyên du lịch và cộng đồng dân cư. Nên
số lượng lao động gián tiếp (bán chuyên nghiệp) hiện nay chiếm tỷ trọng khá lớn,
với trên 6250 lao động, chiếm 86,4% tổng số lao động làm du lịch. Nhưng hầu hết
chưa qua các lớp đào tạo về nghiệp vụ du lịch từ sơ cấp trở lên, do vậy nhận thức,
hiểu biết về du lịch và giao tiếp ứng xử trong quá trình phục vụ khách du lịch còn
nhiều hạn chế làm ảnh hưởng xấu tới hình ảnh và chất lượng phục vụ tại các khu,
điểm du lịch trong tỉnh. Với mục đích nâng cao nhận thức của nhân dân địa phương
về phát triển du lịch, từ năm 2003 Sở Du lịch đã phối kết hợp với các cơ sở đào tạo
và chính quyền địa phương nơi có khu, điểm du lịch mở các lớp bồi dưỡng kiến
thức du lịch cộng đồng cho các lao động tham gia làm dịch vụ du lịch (chụp ảnh,
chèo đò, bán hàng lưu niệm,…) cho 4.050 người.
Bảng 2.5. Tổng hợp lao động được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức du lịch
giai đoạn 2004 - 2008
Đơn vị: người
Nội dung đào tạo 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng LĐ được đào
tạo từ 2002-2008

Nghiệp vụ tổng hợp 0 115 116 0 0 275
Nghiệp vụ hướng dẫn
viên 0 0 0 0 60 163
Ngoại ngữ Anh - Pháp 0 0 0 60 66 126
Kiến thức du lịch cộng
đồng 450 300 1000 1000 1000 4050
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du Lịch Ninh Bình
Tổ chức các lớp học nghiệp vụ cho các học viên là cán bộ, công nhân viên đang
công tác tại các đơn vị kinh doanh du lịch. Đến nay đã có 25 lượt cán bộ của các
khách sạn nhà hàng trong tỉnh được tham gia các lớp học về chế biến món ăn, 20
học viên tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch, 55 hướng dẫn viên được đào tạo
bồi dưỡng nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ. Năm 2004, 2005, ngành du lịch tỉnh đã
phối hợp với khoa Du lịch – Khách sạn của trường đại học Kinh tế quốc dân tổ
chức 3 lớp đào tạo kiến thức về du lịch cộng đồng cho hơn 300 cán bộ quản lí của
các huyện Hoa Lư và Yên Mô, 1.500 người dân tham gia làm du lịch, nội dung
chương trình bồi dưỡng được phát liên tục trên hệ thống loa truyền thanh công cộng
cho toàn thể người dân ở các huyện trên nghe.
Với quan điểm “mưa dầm thấm lâu”, các bồi dưỡng kiến thức du lịch cộng đồng
được ngành du lịch tổ chức liên tục hàng năm, luân phiên giữa các khu, điểm du
lịch đã từng bước nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân địa
phương trong quá trình phục vụ khách du lịch và xây dựng hình ảnh điểm đến của
địa phương mình. Tuy nhiên, lực lượng lao động gián tiếp này chủ yếu là những
người có độ tuổi từ 40 trở lên, trình độ học vấn thấp, nên khẳ năng tiếp thu kiến
thức và thay đổi tư duy còn chậm, do đó chất lượng của lực lượng lao động này vẫn
còn nhiều vấn đề phải bàn và tiếp tục phải được đào tạo bồi dưỡng trong những
năm tới.
Mặc dù ngành du lịch Ninh Bình đã có nhiều nỗ lực trong việc đào tạo, đào tạo lại
lực lượng lao động trực tiếp trong ngành và bồi dưỡng kiến thức du lịch cho nhân
dân địa phương tham gia làm du lịch nhưng chất lượng đội ngũ lao động du lịch còn
rất yếu, cả về chuyên môn và trình độ ngoại ngữ, chưa đáp ứng được nhu cầu phục

