Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Đánh giá hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ thành lập theo Nghị định 35 HĐBT trong các Viện nghiên cứu và triển khai (Nghiên cứu trường hợp Viện Kh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.57 KB, 85 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN KIM CÔNG



ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH LẬP THEO NGHỊ ĐỊNH 35/HĐBT
TRONG CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM)



LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60 34 72.



Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Hà







Hà Nội, 2010

3
LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian nghiên cứu, tôi hoàn tất được bản luận văn này.
Trong suốt quá trình thực hiện, tôi đã nhận được sự hướng dẫn và hỗ trợ
thông tin nhiệt tình từ quý thầy cô, bạn bè cũng như đồng nghiệp. Tôi xin
phép được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
- TS. Mai Hà – Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học
và Công nghệ, giáo viên hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
- PGS. TS. Phạm Huy Tiến – nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Khoa
học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia (nay là Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam) đã hỗ trợ, chia sẻ những kinh nghiệm và thông tin bổ ích để tôi
hoàn thành chương trình học này.
- Lãnh đạo Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Ban Tổ chức –
Cán bộ, phòng Quản lý tổng hợp các đơn vị trực thuộc Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam.
- Quý thầy cô Khoa Khoa học Quản lý – Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn cùng toàn thể anh chị em học viên lớp Quản lý Khoa học và
Công nghệ Khóa 9.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và đồng nghiệp đã luôn
ở bên động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 10 năm 2010
Tác giả

Nguyễn Kim Công


4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viện KH&CN Việt Nam : Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Viện KHVN : Viện Khoa học Việt Nam
KHTN&CN QG : Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia
NCKH : Nghiên cứu khoa học
KH&CN : Khoa học và Công nghệ
KHKT : Khoa học kỹ thuật
KHSX : Khoa học sản xuất
CGCN : Chuyển giao công nghệ
KT - XH : Kinh tế xã hội
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tổ chức R&D : Tổ chức nghiên cứu và triển khai
Nghị định 35 : Nghị định số 35/HĐBT
Nghị định 115 : Nghị định số 115/2005/NĐ-CP
Nghị định 80 : Nghị định số 80/2007/NĐ-CP




5
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU

Hình 1.1: Hoạt động KH&CN – cơ sở để phân loại tổ chức KH&CN. 17
Hình 1.2: Quan hệ nghiên cứu KH&CN và sản xuất 21
Hình 2.1: Mô hình tổ chức của Viện KHVN theo Nghị định 118/CP 25
Hình 2.2: Sơ đồ vị trí của các đơn vị 35 ở Viện KH&CN Việt Nam 36
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của Liên hiệp KHSX phần mềm . 38
Bảng 2.2: Kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN của Liên hiệp KHSX vật

liệu kỹ thuật cao. 48
Bảng 2.3: Kết quả thực hiện sản xuất kinh doanh và dịch vụ của Liên
hiệp KHSX vật liệu kỹ thuật cao. 48
Bảng 2.4: Kết quả thực hiện sản xuất kinh doanh và dịch vụ KH&CN
của Liên hiệp KHSX thủy tinh. 51
Bảng 2.5: Kết quả thực hiện sản xuất kinh doanh và dịch vụ của Liên
hiệp KHSX vật liệu mới và thiết bị 53
Bảng 2.6: Kết quả thực hiện dịch vụ KH&CN của Liên hiệp KHSX công
nghệ hóa học 58



6
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Những năm 1989 – 1990, nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới,
đất nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thích nghi với những biến động của
xã hội, các tổ chức nghiên cứu và triển khai luôn tự điều chỉnh không những
về chức năng, nhiệm vụ mà còn hướng hoạt động gần với thực tiễn hơn làm
hình thành những cơ chế mới trong quản lý khoa học và công nghệ thích
nghi dần với cơ chế quản lý của thời kỳ đổi mới. Nhằm thực hiện mục đích
đó nhà nước đã ban hành những văn bản pháp lý như Nghị định 35/HĐBT
ngày 28/01/1992 và gần đây là Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005
của Chính phủ.
Nghị định số 35/HĐBT ngày 28/01/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) về công tác quản lý KH&CN là một trong những văn bản pháp
luật được ban hành trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Để tiếp tục đổi
mới quản lý KH&CN, thúc đẩy phát triển các hoạt động sáng tạo, khuyến

khích việc ứng dụng các thành tựu KH&CN mới vào sản xuất và đời sống,
nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động khoa học và công nghệ.
Trước đó, để giải quyết quan hệ giữa các tổ chức R&D với nhau và với sản
xuất, Chính phủ ban hành Quyết định số 175/CP ngày 29/4/1981 về việc ký
kết và thực hiện hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ
thuật đã mở ra một giai đoạn xóa bỏ hệ thống quản lý nghiên cứu theo mô
hình chỉ huy tập trung – “phi tập trung hoá” sự chỉ đạo hoạt động KH&CN
của nhà nước
1
nghĩa là cho phép thiết lập quan hệ trực tiếp trong hoạt động
nghiên cứu và chuyển giao kết quả nghiên cứu thông qua các hợp đồng kinh
tế. Trên cơ sở pháp lý này, các Viện bắt đầu mở rộng hoạt động với các cơ
sở sản xuất vừa được sử dụng có hiệu quả các kết quả nghiên cứu phục vụ


