Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Chính sách đào tạo nhân lực thông tin trong các cơ quan thông tin khoa học và công nghệ thuộc Hệ thống Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 92 trang )




ĐẠI HỌC QUỖC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ



NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG




Chính sách Đào tạo Nhân lực thông tin
trong các cơ quan thông tin khoa học và
công nghệ thuộc hệ thống thông tin khoa học
và công nghệ quốc gia






LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHệ
Mã Số 60.34.70
Khóa 2006-2009










Hà Nội, 2009



ĐẠI HỌC QUỖC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ




Chính sách Đào tạo Nhân lực thông tin
trong các cơ quan thông tin khoa học và
công nghệ thuộc hệ thống thông tin khoa học
và công nghệ quốc gia





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã Số 60.34.70
Khóa 2006-2009




Người thực hiện: Nguyễn Thị Phương Dung
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Hùng



Hà Nội, 2009


1
MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN 3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 4
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lý do nghiên cứu 5
2. Lịch sử nghiên cứu 5
3. Mục tiêu nghiên cứu 8
4. Phạm vi nghiên cứu 8
5. Mẫu khảo sát 8
6. Câu hỏi nghiên cứu 8
7. Giả thuyết nghiên cứu 8

8. Phƣơng pháp chứng minh 9
9. Kết cấu luận văn 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC THÔNG TIN 10
1.1. Một số khái niệm liên quan 10
1.2. Tiêu chuẩn về năng lực cán bộ thông tin ở Việt Nam trong thời kỳ mới 16
1.3. Kinh nghiệm từ một số mô hình đào tạo cán bộ thông tin ở một số
nƣớc trên thế giới 21
Kết luận chƣơng 1 30
CHƢƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NHÂN LỰC THÔNG TIN
TRONG CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN KH&CN THUỘC HỆ THỐNG
THÔNG TIN KH&CN QUỐC GIA 31
2.1. Tổng quan về Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia 31
2.1.1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức 31
2.1.2. Tiềm lực thông tin 33
2.2. Hiện trạng nhân lực thông tin trong các cơ quan thông tin
KH&CN trong Hệ thống Thông tin KH&CN Quốc gia 36
2.2.1. Về số lượng 36
2.2.2. Về chất lượng 36
2.2.3 Tổng hợp nhận định về nhân lực thông tin 47
2.3. Hiện trạng đào tạo cán bộ thông tin ở Việt Nam 48

2
2.3.1. Về đào tạo theo văn bằng 48
2.3.2. Về đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thông tin 54
Kết luận chƣơng 2 61
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG ĐÀO TẠO NHÂN LỰC
THÔNG TIN TRONG CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN THUỘC HỆ
THỐNG THÔNG TIN KH&CN QUỐC GIA 62
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực
thông tin 62

3.2. Đánh giá những tồn tại chính về nhân lực thông tin và các cơ sở
đào tạo nghiệp vụ thông tin 65
3.2.1. Thiếu hụt cán bộ thông tin trong những năm tới 66
3.2.2. Trình độ cán bộ thông tin còn một số mặt hạn chế 68
3.2.3. Các cơ sở đào tạo chuyên ngành thông tin còn nhiều bất cập 69
3.2.4. Các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chưa đáp ứng nhu cầu 71
3.3. Đề xuất các giải pháp 73
3.3.1.Tăng cường hợp tác đào tạo giữa các trường đào tạo về thông tin
với các cơ quan thông tin KH&CN 73
3.3.2.Thành lập trung tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ thông tin hoạt động độc
lập, tự chủ về tài chính theo tinh thần Nghị định 115/2005/NĐ-CP 75
3.3.3. Đẩy mạnh E-learning trong công tác bồi dưỡng nghiệp vụ 78
3.3.4. Xây dựng cơ chế đánh giá cán bộ thông tin thông qua kết quả
học tập từ các lớp bồi dưỡng 80
3.3.5. Khuyến khích các cán bộ tham gia đào tạo bồi dưỡng về ngoại
ngữ, tin học và kiến thức KH&CN 81
3.3.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của các lớp bồi dưỡng
cán bộ thông tin 83
3.3.7. Đổi mới chương trình, giáo trình tài liệu tham khảo đáp ứng yêu
cầu của sự phát triển 84
Kết luận chƣơng 3 86
KẾT LUẬN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC 90

3


LỜI CẢM ƠN




Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Hữu Hùng,
người đã tận tình giúp đỡ tôi trong việc chọn chủ đề luận văn, hướng dẫn
phương hướng triển khai, cách sử dụng tài liệu và tổng kết các kết quả nghiên
nghiên cứu một cách có hệ thống. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn
đồng nghiệp thuộc các cơ quan thông tin KH&CN đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong việc điều tra các số liệu nhanh chóng và chính xác.
Vì thời gian có hạn, nên chắc chắn luận văn của tôi còn nhiều khiếm
khuyết. Kính mong thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp đóng góp ý kiến để luận
văn được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

KH&CN
Khoa học và công nghệ
SP&DV TT
Sản phẩm và dịch vụ thông tin
KHKT
Khoa học kỹ thuật
CNTT
Công nghệ thông tin
IFLA
Hiệp hội thư viện quốc tế
UNESCO
Tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên Hợp Quốc
TW
Trung ương

CNH-HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CSDL
Cơ sở dữ liệu
SHTT
Sở hữu trí tuệ
ĐLCL
Đo lường chất lượng

5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Tư tưởng của chiến lược phát triển KH &CN nước ta đến năm 2020 là cơ
bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Việc tìm hiểu, nghiên cứu
và ứng dụng các công nghệ mới, thích hợp nhằm đi tắt đón đầu luôn là nhiệm
vụ trọng tâm của các cấp, các ngành. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, các tổ
chức thông tin KH&CN mà trong đó thành phần trung tâm là nhân lực làm
công tác thông tin KH&CN đóng vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay, khi cuộc cách mạng KH&CN trên thế giới đang phát triển
như vũ bão, các phát minh sáng chế, công nghệ và tri thức mới ra đời với tốc
độ “hàm mũ” thì việc thu thập xử lý thông tin lại càng đòi hỏi phải nhanh
chóng và cấp bách hơn bao giờ hết. Điều này đã và đang đặt ra những yêu cầu
ngày càng cao hơn đối với các cán bộ thông tin.
Thực tế, đến nay phần lớn nhân lực thông tin trong các cơ quan thông tin
KH&CN thuộc Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia tốt nghiệp từ các
chuyên ngành khác, chứ không phải ngành thông tin. Hơn nữa, cán bộ thông
tin sắp đến tuổi nghỉ hưu chiếm tỷ lệ cao, sẽ dẫn đến sự thiếu hụt nhân sự
trong những năm tới. Do vậy, việc đánh giá thực trạng nhân lực thông tin
trong các cơ quan thông tin KH&CN thuộc hệ thống thông tin KH&CN quốc
gia và đề xuất chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực này có ý nghĩa