vụ các thị trường khách du lịch có khẳ năng chi trả cao, đặc biệt là thị trường khách
quốc tế. Vấn đề cấp thiết đặt ra đối với du lịch Ninh Bình là phải có nguồn nhân lực
du lịch chất lượng cao, đủ tài, đủ tầm để đưa du lịch Ninh Bình từng bước hội nhập
với khu vực và thế giới.
III. Thực trạng đầu tư vào một số khu du lịch của tỉnh
1. Khu du lịch suối nước nóng Kênh Gà - động Vân Trình, Vân Long, chùa Ðịch
Lộng
Sự phát triển nổi trội của khu vực này với “hiện tượng” Vân Long trong những năm
qua là yếu tố đặc biệt của du lịch Ninh Bình hiện nay. Với những nỗ lực của người
dân địa phương, các nhà khoa học, các nhà quản lí, các giá trị tự nhiên, văn hóa của
khu vực đã được “phát lộ” và nghiên cứu, đồng thời việc phát triển du lịch của khu
vực đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, lượng khách du lịch, đặc biệt là
khách du lịch quốc tế, đã gần tương đương với khu du lịch Tam Cốc – Bích Động –
Tràng An – cố đô Hoa Lư cho đến thời điểm hiện nay.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Vân Long: Dự án đá đầu tư
xong đường, cầu cống từ đường 477A qua 2 xã Gia Vân và Gia Lập, san nền xong 2
bến xe, nạo vét xong 2 tuyến đường thủy trong khu du lịch sinh thái Vân Long.
Một số vấn đề cần quan tâm đối với phát triển du lịch khu vực Vân Long là việc đầu
tư của một số cơ sở công nghiệp, đặc biệt là hoạt động của nhà máy xi măng nằm
gần khu du lịch. Do đó đã xuất hiện một số dao động trong ý chí quyết tâm của các
nhà đầu tư du lịch. Việc phối hợp với Hà Nam trong công tác bảo tồn và phát triển
du lịch cần được quan tâm.
Bảng 2.6. Tổng hợp những dự án đầu tư vào khu du lịch Vân Long
Đơn vị: triệu đồng
STT Tên dự án Chủ đầu tư Vốn đầu tư Thời gian
1 Khu du lịch nước nóng Kênh Gà CTCP Việt - Thái 180.000 2004-2012
2 XD cơ sở dịch vụ du lịch CTNHH Thảo Sơn 22.250 2005-2006
3 XD khu du lịch dịch vụ thể thao văn hóa DNTN Duy Quang 16.767 2006-2009
4 XD nhà hàng, khách sạn và khu giải trí DNTN Song Hào 10.913 2007-2008
5

XD khu nghỉ dưỡng ANA MANDARA Nb
Resort
CTCP Tân Phú 255.000 2008-2010
Tổng vốn đầu tư tư nhân 484.930
1 Trùng tu di tích đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng UBND Tỉnh 19.323 2007-2008
2 Tu bổ di tích động Hoa Lư UBND Tỉnh 12.000 2008-2009
3
Bảo tồn, tôn tạo Khu Di tích lịch sử văn hóa đền
Thung Lá
UBND Tỉnh 11.966 2006-2009
Tổng vốn đầu tư Ngân sách 43.289
Tổng vốn đầu tư vào Khu 528.219
Nguồn: Phòng Thẩm định, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình
Các sản phẩm du lịch tiêu biểu:
- Tham quan, nghiên cứu cảnh quan núi, hệ sinh thái ngập nước.
- Tham quan di tích lịch sử - văn hóa.
- Nghỉ dưỡng, chữa bệnh.
Ngoài những dự án đầu tư trong nước như được trình bày ở bảng tổng hợp dưới
đây, khu du lịch suối nước nóng Kênh Gà và bảo tồn đất ngập nước Vân Long còn
có dự án FDI. Đó là dự án khu du lịch sinh thái Đông Phương Sư ( 100% vốn của
Đài Loan), tổng vốn đầu tư là 32 triệu USD ( tại Vân Long, Gia Viễn)
Đối với khu vực Đầm Cút, Kênh Gà, việc thu hút đầu tư du lịch còn nhiều khó
khăn. Khu du lịch nước khoáng nóng hiện nay đang được đầu tư xây dựng, tuy
nhiên còn nhiều khó khăn do khả năng tài chính hạn chế. Một số nhà đầu tư nước
ngoài đã bày tỏ ý định đầu tư xây dựng những khu du lịch lớn nhưng việc triển khai
cụ thể chưa được rõ ràng. Nếu hoạt động du lịch được khai thác bền vững, kết hợp
với những giá trị tự nhiên cao của khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long, thì khi đó
việc lập hồ sơ đề nghị công nhận di sản thế giới cho Vân Long sẽ rất thuận lợi.
2. Khu du lịch trung tâm thành phố Ninh Bình với Dục Thuý Sơn, Ngọc Mỹ Nhân và
hồ Kỳ Lân:

Đây là khu du lịch trung tâm đóng vai trò điều phối hoạt động chung của du lịch Ninh Bình
trên cơ sở sử dụng hạ tầng và cơ sở vật chất du lịch vốn tương đối phát triển của đô thị. Tại
khu du lịch này, du khách còn có thể tham quan các điểm danh thắng nổi tiếng như: núi
Dục Thúy, sông Vân Sàng, núi Ngọc Mỹ Nhân, núi Kì Lân. Với định hướng phát triển
thành phố thành đô thị loại ba, việc xây dựng các khu du lịch này, kết hợp với các sản
phẩm du lịch khác ở khu vực phụ cận theo qui hoạch, trong đó xác định vị trí trọng tâm của

×