1
PGS. TS. Vũ Cao Đàm

7
sản xuất, vừa tăng được nguồn kinh phí bổ sung cho nghiên cứu. Mười một
năm sau khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 175/CP, Nghị định số
35/HĐBT ra đời đánh dấu một bước quan trọng trong việc xoá bỏ cơ chế
hành chính quan liêu bao cấp, mở ra cho mọi tổ chức, cá nhân được phát
triển rộng rãi các hình thức tổ chức nghiên cứu và dịch vụ KH&CN, khơi
dậy nhiều tiềm năng, sáng tạo, bằng việc cho phép các viện nghiên cứu được
thành lập các đơn vị nghiên cứu và triển khai trực thuộc Viện, hoạt động
theo cơ chế tự trang trải tài chính, nhiều tổ chức nghiên cứu - triển khai được
thành lập với các mô hình sáng tạo, hoạt động tạo thành cầu nối giữa khoa
học và sản xuất, đưa nhanh các kết quả nghiên cứu vào sản xuất phục vụ đời
sống xã hội. Thực hiện Nghị định 35/HĐBT, Bộ Khoa học, Công nghệ và

Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) đã cấp giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động KH&CN đối với các tổ chức nghiên cứu và triển khai.
Ngay năm đầu tiên Nghị định 35 có hiệu lực đã có rất nhiều tổ chức
KH&CN được thành lập thuộc các Bộ, các Trường đại học, doanh nghiệp…
Từ đó đến nay có rất nhiều tổ chức nghiên cứu, đào tạo và dịch vụ KH&CN
của các cá nhân và tổ chức xã hội ở nước ta thành lập theo tinh thần của
Nghị định 35/HĐBT ra đời. Chỉ tính riêng 2 năm đầu sau khi ban hành Nghị
định 35/HĐBT, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã thành lập gần 20
đơn vị hoạt động theo Nghị định này. Tuy nhiên, đến nay các đơn vị được
thành lập theo Nghị định 35/HĐBT (gọi tắt là các đơn vị 35) ở Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam được thành lập khá lâu, từ khi thành lập không
có sự thay đổi tổ chức và hoạt động mang tính đột phá do vậy chỉ đáp ứng
được yêu cầu tại thời điểm đó. Hoạt động quản lý các đơn vị 35 hiện nay là
vấn đề nan giải. Về hành chính các đơn vị 35 chịu sự quản lý trực tiếp của
các Viện nghiên cứu chuyên ngành nhưng trên thực tế lại thiếu sự gắn kết
giữa Viện nghiên cứu và các đơn vị 35, hầu hết các hoạt động của các đơn vị
35 đều do Giám đốc các đơn vị này chủ động liên hệ. Về cơ cấu tổ chức, các
đơn vị 35 trực thuộc các Viện nghiên cứu chuyên ngành, tuy nhiên thực tế do

8
thiếu sót trong sự phân công, phân cấp trách nhiệm và quyền hạn của mỗi
bên nên trong quá trình quản lý hoạt động cũng gặp nhiều bất cập.
Nhìn chung hiệu quả hoạt động của nhiều đơn vị chưa phát huy được
theo tinh thần khi thành lập theo Nghị định số 35 với mục tiêu thực hiện các
hoạt động KH&CN, áp dụng các thành tựu KH&CN mới vào sản xuất và đời
sống, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động; thu nhận được nguồn
nhân lực khoa học có chọn lọc và khai thác hợp lý cả về thời gian lẫn trí tuệ
của các nhà khoa học và công nghệ Kết quả cho thấy nhiều sản phẩm có
hàm lượng khoa học ít, có những đơn vị hoạt động không đúng quy định
theo Nghị định 35/HĐBT ngày 28/01/1992 và gây nhiều bất cập trong vấn đề

quản lý hành chính, hoạt động… Các đơn vị được thành lập hoạt động theo
Nghị định 35 cũng trải qua bao bước thăng trầm và cũng nhiều đơn vị đạt
được những thành tích đáng ghi nhận trong những giai đoạn lịch sử phát
triển đất nước, song với cơ chế mới, vận hội mới các đơn vị 35 phải chuyển
đổi sang mô hình tổ chức mới phù hợp, thủ trưởng các đơn vị 35 cần lựa
chọn loại hình tổ chức KH&CN phù hợp với năng lực của đơn vị mình nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Vấn đề về các tổ chức nghiên cứu và triển khai hoạt động theo hình
thức tự trang trải đã được nhiều công trình nghiên cứu thuộc đề tài cấp Bộ,
các luận văn thạc sĩ đề cập đến. Đã có những nghiên cứu, bài viết đưa ra các
mô hình chuyển đổi phù hợp với giai đoạn hiện nay như Đề tài cấp Bộ
KH&CN “Đánh giá mô hình chuyển đổi của các tổ chức nghiên cứu và phát
triển”, đề tài “Nghiên cứu sự hình thành và phát triển doanh nghiệp
KH&CN và sự chuyển đổi một số tổ chức nghiên cứu và phát triển ở Việt
Nam sang hoạt động theo cơ chế danh nghiệp” của TS. Bạch Tân Sinh –
Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ. Các công trình nói
trên là tài liệu tham khảo bổ ích cho tác giả khi viết luận văn này. Bên cạnh
đó, đã có những nghiên cứu về quản lý hoạt động của các tổ chức nghiên cứu