quan trọng cả trước mắt lẫn lâu dài.
Trên tinh thần đó, tôi đã quyết định chọn nội dung nghiên cứu của luận
văn là “Chính sách đào tạo nhân lực thông tin trong các cơ quan thông tin
KH&CN thuộc hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia”
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề đào tạo nhân lực thông tin từ lâu đã được chú ý ở nhiều nước và
gần đây rất được quan tâm ở nước ta. Một phần của vấn đề đã được phản ánh
trong một số đề tài, công trình nghiên cứu.

6
Trước hết, đó là đề tài “Mô hình và và giải pháp đào tạo cán bộ thông
tin- thư viện ở Việt Nam trong điều kiện xã hội thông tin hiện đại” (Đề tài
nghiên cứu cấp Bộ của trường Đại học văn hóa do Ths. Nguyễn Thế Hiển
thực hiện năm 2004).
- Đề tài này tập trung nghiên cứu thực trạng công tác đào tạo sinh viên
thông tin- thư viện trong cả nước, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng công tác đào tạo sinh viên thông tin -thư viện tại các trường
đại học.
- Hạn chế của đề tài:
+ Đề tài chỉ nghiên cứu công tác đào tạo sinh viên thông tin-thư viện nói
chung, không đề cập đến công tác bồi dưỡng cán bộ thông tin - thư viện hiện
đang công tác tại các cơ quan thông tin.
+ Ngoài ra, tác giả cũng không điều tra nghiên cứu chi tiết về số lượng
cán bộ thông tin - thư viện hiện nay nên không đánh giá đúng về nhu cầu đào
tạo lực lượng cán bộ này trong tương lai.
Thứ hai, đề cập trực tiếp đến vấn đề đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thông
tin cũng có khá nhiều công trình và bài viết liên quan. Đặc biệt, trong cuốn
“Thông tin: từ lý luận tới thực tiễn” (Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Hữu Hùng,
NXB văn hóa thông tin, năm 2005), cũng có nhiều bài nghiên cứu liên quan như:
một số quan điểm về xây dựng chính sách quốc gia về thông tin KH&CN

trong giai đoạn CHN-HĐH đất nước; phát triển thông tin KH&CN để trở
thành nguồn lực; Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thông tin trong hệ thống thông
tin KH&CN quốc gia
Xuyên suốt các bài viết này, tác giả đã phần nào đề cập và đưa ra các
chính sách phát triển công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thông tin ở Việt
Nam giai đoạn hiện nay nhằm biến thông tin KH&CN thành nguồn lực để
phát triển đất nước. Tuy nhiên, do thiếu các nguồn lực cần thiết, các bài viết
mới dừng lại ở các phân tích và định hướng mang tính chiến lược, các số liệu
sâu về chất lượng nguồn nhân lực hiện tại (trình độ, độ tuổi, trình độ chuyên

7
môn, ngoại ngữ…) còn là lĩnh vực cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn. Tác
giả luận văn này đã kế thừa một số tư tưởng định hướng trong các bài viết
này của PGS.TS. Nguyễn Hữu Hùng trong quá trình nghiên cứu và đưa ra ra
giải pháp cụ thể.
Thứ ba, đề cập trực tiếp đến vấn đề đào đạo bồi dưỡng cán bộ thông tin
không thể không kể đến hội thảo chuyên đề “Nhu cầu tập huấn, bồi dưỡng
nghiệp vụ cho cán bộ thông tin tư liệu” (Kỷ yếu tháng 7/2006 do Trung tâm
Thông tin KH&CN Quốc gia xuất bản). Các bài tham luận trong hội thảo
hướng vào chính sách phát triển công tác bồi dưỡng cán bộ thông tin trong hệ
thống. Các bài viết chỉ dừng lại ở việc đưa ra các giải pháp phát triển công tác
bồi dưỡng trình độ cán bộ thông tin mang tính khái quát, chưa đưa ra được
các giải pháp cụ thể như: ai là người cần được đào tạo? đào tạo môn gì? trong
thời gian bao lâu? hay sự phối hợp giữa các trường đại học với cơ quan tuyển
dụng trong việc đào tạo Bên cạnh đó, các bài viết cũng không đề cập tới sự
thiếu hụt nguồn nhân lực này trong tương lai.
Tóm lại, so với các công trình, đề tài nghiên cứu liên quan, luận văn này
lần đầu tiên đã khảo sát cụ thể về số lượng và chất lượng nhân lực thông tin
(chuyên môn, bằng cấp, ngoại ngữ, độ tuổi) trong các cơ quan thông tin
KH&CN thuộc Hệ thống thông tin KH&CN quốc gia. Từ đó, đưa ra các dự

báo về sự thiếu hụt nguồn nhân lực thông tin trong tương lai.
Hơn nữa, luận văn còn đề cập đến cả thực trạng đào tạo sinh viên cũng
như thực trạng bồi dưỡng cán bộ thông tin, nên đã phác họa được bức tranh
tổng thể về nguồn nhân lực này.
Ngoài ra, luận văn cũng nhấn mạnh đến việc liên kết đào tạo giữa các
khoa, trường đào tạo nhân lực thông tin với các đơn vị trực tiếp sử dụng
nguồn nhân lực này; thành lập riêng một trung tâm chuyên bồi dưỡng cán bộ
thông tin. Đây là những giải pháp mới mà trong các công trình, đề tài nghiên
cứu trước luận văn này không đề cập tới.