9
và triển khai thuộc Viện KH&CN Việt Nam; Đánh giá mô hình tổ chức hoạt
động theo mô hình Liên hiệp khoa học sản xuất; Sắp xếp lại tổ chức của
Viện KH&CN Việt Nam… tuy nhiên mới chỉ ở các Viện cơ sở, Phân viện và
các đơn vị do Chủ tịch Viện KH&CN Việt Nam thành lập như nâng cấp 1 số
Phân viện, Trung tâm nghiên cứu cơ sở thành Viện do Chủ tịch Viện quyết
định thành lập và Viện cơ sở lên Viện nghiên cứu cấp quốc gia qua các giai
đoạn phát triển và cơ cấu lại của Viện KH&CN Việt Nam. Đối với các đơn
vị 35 trực thuộc các Viện nghiên cứu và triển khai hiện nay vẫn còn có nhiều

vấn đề khó khăn và vướng mắc trong quá trình hoạt động phần nào gây cản
trở cho quá trình phát triển của khối các đơn vị này.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Làm rõ vai trò và hiệu quả hoạt động của các đơn vị 35 trong các Viện
nghiên cứu và triển khai thuộc Viện KH&CN Việt Nam
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá hoạt động của các đơn vị
được thành lập theo Nghị định 35/HĐBT trực thuộc các Viện nghiên cứu và
triển khai ở Viện KH&CN Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: các đơn vị 35 trực thuộc các Viện nghiên cứu
chuyên ngành, Viện KH&CN Việt Nam.
5. Khảo sát:
Vì điều kiện hạn chế, luận văn chỉ tiến hành khảo sát các đơn vị 35 tại
khu vực Hà Nội và các Viện nghiên cứu và triển khai thuộc Viện KH&CN
Việt Nam có các đơn vị 35 trực thuộc:
1. Viện Khoa học vật liệu
2. Viện Hóa học
3. Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên
4. Viện Công nghệ sinh học
5. Viện Cơ học
6. Viện Sinh học nhiệt đới

10
7. Viện Công nghệ môi trường
6. Câu hỏi nghiên cứu:
- Tình hình hoạt động của các đơn vị 35 hiện nay và những đơn vị này
có vai trò như thế nào trong các Viện nghiên cứu và triển khai ở Viện
KH&CN Việt Nam?
- Viện KH&CN Việt Nam cần phải làm gì để nâng cao vai trò và hiệu
quả hoạt động của các đơn vị này?

7. Giả thuyết nghiên cứu:
- Nhiều đơn vị 35 hiện nay chưa thực hiện được đúng vai trò của mình
trong việc triển khai các kết quả nghiên cứu và thực hiện các dịch vụ
KH&CN trong lĩnh vực của Viện nghiên cứu.
- Cần phải tổ chức, sắp xếp và chuyển đổi các đơn vị này để phù hợp
với tình hình hiện tại:
+ Đưa các đơn vị 35 vào cấu trúc Viện nghiên cứu, xác lập đúng
chức năng triển khai của các đơn vị này.
+ Thực hiện chuyển đổi thành doanh nghiệp KH&CN.
+ Giải thể các đơn vị hoạt động không hiệu quả và không đúng
với lĩnh vực hoạt động chung của Viện.
- Viện nghiên cứu và triển khai cần đẩy mạnh hướng nghiên cứu ứng
dụng nhằm tạo ra sản phẩm có thể thương mại hoá.
- Cần tăng cường tính tự chủ và hạ tầng cho đơn vị 35.
8. Phương pháp nghiên cứu:
8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Tài liệu là những vật lưu trữ thông tin nhất định, nó ở các dạng khác
nhau như các báo cáo, bản thống kê, … để tiến hành thu thập thông tin theo
đối tượng nghiên cứu của đề tài. Phương pháp nghiên cứu tài liệu là quá
trình nghiên cứu, tham khảo các tài liệu, trong đó chủ yếu là các văn bản
pháp quy, quyết định thành lập các đơn vị 35, báo cáo tình hình hoạt động…
nhằm nắm bắt những thông tin để hiểu rõ tình hình hoạt động hiện nay của
các đơn vị 35 của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, các thông tin thu

11
thập, kế thừa và sử dụng có chọn lọc. Phương pháp này giúp hệ thống lại cơ
sở lý luận, thu thập thông tin về tình hình hoạt động của đơn vị.
Bên cạnh đó Luận văn có tham khảo các tài liệu lưu trữ cụ thể là:
- Văn bản ban hành về việc thành lập, tổ chức hoạt động của các
đơn vị 35 thuộc Viện KH&CN Việt Nam.

- Báo cáo tình hình hoạt động của các đơn vị 35.
Tham khảo ý kiến của lãnh đạo, chuyên viên làm công tác tổ chức cán
bộ của các Viện nghiên cứu (có đơn vị 35) trực thuộc Viện KH&CN Việt
Nam, lãnh đạo Ban Tổ chức – Cán bộ, Ban Ứng dụng và Triển khai công
nghệ.
8.2. Phương pháp phỏng vấn:
Phỏng vấn được tiến hành theo một chủ đề định sẵn, kết quả phỏng
vấn là thông tin định tính, bao gồm: ý kiến đánh giá và những câu trả lời của
người được phỏng vấn.
Tiến hành phỏng vấn những người quản lý của Viện chủ quản (Trưởng
phòng, Phó trưởng Phòng Quản lý tổng hợp), người đứng đầu đơn vị 35 để
nắm bắt những thông tin về thực trạng hoạt động của các đơn vị 35 và những
phương hướng của đơn vị trong thời gian tới.
9. Kết cấu của Luận văn:
Luận văn có số lượng 85 trang, ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, kết luận và khuyến nghị, nội dung của luận văn được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của các đơn vị 35 ở Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của
các đơn vị 35.