8
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là nhằm vào việc:
- Đánh giá thực trạng nhân lực thông tin trong các cơ quan thông tin
KH&CN thuộc Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia.
- Đề xuất chính sách đào tạo nguồn nhân lực này nhằm đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ hội nhập.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đội ngũ cán bộ thông tin trong
các tổ chức thông tin KH&CN thuộc Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia
- Thời gian nghiên cứu từ sau năm 2000
5. Mẫu khảo sát
Cơ quan thông tin KH&CN trong Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia
được phân loại theo mô hình 4 cấp: TW, Bộ/ngành, địa phương và cơ sở bao gồm:
- Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia
- Cơ quan thông tin KH&CN cấp Bộ/ngành
- Cơ quan thông tin KH&CN thuộc các Sở KH&CN
- Cơ quan thông tin tại Viện/Trung tâm nghiên cứu, các trường Đại học.
6. Câu hỏi nghiên cứu
1. Thực trạng nhân lực thông tin trong các cơ quan thông tin KH&CN

thuộc Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia hiện nay ra sao?
2. Cần có chính sách đào tạo nhân lực thông tin như thế nào để đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ hội nhập?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Trả lời câu 1:
- Rất ít cán bộ thông tin tốt nghiệp chuyên ngành thông tin thư viện.
- Cán bộ thông tin sắp đến tuổi nghỉ hưu chiếm tỷ lệ cao.

9
Trả lời câu 2:
- Thành lập Trung tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ thông tin hoạt động độc
lập, tự chủ về tài chính
- Tăng cường hợp tác đào tạo giữa các trường đào tạo về thông tin với
các cơ quan thông tin KH&CN
8. Phƣơng pháp chứng minh
- Nghiên cứu tài liệu
- Điều tra, khảo sát nhân lực thông tin trong các cơ quan thông tin
KH&CN thuộc Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia.
- Phỏng vấn cán bộ, chuyên gia đầu ngành về thông tin.
9. Kết cấu luận văn: gồm 3 chương
Mở đầu
Chƣơng 1 : Cơ sở lý luận về đào tạo nhân lực thông tin
Chƣơng 2 : Đánh giá thực trạng nhân lực thông tin trong các cơ quan thông
tin KH&CN thuộc Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia
Chƣơng 3 : Giải pháp đào tạo nhân lực thông tin trong các cơ quan thông tin
KH&CN thuộc Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia
Kết luận

10
CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC THÔNG TIN

1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Thông tin KH&CN
Trong cuộc sống hàng ngày, ở đâu và lúc nào chúng ta cũng nghe nói
đến hai từ “thông tin”, chẳng hạn thông tin là nguồn lực của sự phát triển,
thông tin hỗ trợ việc hoạch định chính sách, thời đại ngày nay là thời đại của
thông tin, thông tin quí hơn vàng, có thông tin là có tất cả
Vậy thông tin là gì?
Thực tế, có rất nhiều cách hiểu về thông tin. Thậm chí ngay trong các từ
điển cũng không đưa ra một định nghĩa chính xác về thông tin.
Ví dụ: Trong bách khoa toàn thư của Liên Xô xuất bản lần thứ 3, tập 10
viết “Thông tin là tin tức được truyền đi bởi con người bằng lời nói, chữ viết
hoặc các phương tiện khác”.
Theo từ điển Oxford của Anh, thông tin là “điều mà người ta đánh giá
hoặc nói đến là tri thức, tin tức”; các từ điển khác đồng nhất thông tin với kiến
thức “thông tin là điều mà người ta biết” hoặc “thông tin là sự chuyển giao tri
thức làm tăng thêm hiểu biết của con người”…
Thuật ngữ “Thông tin” theo gốc tiếng Latin “informatio” (gốc của từ
hiện đại “information”) có hai nghĩa. Một là, nó chỉ một hành động rất cụ thể
tạo ra một hình dạng (forme). Hai là, tùy theo tình huống, nó có nghĩa là
truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay một biểu tượng. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển của xã hội, khái niệm thông tin cũng phát triển theo.
Theo nghĩa thông thường, thông tin được hiểu là các số liệu, kiến thức
được tồn tại và vận động trong quá trình xử lý, lưu trữ, tìm kiếm và truyền
phát. Trong lý thuyết toán học của thông tin thống kê của C.Shannon, thông
tin là số đo độ bất định (càng tăng hiểu biết về một sự vật, hiện tượng nào đó
chúng ta càng làm giảm độ chưa biết hoặc độ bất định của nó).

11

Căn cứ vào đặc điểm, nội dung của tin tức, có thể chia thông tin thành
các loại thông tin kinh tế, thông tin sản xuất, thông tin KH&CN Mỗi loại
thông tin đều có đặc trưng riêng, song nhìn chung chúng đều đóng vai trò
quan trọng trong quá trình hoàn thiện quản lý, phát triển khoa học kỹ thuật và
kinh tế. Trong tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5453-1991 nêu : “Thông tin là nội
dung con người gán cho dữ liệu với các qui ước (ký hiệu) đã biết, được sử
dụng trong việc trình bày chúng”.
Trong phạm vi luận văn này, khái niệm thông tin KH&CN được hiểu
theo định nghĩa tại Khoản 1, điều 2 Nghị định 159/2004/NĐ-CP ngày
31/8/2004 quy định về hoạt động thông tin KH&CN, theo đó: “Thông tin
KH&CN là các dữ liệu, số liệu, dữ kiện, tri thức khoa học và công nghệ (bao
gồm khoa học tự nhiên, KH&CN, khoa học xã hội và nhân văn) được tạo lập,
quản lý và sử dụng nhằm mục đích cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý
nhà nước hoặc đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân trong xã hội”
Như vậy, thông tin KH&CN không chỉ bó hẹp trong phạm vi thông tin
về khoa học tự nhiên, KH&CN mà còn bao gồm cả thông tin trong lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn.
Vai trò của thông tin KH&CN
Từ vài thập kỷ qua, cùng với hai yếu tố năng lượng và nguyên liệu,
thông tin KH&CN đã được coi là nguồn lực thứ 3, một dạng đặc biệt quan
trọng, có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phát triển mọi quá trình xã hội và
hoạt động kinh tế - xã hội của con người.
Thông tin KH&CN được coi là hàng hóa đặc biệt vì khi sử dụng, chúng
không những không mất đi mà giá trị của chúng càng được nhân lên và hiệu
quả chúng mang lại càng tăng. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay người ta
coi thông tin KH&CN là yếu tố nền tảng của kinh tế tri thức. Đặc biệt, ở các
nước phát triển, vị trí hàng đầu trong số các nguồn lực đã nhường lại cho
thông tin và tri thức. Quan niệm chung về thông tin KH&CN đã thay đổi từ
chỗ coi việc đầu tư cho thông tin KH&CN là đầu tư vì phúc lợi xã hội chuyển
thành đầu tư cho sự phát triển.