12
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Để có được một cách hiểu thống nhất và chính xác làm tiền đề cho
việc phát triển đề tài luận văn, không thể không nghiên cứu một vấn đề hết
sức nền tảng, đó là các khái niệm có liên quan.
1.1. Một số khái niệm cơ bản:

1.1.1. Khái niệm khoa học:
Một trong những đặc điểm quan trọng của thời đại ngày nay là sự phát
triển như vũ bão của KH&CN, chỉ trong vòng một vài thập kỷ đã làm thay
đổi bộ mặt và trật tự thế giới. Nhiều nước và vùng lãnh thổ từ nghèo nàn, lạc
hậu đã trở thành giàu có chỉ trong vòng một vài chục năm mà con đường đi
lên của họ chủ yếu là dựa vào các thành tựu KH&CN, biết tận dụng các
thành quả của các nước đi trước.
Có thể nói, có rất nhiều khái niệm khoa học được đưa ra từ những
nguồn tư liệu khác nhau:
Từ điển Larousse (2002) của Pháp định nghĩa: “Khoa học là một tập
hợp tri thức đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm về các sự kiện, sự vật và
hiện tượng tuân theo một quy luật xác định”.
Từ điển Triết học của Liên Xô (bản tiếng Việt, 1975) định nghĩa:
“Khoa học là lĩnh vực hoạt động nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức
mới về tự nhiên, xã hội và tư duy bao gồm tất cả những điều kiện và những
yếu tố của sự sản xuất này”.
Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (1986) định nghĩa: “Khoa
học là lĩnh vực hoạt động của con người, có chức năng xử lý và hệ thống hóa
về mặt lý thuyết các tri thức khách quan”, “Là một trong những hình thái ý
thức xã hội, bao gồm trong đó cả những hoạt động nhằm thu nhận các kiến
thức mới, và cả những kết quả của các hoạt động đó”.

13
Từ điển MacMillan English Dictionary for Advanced Learners (2006)
định nghĩa: “Khoa học là một hoạt động nghiên cứu và kiến thức về thế giới
vật lý và hành vi của nó, dựa trên các thực nghiệm và các sự kiện được kiểm
chứng và được tổ chức thành hệ thống”. Tiếp theo định nghĩa này, trong từ
điển MacMillan tách ra hai từ mục: (1) Khoa học là một lĩnh vực nghiên cứu
(an area of study) sử dụng các phương pháp khoa học, và (2) Khoa học là
một chủ đề nghiên cứu (a subject), chẳng hạn, vật lý học, hóa học.

Từ điển Cobuild Learner’s Dictionary (2001) định nghĩa: “Khoa học
là một study về giới tự nhiên và hành vi của giới tự nhiên”, đồng thời cũng
đưa ra định nghĩa thứ hai: “Khoa học là những tri thức đạt được từ công việc
nghiên cứu”. Còn study thì được định nghĩa là một “activities of studying”,
nghĩa là một loại hoạt động.
Từ điển Hutchinson Dictionary of Ideas (1994) định nghĩa: Khoa học
là “any systematic field of study”, nghĩa là một lĩnh vực nghiên cứu có hệ
thống và “nhằm sản xuất ra (to produce) các tri thức”.
Từ điển Xã hội học của Nguyễn Khắc Viện (1994) định nghĩa: “Khoa
học là một thiết chế xã hội” (Nguyễn Khắc Viện gọi là thể chế xã hội). Định
nghĩa này dựa trên nghiên cứu của một nhà nghiên cứu lịch sử khoa học
người Mỹ, D.J. Price từ năm 1972.
Qua các từ điển được tra cứu, chúng ta thấy, về cơ bản có 4 định nghĩa
về khoa học dựa trên 4 cách tiếp cận sau:
- Khoa học là một hệ thống tri thức
- Khoa học là một hoạt động sản xuất tri thức
- Khoa học là một hình thái ý thức xã hội
- Khoa học là một thiết chế xã hội.

14
Cả 4 khái niệm này đều có chỗ đứng trong tư duy và hành động của
cộng đồng những người làm nghiên cứu và quản lý khoa học.
2

Theo Luật Khoa học và Công nghệ (2000), khoa học là hệ thống tri
thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Cùng với sự phát triển của khoa học, con người ngày càng hiểu biết
nhiều hơn, đầy đủ hơn, chính xác hơn về thế giới xung quanh, ngày càng
sáng tạo ra các phương tiện mới có khả năng giúp con người đi sâu vào thế
giới, tìm hiểu, khám phá, chinh phục và cải tạo nó vì lợi ích của con người.

Trong khuôn khổ luận văn, tác giả thống nhất định nghĩa theo cách
tiếp cận khoa học là một hoạt động sản xuất tri thức.
1.1.2. Khái niệm công nghệ:
Cũng như khái niệm khoa học, mỗi lĩnh vực đều đưa ra khái niệm
công nghệ riêng cùa mình. Có những khái niệm cho rằng bản chất của công
nghệ là “kiến thức”, tuy nhiên chúng được thể hiện dước các cách khác nhau
như dạng kiến thức, cách thức, tập hợp các kiến thức, nguồn lực bao gồm
kiến thức, sự áp dụng khoa học. Bên cạnh đó, ngoài phần “kiến thức” được
thể hiện qua dạng con người, thông tin còn nêu ra cả phần cứng như: thiết bị,
công cụ, tư liệu sản xuất, vật thể (thiết bị, máy móc). Cụ thể là theo OECD
(Organization for Economic Co-operation and Development) trong một khái
niệm chung nhất đã tập trung vào các hành động và quy tắc như sau: “công
nghệ được hiểu là một tập hợp các kỹ thuật, mà bản thân chúng được khái
niệm là một tập hợp các hành động và quy tắc lựa chọn chỉ dẫn việc ứng
dụng có trình tự các kỹ thuật đó mà theo hiểu biết của con người thì sẽ đạt
được một kết quả định trước (và đôi khi được kỳ vọng) trong hoàn cảnh cụ
thể nhất định”.
Tóm lại, công nghệ có thể được hiểu như mọi loại hình kiến thức,
thông tin, bí quyết, phương pháp (gọi là phần mềm) được lưu trữ dưới các
dạng khác nhau (con người, ghi chép…) và mọi loại hình thiết bị, công cụ, tư