12
Bản thân khái niệm thông tin được xác định như sự thủ tiêu độ bất định
đã chứa đựng ý nghĩa về trật tự, kinh tế và hiệu quả. Vai trò của thông tin
KH&CN trong việc phát triển kinh tế xã hội, theo các nhà nghiên cứu, được
thể hiện qua các đặc tính sau:
+ Thông tin KH&CN không những là tài nguyên để phát triển kinh tế mà
còn có thể thay thế một phần các tài nguyên truyền thống (lao động, nguyên
liệu, năng lượng, tài chính, )
+ Thông tin KH&CN giúp tối ưu hóa hoạt động KHKT, sản xuất dẫn
đến thay thế các nguồn tài nguyên vật chất (cổ điển) bằng các nguồn tài
nguyên phi vật chất (thông tin). Chi phí cho thông tin rất nhỏ bé so với hiệu
quả mà chúng mang lại.
+ Khoa học trở thành động lực phát triển chỉ theo mức độ chuyển hóa
tiềm năng sáng tạo của nó thành thông tin.
Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của thông tin KH&CN đối với
lĩnh vực nghiên cứu khoa học nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội nói
chung. Tuy nhiên, vai trò của thông tin KH&CN, xét ở khía cạnh khác, cũng
vô cùng quan trọng. Thật vậy, chúng ta đang sống trong thời kỳ mà người ta
hay gọi là “bùng nổ thông tin” hay “khủng hoảng thông tin”. Hiện tại, trên
toàn thế giới, chỉ tính riêng lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật, hàng năm
cho ra đời khoảng 5 vạn tạp chí với 4,5 triệu bài báo, 110 nghìn cuốn sách, 30
vạn bản mô tả sáng chế, phát minh, 25 vạn báo khoa học và thiết kế thử
nghiệm, nửa triệu catalog công nghiệp Khối lượng các tài liệu này, cứ sau
chu kỳ 10 đến 15 năm lại tăng gấp đôi. Tuy nhiên, do không kiểm soát được
thông tin và xử lý thông tin kém, các công trình nghiên cứu, thiết kế trùng lặp
nhau làm lãng phí từ 40% đến 70% tổng kinh phí đầu tư cho khoa học trong
những năm 70. Theo ước tính của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô
S.R Miculinxki, nếu chỉ hợp lý hóa làm giảm đi 50% số thời gian của các nhà
khoa học Xô Viết đang bỏ ra để tìm kiếm thông tin thì đội ngũ các nhà khoa

học Liên Xô sẽ tăng thêm 125 nghìn người.

13
Nói cách khác, nếu làm tốt công tác thông tin KH&CN thì hàng năm thế
giới không phải lãng phí từ 40 - 70% kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học
do sự trùng lắp của các đề tài, công trình nghiên cứu. Các nhà khoa học sẽ
dành thời gian nhiều hơn để nghiên cứu các vấn đề thực sự mới và cần thiết,
những công trình mà chưa ai nghiên cứu. Qua đó, tính hiệu quả của các đề tài
cũng được nâng lên.
1.1.2. Nhân lực thông tin KH&CN
Nhân lực thông tin KH&CN được hiểu bao gồm những người đang trực
tiếp làm công tác thông tin tại các cơ quan, tổ chức tiến hành hoạt động thông
tin KH&CN và những cá nhân đang được đào tạo nghề thông tin tại các cơ sở
đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp …để trở thành cán bộ thông tin về sau.
Loại thứ nhất, nhân lực hiện đang làm công tác thông tin KH&CN, theo
quy định tại điều 12, mục 2 Nghị định 159/2004/NĐ-CP, bao gồm:
+ Cá nhân có đăng ký kinh doanh, đăng ký nghề tư vấn mà trong hoạt
động nghề nghiệp được phép tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin KH&CN
theo qui định tại nghị định này.
+ Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thực hiện nhiệm vụ
thông tin KH&CN theo chuyên môn, nghiệp vụ được cấp có thẩm quyền được giao.
Ở Việt Nam, các cá nhân có đăng ký kinh doanh, hoạt động độc lập
trong lĩnh vực thông tin KH&CN còn ít, chủ yếu là các cán bộ khoa học kiêm
nhiệm. Do vậy, luận văn chỉ tập trung chủ yếu vào phân tích chính sách đào
tạo, bồi dưỡng đối với các cán bộ thông tin thực hiện nhiệm vụ thông tin
trong các cơ quan thông tin KH&CN thuộc Hệ thống thông tin KH&CN quốc
gia, là đối tượng chủ yếu của nguồn nhân lực này.
Loại thứ hai, các sinh viên đang được đào tạo để trở thành cán bộ thông
tin trong tương lai. Ở Việt Nam hiện có 1 trường Đào tạo tiến sỹ thông tin thư
viện, 3 trường Đại học đào tạo thạc sỹ thông tin thư viện, 8 trường đào tạo cán

bộ thông tin thư viện ở bậc cử nhân, 4 trường đào tạo ở bậc cao đẳng, trung
cấp với số lượng với số lượng sinh viên ra trường lên đến hàng nghìn người
mỗi năm.