2
Vũ Cao Đàm - Tạp chí Hoạt động Khoa học 8/2008

15
liệu sản xuất (gọi là phần cứng) và một số tiềm năng khác (tổ chức, pháp
chế, dịch vụ…) được áp dụng vào môi trường thực tế để tạo ra các loại sản
phẩm và dịch vụ.
3


Theo Luật Khoa học và Công nghệ (2000), công nghệ được hiểu một
cách khái quát là “tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết,
công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”.
Theo Luật Chuyển giao công nghệ (2006), công nghệ là “giải pháp,
quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện
dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả thống nhất định nghĩa công
nghệ theo Luật Khoa học và Công nghệ (2000).
1.1.3. Khái niệm hoạt động KH&CN:
Theo Luật Khoa học và Công nghệ (2000): “Hoạt động khoa học và
công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công
nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển khoa
học và công nghệ”.
Hoạt động KH&CN là khái niệm được UNESCO sử dụng để chỉ
những hoạt động xã hội được thực hiện bởi một bộ phận xã hội rộng lớn (các
nhà khoa học, các nhà công nghệ) có liên quan đến việc thực hiện công tác
nghiên cứu khoa học và CGCN, phát triển KH&CN.
1.1.3.a. Mục tiêu của hoạt động KH&CN:
Mục tiêu của hoạt động KH&CN là xây dựng nền KH&CN tiên tiến,
hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
xây dựng con người mới, góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế, xã


3
Tài liệu môn học Quản lý và đổi mới công nghệ


16
hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an
ninh.
1.1.3.b. Nhiệm vụ của hoạt động KH&CN:
Nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động KH&CN là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và vận dụng vào thực tế khoa học
về xã hội và nhân văn để xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định
đường lối, chính sách, pháp luật và phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
góp phần làm giàu kho tàng văn hoá khoa học của thế giới;
- Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ và sáng tạo
công nghệ;
- Tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ và thực hiện CGCN
tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao.
1.1.3.c. Nguyên tắc hoạt động KH&CN:
- Hoạt động KH&CN phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh;
- Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về KH&CN của đất nước,
tiếp thu có chọn lọc các thành tựu KH&CN của thế giới phù hợp với thực
tiễn của đất nước;
- Kết hợp chặt chẽ khoa học tự nhiên, KHKT và công nghệ với khoa
học xã hội và nhân văn, gắn khoa học với công nghệ và công nghệ với giáo
dục và đào tạo;
- Phát huy khả năng lao động và sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân;
- Trung thực, khách quan đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự do sáng tạo,
dân chủ, tự chủ.






17
















1.1.4. Sản xuất thử nghiệm: là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực
nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản
phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống.
4

1.1.5. Dịch vụ khoa học và công nghệ: là các hoạt động phục vụ việc
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở
hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo,
bồi dỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm
thực tiễn.
5

1.1.6. Tổ chức KH&CN:

Tổ chức KH&CN là tổ chức được thành lập theo quy định của Luật
KH&CN và pháp luật có liên quan để tiến hành hoạt động KH&CN.


4
Luật Khoa học và Công nghệ;
5
Luật Khoa học và Công nghệ
Hoạt động KH&CN
Nghiên cứu KH
(R&D)
Chuyển giao CN
Dịch vụ KH&CN
NC cơ bản
Triển khai CN
NC ứng dụng
NCCB
thuần tuý
NCCB định
hướng
NC nền tảng
(ĐTCB)
NC chuyên đề
Hình 1.1: Hoạt động KH&CN – cơ sở để phân loại tổ chức KH&CN

18
Theo giáo trình môn học Tổ chức KH&CN: có nhiều kiểu phân loại tổ
chức KH&CN khác nhau tuỳ theo tiêu chí, mục tiêu đã định. Thông thường
có một số phân loại sau:
1.1.6a. Phân loại theo lĩnh vực KH&CN, có thể chia thành các loại

sau:
- Khoa học tự nhiên;
- Khoa học kỹ thuật (công nghệ);
- Khoa học xã hội và nhân văn;
- Khoa học nông nghiệp;
- Khoa học y dược học.
1.1.6b. Phân loại theo các hoạt động KH&CN, có 3 hoạt động
KH&CN chính là nghiên cứu triển khai, CGCN và dịch vụ KH&CN tương
ứng với 3 loại hình hoạt động là các loại hình tổ chức KH&CN (Hình 1.1).
1.1.6c. Phân loại theo chủ sở hữu:
- Tổ chức KH&CN thuộc khu vực nhà nước;
- Tổ chức KH&CN thuộc khu vực tư nhân;
- Tổ chức KH&CN thuộc khu vực tập thể;
- Tổ chức KH&CN thuộc khu vực đa quốc gia.
1.1.6d. Phân loại theo Luật KH&CN của Việt Nam:
- Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu KH và PT
- Trường đại học, học viện, trường cao đẳng;
- Các tổ chức dịch vụ KH&CN.
1.1.7. Đơn vị 35:
Đơn vị 35 là những tổ chức KH&CN được thành lập theo Nghị định
số 35/HĐBT ngày 28/01/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về công tác quản lý
KH&CN.

19
Tên gọi tắt “đơn vị 35” không phản ánh hết được Nghị định 35, vì
ngoài việc các tổ chức, cá nhân được quyền thực hiện các hoạt động
KH&CN Nghị định còn đề cập đến nhiều vấn đề khác trong công tác quản lý
KH&CN. Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ đề cập đến hoạt
động của các tổ chức KH&CN được thành lập theo Nghị định 35 do đó tác
giả dùng tên gọi “đơn vị 35” để trình bày các vấn đề trong luận văn của

mình.
1.1.8. Doanh nghiệp KH&CN:
Doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp do tổ chức, cá nhân Việt
Nam; tổ chức cá nhân nước ngoài có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp
các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thành lập, tổ chức
quản lý và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Khoa
học và Công nghệ.
6

1.2. Nghiên cứu khoa học và quản lý nghiên cứu khoa học trong cơ chế
kinh tế thị trường:
1.2.1. Khái niệm nghiên cứu khoa học:
Nghiên cứu khoa học vẫn được dùng để chỉ các hoạt động nhằm
nghiên cứu tìm tòi bản chất, đặc điểm, diễn biến, quy luật, tác động của các
đối tượng, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy. Những thời kỳ
đầu, NCKH được chú trọng nhiều về các yêu cầu nghiên cứu cơ bản. Theo
quá trình phát triển của xã hội, đòi hỏi của thực tế đối với khoa học không
ngừng tăng lên, do đó yêu cầu nghiên cứu ứng dụng trong NCKH ngày càng
được tăng cường. Thời gian gần đây, với hàm ý nhấn mạnh vai trò của sáng
tạo công nghệ đối với phát triển kinh tế - xã hội, một khái niệm khác được
dùng là “nghiên cứu và triển khai” (viết tắt tiếng Anh là R&D) để chỉ các
hoạt động nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai trong mọi lĩnh vực
khoa học. [9; 111]


6
Nghị định 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ

20
Mục đích của NCKH nhằm làm rõ bản chất, xu hướng diễn biến, yêu

cầu phát triển của các vấn đề KH&CN, khả năng và điều kiện áp dụng vào
thực tế để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống.
1.2.2. Quan hệ nghiên cứu KH&CN và sản xuất:
Hiện nay, khi một sản phẩm mới xuất hiện bao giờ cũng gắn với và
dựa vào các nghiên cứu và triển khai KH&CN. Khoa học luận là ngành khoa
học về các mối quan hệ và quy luật vận động và phát triển của KH&CN, về
vai trò của KH&CN trong lực lượng sản xuất xã hội đã khái quát mô hình
quan hệ giữa nghiên cứu KH&CN với sản xuất như hình sau:





Tuy nhiên, mô hình quan hệ nêu trên có hai điều cần lưu ý:
1) Mối quan hệ này không phải là theo tuần tự, lần lượt nối tiếp nhau
mà có thể từ bất cứ khâu nào, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh của mỗi
quốc gia.
2) Trong giai đoạn các nền kinh tế trên thế giới hướng mạnh vào sử
dụng tri thức phục vụ cho phát triển thì có nhiều nhà khoa học cho rằng ý
tưởng cần được tách riêng ra để trở thành một mắt xích quan trọng cần được
chú ý với hàm nghĩa rằng trong nền kinh tế dựa vào tri thức, ý tưởng là khởi
nguồn cho không chỉ nghiên cứu cơ bản, mà còn cho cả những khâu khác
trong chuỗi các mắt xích quan hệ này. [9;214]
1.2.3. Quản lý nghiên cứu khoa học trong cơ chế kinh tế thị trường:
Kể từ năm 1976 nước ta bắt đầu thí điểm tổ chức NCKH có hệ thống
theo một số Chương trình mục tiêu. Cũng từ đó bắt đầu nghiên cứu xây dựng
các quy chế quản lý hoạt động NCKH. Ngày 26/7/1981 Hội đồng Chính phủ

Nghiên
cứu cơ

bản

Nghiên
cứu
ứng
dụng

Nghiên cứu
triển khai,
thiết kế,
luận chứng

Sản
xuất
tiếp thị
Phát triển
công
nghiệp, xây
dựng, nông
nghiệp
Hình 1.2: Quan hệ nghiên cứu KH&CN và sản xuất