14
Đây là nguồn nhân lực bổ sung, kế cận rất quan trọng và quyết định sự
phát triển hoạt động thông tin nói chung và thông tin KH&CN nói riêng. Do
vậy, khi nghiên cứu về chính sách đào tạo nhân lực thông tin không thể không
đề cập đến chính sách đào tạo nguồn nhân lực tương lai quan trọng này.
Vai trò của cán bộ thông tin KH&CN
Sự thành công hay thất bại của bất kỳ hoạt động nào, suy cho cùng, là do
con người quyết định. Hoạt động thông tin KH&CN cũng vậy, muốn hoạt
động thông tin được hiệu quả thì tin tức phải đến được với người có nhu cầu
thông tin, từ đó thông tin mới phát huy được tác dụng và mới trở thành nguồn
lực phát triển. Chẳng hạn, thông tin về một giống lúa mới cho năng suất cao
nếu không truyền đến được với người nông dân thì nó sẽ không có tác dụng.
Ngược lại, nếu người nông dân được tiếp cận được thông tin này thì họ sẽ
nhanh chóng áp dụng vào sản xuất tạo ra năng suất cao, đóng góp vào sự phát
triển kinh tế. Khi đó thông tin sẽ phát huy tác dụng và trở thành nguồn lực
cho sự phát triển.
Người đứng ra làm cầu nối giữa nguồn tin KH&CN và người dùng tin
không ai khác chính là cán bộ thông tin. Do vậy, vai trò này của cán bộ thông
tin là rất quan trọng. Nếu cán bộ thông tin làm tốt vai trò này tức là góp phần
quan trọng vào sự phát triển KH&CN chung của đất nước. Đặc biệt với Việt
Nam hiện nay, một nước đang tiến hành CNH đi đôi với HĐH đất nước, thì
nguồn tin KH&CN trong nước và trên thế giới được Nhà nước đặc biệt quan
tâm. Do đó, vai trò của người cán bộ thông tin KH&CN ngày càng đuợc nâng
lên và yêu cầu họ phải không ngừng được đào tạo, học hỏi để thực hiện tốt
hơn vai trò của mình.
Hơn nữa, cùng với sự phát triển của KH&CN và đặc biệt là của CNTT,

trên phạm vi toàn thế giới đang chứng kiến sự “bùng nổ thông tin”, số lượng
các phát minh, sáng chế không tính bằng ngày, bằng năm mà có thể tính bằng
giờ, phút, giây. Một đề tài hôm nay là mới nhưng ngày mai đã có thể là cũ.
Thông tin bùng nổ, trong khi công tác thông tin KH&CN không tốt (tính cập

15
nhật, tổng hợp, phân tích kém) nên đã dẫn đến tình trạng trùng lặp rất nhiều
trong nghiên cứu.
Ví dụ: Một đề tài tương tự đã được một người khác thực hiện, nhưng do
không nắm được thông tin nên những người khác cũng tiến hành nghiên cứu.
Kết quả là gây lãng phí tiền bạc, công sức cũng như thời gian. Sự lãng phí về
công sức và thời gian nghiên cứu còn bị nhân lên gấp bội, bởi thay vì nghiên
cứu đề tài trùng lắp đó, nhà khoa học có thể nghiên cứu đề tài mới, giúp ích
hơn rất nhiều cho khoa học. Số liệu thống kê cho thấy, mỗi năm thế giới đã
lãng phí từ 40-70% ngân sách dành cho nghiên cứu khoa học vì sự trùng lắp
đề tài, mà nguyên nhân, như đã nói là do công tác thông tin KH&CN không
tốt, cán bộ thông tin chưa theo kịp sự phát triển mạnh mẽ của các nguồn tin.
Nói cách khác, sự phát triển mạnh của KH&CN, CNTT cũng như truyền
thông đã gây ra sự “bùng nổ thông tin” hay “khủng hoảng thông tin”. Để khắc
phục tình trạng này, bên cạnh việc liên tục đổi mới các công cụ lưu trữ, tìm
tin, ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động thông tin cần phải phát
triển mạnh về số lượng cũng như chất lượng cán bộ thông tin. Bởi vì chính
cán bộ thông tin, nếu có đầy đủ về số lượng và được đào tạo chuyên môn tốt,
sẽ là những người có vai trò quyết định trong việc giảm thiểu những tổn thất,
lãng phí cho xã hội do hậu quả của sự “bùng nổ thông tin”.
Thực tế, ở Việt Nam, vai trò của cán bộ thông tin rất mờ nhạt, nhiều
người còn chưa biết đến khái niệm cán bộ thông tin, cũng như không biết
công việc của họ là gì, họ có vai trò, vị trí gì trong xã hội. Một phần là do hoạt
động thông tin KH&CN ở Việt Nam chưa phát triển, đội ngũ cán bộ thông tin
còn ít về số lượng và hạn chế về chất lượng, chưa chủ động trong việc khai

thác và phổ biến thông tin đến đối tượng cần thông tin. Hơn nữa, các cán bộ
thông tin nhiều khi chỉ thực hiện các công việc đơn giản thuần túy như xây
dựng CSDL thư mục…


16
1.2. Tiêu chuẩn về năng lực cán bộ thông tin ở Việt Nam trong thời kỳ mới
Trong nền kinh tế tri thức, quản trị tri thức có ý nghĩa rất quan trọng và
cán bộ thông tin phải trở thành đội ngũ quản trị tri thức. Trước đây, cán bộ
thông tin được coi như một bộ phận có tính chất trợ giúp, phụ trợ của một cơ
quan hay tổ chức, thường làm việc một cách thầm lặng ở phía sau, làm nền
cho các hoạt động khác, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động thiết yếu
của tổ chức thì ngày nay sẽ trở thành người quản trị tri thức, đóng vai trò mới
và quan trọng hơn.
Trong khuôn khổ chương trình nghiên cứu về giáo dục và đào tạo cán bộ
thông tin thư viện khu vực châu Á - Thái Bình Dương do UNESCO chủ trì
với sự tài trợ của Chính phủ Nhật Bản, các chuyên gia tư vấn đã xác định rằng
trong thời gian tới sẽ có thể hình thành 4 nhóm cán bộ thông tin, có thể gọi là
4C gồm:
- C1: Nhóm cán bộ tạo ra thông tin (Creators),
- C2: Nhóm cán bộ thu nhập thông tin (Collector),
- C3: Nhóm cán bộ truyền thông (Communcators),
- C4: Nhóm cán bộ bao gói/nén tin (Consolidators).
+ Nhóm cán bộ tạo ra thông tin (C1) là những người có khả năng phát
triển và tạo ra những SP&DV TT. Họ cần có khả năng hiểu biết công nghệ
thông tin và kiến thức chuyên môn để khai thác được hết những tiềm năng
của công nghệ một cách hiệu quả. Họ cần phải có năng lực để xây dựng
những hệ thống thông tin thân thiện, dễ sử dụng với những dịch vụ đa dạng,
hữu ích.
+ Nhóm cán bộ thu nhập thông tin (C2) là những người có nhiệm vụ

thu thập, tổ chức và tạo ra những bộ sưu tập thông tin sẵn sàng cho phục
vụ. Mặc dù đó là một công việc được xem là truyền thống, song với sự phát
triển mạnh mẽ của các nguồn tin điện tử như tạp chí điện tử… đòi hỏi ở họ
những sự đổi mới trong cách tiếp cận, trong sử dụng công cụ và trong việc
nâng cao hiểu biết.