21
đã ban hành Nghị định số 263/CP vê chế độ kế hoạch hóa khoa học và kỹ
thuật. Đây là văn bản quản lý pháp quy đầu tiên của Nhà nước ta về các hoạt
động KH&CN. Đồng thời, các cơ quan chức năng đã xây dựng một loạt các
văn bản hướng dẫn thực hiện trong mọi khâu tổ chức, quản lý các hoạt động
KH&CN. Từ đó cho đến những năm đầu giai đoạn 1991 – 1995, các quy chế
quản lý KH&CN đã được áp dụng thực hiện thống nhất trong phạm vi cả
nước, với các nhiệm vụ KH&CN ở tất cả các cấp: cấp nhà nước, cấp bộ

ngành, cấp tỉnh, cấp cơ sở.
Đặc trưng của cơ chế quản lý KH&CN theo Nghị định 263/CP là mọi
nhiệm vụ hoạt động KH&CN đều được quyết định theo chỉ tiêu kế hoạch của
nhà nước và chỉ giao cho các cơ quan khoa học của nhà nước thực hiện. Nơi
nào được giao nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch thì nơi đó có hoạt động NCKH và
có kinh phí cho hoạt động. Những nơi không được giao chỉ tiêu kế hoạch thì
không có điều kiện tham gia NCKH, không có kinh phí NCKH.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội VI, Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Quyết định 134-HĐBT ngày 31/8/1987 về một số biện pháp khuyến khích
công tác khoa học và kỹ thuật, tăng cường quyền tự chủ của các cơ quan
nghiên cứu – phát triển cũng như các tập thể và cá nhân trong hoạt động
khoa học và kỹ thuật. Quyết định khẳng định:
1) Khoa học được quyền thực hiện các quan hệ kinh tế với mọi thành
phân kinh tế.
2) Các nhà khoa học được quyền thực hiện các quan hệ kinh tế dưới
mọi hình thức: tổ chức có tư cách pháp nhân, hiệp hội, tập thể tự nguyện và
cá nhân.
3) Khoa học được quyền phân chia lợi ích với sản xuất. [6; 44]
Bước sang giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, các yêu cầu và điều kiện hoạt động KH&CN đã thay đổi lớn. Môi
trường cho hoạt động KH&CN không còn bó hẹp trong khối các cơ sở thuộc
nhà nước và cũng không thể chỉ do nhà nước đầu tư kinh phí cho các hoạt

22
động KH&CN. Yêu cầu nhiệm vụ NCKH không còn chỉ do từ trên dội
xuống mà ngày càng nhiều do nhu cầu từ chính các cơ sở đặt ra, đặc biệt là
các doanh nghiệp. Bối cảnh đòi hỏi cơ chế quản lý các hoạt động KH&CN
trong đó có hoạt động NCKH phải được đổi mới. Ngày 21/7/1995 Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 419/TTg về cơ chế quản lý các hoạt động
NCKH&PTCN. Những yêu cầu của cơ chế quản lý mới là:

1) Gắn hoạt động NCKH với thực tiễn KH-XH, mỗi nhiệm vụ NCKH
đều phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của sản xuất và đời sống, có địa chỉ
ứng dụng cụ thể. Chú trọng bảo đảm hiệu quả KT-XH của hoạt động NCKH.
2) Bảo đảm tăng cường chủ động của các ngành, các địa phương trong
quyết định các nhiệm vụ NCKH phục vụ sát thực và có hiệu quả các mục
tiêu phát triển của ngành và địa phương, đồng thời bảo đảm sự thống nhất
trong chủ trương phát triển KH&CN và hoạt động NCKH chung của đất
nước.
3) Tạo khả năng cho mọi thành phần kinh tế tham gia rộng rãi thực
hiện các hoạt động KH&CN. Xuất phát từ nhu cầu đổi mới công nghệ và tổ
chức quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh
doanh, từng cơ sở sản xuất sẽ tự xác định mục tiêu yêu cầu cho nhiệm vụ
NCKH cần tiến hành và chủ động đặt hàng cho các tổ chức KH&CN thực
hiện.
4) Đầu tư cho phát triển KH&CN là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành
và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Tạo nhiều nguồn kinh phí
đầu tư cho NCKH. Ngoài phần kinh phí quan trọng từ nguồn ngân sách nhà
nước dành cho sự nghiệp KH&CN, với các công trình lớn được đầu tư kinh
phí từ ngân sách nhà nước cũng phải tính trong dự toán tổng kinh phí một
phần kinh phí cho hoạt động NCKH phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng và
vận hành công trình; với các chương trình KT-XH được nhận kinh phí từ
ngân sách nhà nước cũng phải tính trong dự toán tổng kinh phí một phần
kinh phí cho hoạt động NCKH phục vụ trực tiếp cho thực hiện các mục tiêu

23
tổng quát của chương trình; các doanh nghiệp trích quỹ phát triển của mình
để đầu tư thực hiện các nhiệm vụ NCKH phục vụ trực tiếp cho yêu cầu hoạt
động và phát triển của doanh nghiệp, đồng thời tranh thủ các nguồn kinh phí
khác có thể.
5) Thực hiện công tác quản lý hoạt động NCKH theo quy chế thống

nhất của nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn.
Đề án đổi mới cơ chế quản lý KH&CN được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt ngày 28/9/2004 bởi Quyết định số 171/2004/QĐ-TTg nêu 5 quan
điểm đổi mới cơ chế sau đây:
1) Chuyển mạnh quản lý KH&CN từ cơ chế hành chính, bao cấp sang
cơ chế thị trường; tách biệt quản lý giữa khu vực hành chính và khu vực sự
nghiệp trong hệ thống KH&CN.
2) Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo môi trường bình đẳng cho mọi tổ chức,
cá nhân hoạt động KH&CN.
3) Găn kết chặt chẽ sản xuất, kinh doanh với nghiên cứu, đào tạo;
doanh nghiệp đóng vai trò là trung tâm ứng dụng và đổi mới công nghệ.
4) Phát huy dân chủ, nâng cao tính sáng tạo trong NCKH, đặc biệt là
trong khoa học xã hội và nhân văn.
5) Đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế hoạt động KH&CN, tiếp thu có
chọn lọc tri thức khoa học, chuyển giao công nghệ, thu hút nguồn lực bên
ngoài phục vụ phát triển KH&CN.
Theo đó, đã có quyết định đổi mới quan trọng là: thực hiện cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức KH&CN của nhà nước hoạt
động nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và chính sách, nghiên cứu
các lĩnh vực KH&CN trọng điểm và một số lĩnh vực khác do nhà nước quy
định; chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang
hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp; đẩy mạnh việc hình thành và phát triển
doanh nghiệp khoa học và công nghệ cao. [9; 122]