17
+ Nhóm cán bộ truyền thông (C3) là những người sẽ đảm bảo cho mối
liên hệ chặt chẽ, là cầu nối giữa nguồn tin, người cung cấp tin và người sử
dụng thông tin. Mặc dù xu thế đưa thông tin ngày càng phức tạp đòi hỏi các
cán bộ thông tin phải là những đội ngũ cán bộ đủ năng lực giúp đỡ người
dùng tin hoặc tạo ra những sản phẩm được thiết kế riêng theo yêu cầu.
+ Nhóm cán bộ bao gói/nén tin (C4) là những người xử lý, phân tích
thông tin, hỗ trợ các nhà quản lý, nhà ra quyết định. Họ đảm bảo cho việc
thực hiện các hoạt động chọn lọc tin, nghiên cứu, phân tích và bao gói thông
tin. Do đó, họ có thể được coi như một bộ phận, một thành phần của công tác
quản lý.
Với mỗi nhóm cán bộ, cần có những yêu cầu nhất định về trình độ và
năng lực chuyên môn. Tuy nhiên, cho dù một người cán bộ thông tin thuộc
nhóm nào trong bất kỳ 4 nhóm trên thì họ cũng cần được đào tạo, bồi dưỡng
tốt ba nhóm kỹ năng cơ bản đó là: Những kiến thức về chuyên môn nghiệp
vụ; những kiến thức và kỹ năng về CNTT và truyền thông và năng lực quản
lý điều hành.
1.2.1. Những kiến thức và kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ
Những kiến thức và kỹ năng về chuyên môn và nghiệp vụ bao gồm:
- Hiểu biết về người dùng tin: Người dùng tin là đối tượng phục vụ của
họat động thông tin, là khách hàng của mọi dịch vụ thông tin. Vì vậy, người
làm thông tin trước hết phải có khả năng phân tích và hiểu nhu cầu thông tin
của người dùng tin, biết được tập quán thông tin của họ, đồng thời giúp họ có
thói quen thông tin tốt để sử dụng tốt nhất các nguồn tin hiện có, đặc biệt làm

quen với các phương tiện xử lý thông tin hiện đại.
- Hiểu biết về vị trí, vai trò của nghề thông tin: Nghề thông tin có một vị trí
nhất định trong xã hội và hoạt động trong một môi trường pháp lý trong mối
tương quan với nhiều hoạt động khác của xã hội. Người làm thông tin phải
xác định được vị trí, chức năng nhiệm vụ, hệ thống tổ chức của nghề thông tin
trong xã hội; hiểu những nguyên tắc cơ bản liên quan đến chính sách thông tin

18
và kinh tế thông tin; có hiểu biết về những quy định pháp luật liên quan đến
hoạt động thông tin, các luật liên quan đến SHTT đặc biệt luật bản quyền, biết
áp dụng các chuẩn quốc gia và quốc tế liên quan đến hoạt động thông tin.
- Xác định và đánh giá các nguồn tin: Mọi hoạt động thông tin đều phải
dựa trên các nguồn tin và tài liệu. Cán bộ thông tin phải biết phát hiện, đánh
giá thông tin, các tài liệu và các nguồn của chúng. Cụ thể là biết sử dụng các
phương tiện tra cứu thủ công cũng như hiện đại như các mục lục, các thư
mục, các CSDL, các máy tìm kiếm để phát hiện và tìm thông tin; Nắm vững
các tiêu chuẩn lựa chọn tài liệu; Biết kiểm tra chất lượng của các nguồn, các
tài liệu và thông tin theo những dữ liệu chỉ dẫn; Nắm vững các công cụ cũng
như các phương thức để có được các thông tin và tài liệu đó. Đó là những
công việc liên quan đến khâu chọn lọc và bổ sung tài liệu.
- Quản lý vốn tài liệu và kho: Để đáp ứng yêu cầu thông tin của người dùng
tin, cán bộ thông tin phải nắm vững và đánh giá được số lượng và chất lượng,
cơ cấu và giá trị sử dụng vốn tài liệu của đơn vị; Xác định những khuyết điểm
của vốn tài liệu căn cứ vào mức độ thoả mãn yêu cầu thông tin của người
dùng tin; Xác định và áp dụng những tiêu chuẩn để lựa chọn hay loại bỏ tài
liệu; Biết tổ chức một hệ thống sắp xếp tài liệu cho phép định vị các tài liệu
thuận lợi cho tìm kiếm; có kiến thức về nguyên tắc và kỹ thuật bảo quản tài
liệu (tài liệu truyền thống, tài liệu điện tử, tài liệu nghe nhìn…)
- Phân tích và trình bày thông tin: Cán bộ thông tin phải biết phân tích tài
liệu và trình bày những thông tin đó dưới một dạng thích hợp. Đó chính là

những công việc liên quan đến việc xử lý hình thức và nội dung tài liệu. Cụ
thể là: Xác định các dữ liệu thể hiện các đặc trưng hình thức của tài liệu và
ghi chúng trên các phiếu mô tả theo các quy định và tiêu chuẩn đã được xác
lập; Phân loại tài liệu theo một khung phân loại đã lựa chọn; Xác định chủ đề
chính của tài liệu; Lập một bản chỉ mục cho tài liệu bằng một tập hợp các từ
khoá hoặc từ chuẩn khái quát nội dung và những khái niệm mà tài liệu đề cập
tới; Cô đọng nội dung tài liệu bằng một bản tóm tắt, ở trình độ cao hơn cán bộ
thông tin còn phải biết biên tập các bản tin, tổng luận chuyên đề.