24
1.3. Văn bản và tài liệu liên quan:
- Quyết định số 175/CP ngày 29/4/1981 của Chính phủ về việc ký kết
và thực hiện hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ
thuật.
- Quyết định số 134-HĐBT ngày 31/8/1987 của Hội đồng Bộ trưởng

về biện pháp khuyến khích công tác KHKT.
- Nghị định 268-CT ngày 30/7/1990 của Hội đồng Bộ trưởng
- Nghị định số 35-HĐBT ngày 28/01/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về
công tác quản lý khoa học và công nghệ.
- Quyết định số 324-CT ngày 11/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng về việc tổ chức lại mạng lưới các cơ quan nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ.
- Quyết định số 171/2004/QĐ-TTg ngày 28/9/2004 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học.
- Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy
định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công
nghệ công lập.
- Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 của Chính phủ về
doanh nghiệp khoa học và công nghệ.


25
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐƠN VỊ 35
Ở VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về đơn vị 35 ở Viện KH&CN Việt Nam:
2.1.1. Khái quát về Viện KH&CN Việt Nam:
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III Đảng ta đã khẳng định vai
trò then chốt của cách mạng KHKT và đặc biệt quan tâm đến sự phát triển
KHKT. Ngay sau Đại hội, Chính phủ đã chủ trương thành lập một Trung
tâm nghiên cứu khoa học của cả nước và đã quyết định xây dựng Viện
Khoa học tự nhiên. Ngay trong thời gian chống Mỹ, dù gặp rất nhiều khó
khăn, Đảng và Chính phủ vẫn chăm lo xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo
cán bộ để phát triển khoa học ở nước ta. Một số cơ sở nghiên cứu được
tiến hành thành lập trong thời gian này như: Viện Toán học, Viện Vật lý,
Viện nghiên cứu Biển. Đến năm 1970 các Viện và nhiều đơn vị nghiên

cứu khác được tập hợp lại thành Trung tâm nghiên cứu khoa học thuộc Uỷ
ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Ngày 20 tháng 5 năm 1975, Hội
đồng Chính phủ ban hành Nghị định 118/CP thành lập Viện Khoa học
Việt Nam trên cơ sở Trung tâm này. Hoạt động nghiên cứu và các cơ sở
nghiên cứu của Viện Khoa học Việt Nam về căn bản được tổ chức theo
mô hình Viện hàn lâm. Cơ cấu các ngành khoa học hoàn toàn tương ứng
với cơ cấu các ngành, các Ban Khoa học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
Liên Xô và một số nước Đông Âu lúc bấy giờ.
Hình 2.1: Mô hình tổ chức của Viện KHVN theo Nghị định 118/CP






Viện trưởng
Hội đồng
Khoa học
Các Viện,
Trung tâm NC
Các Phân viện
Các Phòng
NC trực thuộc
Các Vụ quản lý
và Văn phòng

26
Từ khi thành lập, Viện Khoa học Việt Nam gồm có:
- Viện Toán học
- Viện Vật lý học

- Viện Nghiên cứu biển
- Viện Sinh vật học
- Viện các khoa học về trái đất
- Văn phòng
- Các phòng nghiên cứu trực thuộc, các đơn vị sản xuất, sự
nghiệp hành chính thuộc diện quản lý của Viện.
Trước mắt Viện hoạt động tập trung vào các hướng:
- Phục vụ công tác điều tra, đánh giá, khai thác và sử dụng hợp lý
các tài nguyên và điều kiện tự nhiên của đất nước;
- Nghiên cứu áp dụng những tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản
xuất, quản lý kinh tế và củng cố quốc phòng;
- Chuẩn bị điều kiện cho sự phát triển những lĩnh vực khoa học
và kỹ thuật mới và cần thiết của đất nước trong tương lai.
Nghị quyết 32 NQ/WT của Bộ Chính trị (1980) về công tác tổ chức
đã nêu rõ: “Sớm thành lập Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam trên cơ sở
thống nhất và tổ chức lại Viện KHVN và Uỷ ban Khoa học xã hội Việt
nam”. Việc thành lập Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam được xúc tiến
khẩn trương hơn nữa từ sau Nghị quyết 37 NQ/WT của Bộ Chính trị
(1981) về chính sách khoa học và kỹ thuật. Đây là thời kỳ hết sức khó
khăn của đất nước (cuộc chiến tranh biên giới, nền kinh tế lâm vào khủng
hoảng ) nhưng Đảng và Nhà nước vẫn chủ trương phát triển khoa học và
kỹ thuật. Nhờ đó, tiềm lực của Viện vẫn được phát triển với tốc độ nhanh.
Từ 1980 đến 1985, số cán bộ được cử đi nghiên cứu ở nước ngoài không
ngừng gia tăng, nhiều cán bộ đầu ngành được đào tạo và trưởng thành tạo

×