19
- Lưu trữ thông tin và tổ chức bộ máy tra cứu: Đây là công việc tổ chức và
cấu trúc các dữ liệu liên quan đến việc mô tả tài liệu của đơn vị thông tin để
đưa chúng vào bộ nhớ của hệ thống. Do đó, cán bộ thông tin phải biết xây
dựng các CSDL, thiết lập phiếu nhập tin, xác định các dấu hiệu tìm tin, tạo
khuôn dạng trình bày cho đầu ra của dữ liệu trên màn hình hoặc trên máy in.
- Tìm tin: Tìm tin là thuật ngữ chung để chỉ việc tìm tài liệu hay nguồn của
tài liệu, cũng như những thông tin về dữ liệu và sự kiện mà tài liệu đó cung
cấp. Đó là nhiệm vụ cơ bản của hoạt động thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu
của người dùng tin. Cán bộ thông tin phải biết xử lý các yêu cầu tin và đưa ra
một chiến lược tìm tin thích hợp, xác định tất cả các nguồn tin có thể trả lời
yêu cầu tin của người dùng tin. Bên cạnh việc sử dụng thành thạo các phương
tiện tra cứu thủ công, cán bộ thông tin phải biết sử dụng các phương tiện tra
cứu hiện đại; tìm tin trên các CSDL hoặc trên mạng, đặc biệt là mạng
Internet, biết khai thác thông tin trong các thư viện điện tử- thư viện số. Ngoài
ra, còn có khả năng tổng hợp, bao gói các kết quả tìm kiếm và chuyển chúng
tới người dùng tin, đồng thời đánh giá mức độ phù hợp và giá trị sử dụng của
các thông tin tuỳ theo yêu cầu của người dùng tin.
- Khai thác và phổ biến thông tin: Các thông tin đã được xử lý cần được
đưa vào khai thác và dễ dàng sử dụng thông qua cung cấp các sản phẩm và
dịch vụ thông tin. Cán bộ thông tin không chỉ biết phổ biến thông tin thông

qua các dịch vụ thông tin thông thường như dịch vụ thông tin hỏi - đáp, dịch
vụ cung cấp tài liệu, dịch vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu (phổ biến thông
tin có chọn lọc) mà còn phải biết triển khai các dịch vụ thông tin trên mạng
dựa trên CNTT hiện đại. Ngoài ra,còn phải biết định hướng người dùng tin tới
những SP&DV TT tốt nhất giúp họ nhận được chúng dưới dạng thích hợp,
mở rộng hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước trong chiến lược tiếp
cận và phổ biến thông tin.
1.2.2. Những kiến thức và kỹ năng về CNTT và truyền thông
Những kiến thức và kỹ năng về CNTT và truyền thông bao gồm:

20
- Kỹ năng tin học: Ngoài kiến thức và kỹ năng cơ bản về tin học, sử dụng
máy tính văn phòng, cán bộ thông tin ngày nay phải biết sử dụng các phần
mềm tư liệu để lưu trữ, tìm kiếm tài liệu và tạo ra các sản phẩm thông tin thư
mục, biết sử dụng một phần mềm tích hợp để quản trị thư viện điện tử. Có
những hiểu biết cần thiết về các nguồn tài liệu điện tử, nắm được kỹ thuật số
hoá các tài liệu, xử lý các thông tin dưới dạng âm thanh và hình ảnh, các
thông tin đa phương tiện. Ở trình độ cao hơn, người cán bộ chuyên trách cần
phải biết cài đặt và bảo trì hệ thống, biết sử dụng ngôn ngữ lập trình để viết
các chương trình cho các ứng dụng đơn giản.
- Kiến thức về truyền thông: Trong bối cảnh bùng nổ CNTT và truyền
thông, cán bộ thông tin phải có kiến thức cơ bản về mạng thông tin máy tính,
biết quản lý và khai thác một mạng cục bộ, biết sử dụng các dịch vụ truyền
tệp…Ở trình độ cao hơn, cán bộ chuyên trách phải có khả năng tạo lập các
trang Web bằng ngôn ngữ đánh dấu, xây dựng và quản trị các trang web.
- Khả năng về ngoại ngữ: Trong môi trường giao lưu thông tin toàn cầu
hiện nay, để làm tốt công việc của mình, dù ở cương vị nào, cán bộ thông tin
cũng phải thực hành tốt ít nhất một ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, để sử
dụng trong giao tiếp, trong lựa chọn, tìm kiếm và xử lý tài liệu, cũng như
trong các giao tác với các chương trình máy tính.

1.2.3. Năng lực quản lý điều hành
Năng lực quản lý và điều hành của cán bộ thông tin đặc biệt là cán bộ
thông tin làm công tác quản lý, thể hiện ở các mặt sau:
- Quản lý chuyên môn và nghiệp vụ: Có khả năng đánh giá mặt mạnh, mặt
yếu của các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, của các SP&DV TT và đưa ra
những giải pháp để nâng cao chất lượng của chúng; Đưa ra một hệ thống chỉ
tiêu để đánh giá chất lượng của các công việc chuyên môn, các SP&DV TT.
- Marketing: Ngày nay, thông tin trở thành hàng hoá, các hoạt động thông
tin ngày càng mang tính chất dịch vụ và kinh tế. Cán bộ thông tin phải biết
thiết lập và duy trì mối quan hệ với khách hàng và đối tác để quảng bá và phát

21
triển các SP&DV TT; Có khả năng phân tích yêu cầu và thị trường, đánh giá
thực trạng của hoạt động và môi trường cạnh tranh và đưa ra những giải pháp
nhằm chiếm lĩnh thị trường thông tin bằng những SP&DV TT của mình.
- Quản lý kế hoạch và tài chính: Có khả năng triển khai và kiểm tra việc
thực hiện một kế hoạch hoặc một dự án; Có những hiểu biết về công tác tài
chính và kế toán để quản lý tốt ngân sách và đem lại những lợi ích kinh tế cho
các SP&DV TT.
- Quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị: Các trang thiết bị sử dụng trong
hoạt động thông tin ngày càng hiện đại. Cán bộ thông tin phải biết lựa chọn
và sử dụng có hiệu quả các thiết bị xử lý thông tin hiện đại như máy tính, máy
in, máy quét, các thiết bị đọc, thiết bị mạng, phần mềm chuyên dụng …
- Quản lý và phát triển nguồn nhân lực: Trong hoạt động thông tin, yếu tố
con người giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Do đó, cần biết quản lý và phát huy
năng lực chuyên môn của cán bộ nghiệp vụ; Sử dụng đúng người đúng việc
và chuyên môn hoá đối với từng vị trí công việc; Thường xuyên tổ chức bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật kiến thức cho cán bộ dưới nhiều hình
thức đào tạo linh hoạt và có hiệu quả, đồng thời khuyến khích việc tự học.


1.3. Kinh nghiệm từ một số mô hình đào tạo cán bộ thông tin ở một số
nƣớc trên thế giới
1.3.1. Công tác đào tạo cán bộ thông tin ở một số nước trên thế giới
Trên thế giới, trong lĩnh vực thông tin thư viện, người ta phân chia thành
hai loại hình đào tạo:
- Đào tạo bồi dưỡng nghề nghiệp
- Đào tạo chuyên nghiệp.
Đặc trưng phân biệt của loại hình đào tạo bồi dưỡng nghề nghiệp với đào
tạo chuyên nghiệp là tính pháp lý của văn bằng cấp sau khoá học. Vì thế,
những khoá học đào tạo bồi dưỡng nghề nghiệp còn được gọi là khoá học
không có cấp vị, còn đào tạo chuyên nghiệp là loại hình đào tạo có kèm theo
văn bằng. Học viên qua các khoá này được cấp văn bằng xác nhận một cấp

22
học tương ứng. Vì thế các khoá học đào tạo chuyên nghiệp còn được gọi là
khoá học có cấp vị.
Đào tạo bồi dưỡng là một hình thức đào tạo quan trọng được các nước
trên thế giới rất quan tâm. Trong ngành thông tin thư viện, loại hình đào tạo
không cấp vị mà người ta vẫn quen gọi là đào tạo bồi dưỡng (kiến thức cơ bản
hoặc nâng cao) có tầm quan trọng đặc biệt. IFLA đã thành lập một tiểu ban
chuyên theo dõi về công tác đào tạo bồi dưỡng. Đào tạo bồi dưỡng còn được
gọi là đào tạo liên tục. Tiểu ban này có nhiệm vụ khuyến khích và thúc đẩy
các chương trình đào tạo về khoa học thông tin thư viện quốc tế, giúp cho
người cán bộ thông tin trên toàn thế giới có thể trao đổi thông tin, phát triển
các kỹ năng nghề nghiệp, thúc đẩy công tác giáo dục thường xuyên. Tính đến
nay IFLA đã 5 lần tổ chức hội nghị quốc tế về vấn đề đào tạo bồi dưỡng.
Đối với các nước phát triển, khái niệm đồng nghĩa với dạng đào tạo này là
đào tạo thường xuyên. Vấn đề đào tạo thường xuyên hiện đang trở thành biện
pháp hàng đầu của công nghệ giáo dục mới. Các hội thông tin thư viện của
các nước IFLA và UNESCO đã quan tâm đến vấn đề này từ lâu và các tổ

chức này đã coi đó là một trong những phương tiện chủ yếu để phát triển
nguồn lực thông tin thư viện và không ngừng nâng cao chất lượng của các cán
bộ công tác trong lĩnh vực này.
Về đào tạo chuyên nghiệp, trong hệ thống đào tạo nhân lực ngành thông
tin thư viện hiện nay trên thế giới hiện có ba cấp vị: Cử nhân, thạc sĩ và tiến
sĩ. Hiện nay, ở hầu hết các nước phát triển đều có đào tạo cả ba cấp vị này.
Tại Hoa Kỳ, việc đào tạo văn bằng thạc sĩ và tiến sĩ nghề thư viện đã xuất
hiện từ những năm 50. Ở các nước phát triển khác như Pháp, Anh, Nga,
Ôxtrâylia, Nhật Bản việc đào tạo sau đại học đều có cả hai trình độ: thạc sĩ
và tiến sĩ.
Năm 1971, IFLA đã tiến hành kỳ họp thứ 37 ở Livepul. Chủ đề được
đưa ra là "Tổ chức nghề thư viện" trong đó vấn đề được chú ý nhiều nhất là
vấn đề đào tạo cán bộ thư viện. Từ năm 1977, Tiểu ban Trường thư viện và

23
công tác đào tạo cán bộ thư viện của IFLA đã tiến hành chương trình nghiên
cứu "Sự tương đương của việc đào tạo cán bộ thư viện".
Mục đích của chương trình này là thông qua các tiêu chuẩn quốc tế trong
lĩnh vực đào tạo cán bộ thông tin thư viện. Bức tranh về đào tạo cán bộ thông
tin thư viện trên thế giới vào những năm 70 - 80 của thế kỷ XX rất phong phú
đa dạng. Mặc dù UNESCO và IFLA đã nỗ lực trong việc đề xuất ra một
phương pháp đào tạo thống nhất trong đào tạo cán bộ thông tin thư viện
nhưng trên thực tế trong các cơ quan đào tạo chưa có được sự thống nhất thực
sự do nhiều nguyên nhân khác nhau: sự phát triển của kinh tế xã hội của các
nước khác nhau, đặc tính nghề nghiệp của hệ thống giáo dục, nền tảng tư
tưởng của việc tổ chức sự nghiệp thư viện, quan điểm khác nhau về nghề
nghiệp và thậm chí các khuynh hướng phát triển nghề nghiệp cũng không thể
đồng nhất ở tất cả các nước trên thế giới. Tuyên ngôn của UNESCO về các
thư viện công cộng năm 1972 đã đặt ra các yêu cầu về đào tạo chuyên nghiệp
bắt buộc dối với cán bộ thư viện. Sau đó UNESCO đã xuất bản cuốn “Sách

hướng dẫn cho các trường thư viện và thông tin trên thê giới". Trong lần xuất
bản vào năm 1985, cuốn sách đã thống kê hơn 600 trường thư viện đào tạo
cán bộ thông tin thư viện của 92 nước. Hiện nay, con số này không dừng lại ở đó.
Theo con số thống kê trong "Bách khoa toàn thư về các tổ chức thông tin
thư viện", hơn 70 chương trình giáo dục khoa học thư viện được áp dụng
trong các trường học ở Hoa Kỳ và Canađa đã được Hội Thư viện Hoa Kỳ
(ALA) phát triển và sự hội tụ của nghề thư viện với khoa học thông tin đã
được phản ánh thông qua các chương trình đào tạo.
Tại Canađa, các chương trình đào tạo rất chú trọng đến vấn đề kỹ thuật
trong công tác thông tin thư viện. Để trở thành người cán bộ thông tin thư
viện, thì phải học một trong bảy chương trình do Hội thư viện Hoa Kỳ thiết
lập. Khoá đào tạo thư viện đầu tiên được tiến hành tại trường đại học tổng
hợp Mc.Gill vào năm 1904. Chương trình đào tạo sau đại học bắt đầu được
tiến hành vào năm 1931. Vào những năm 90 của thế kỷ XX, nhiều trường đã
đổi tên do ảnh hưởng của sự phát triển của khoa học thông tin.

×