Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo nghề ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh, Nghệ An hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




LÊ THỊ NGỌC HÀ



NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
QUA ĐÀO TẠO NGHỀ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM KỸ THUẬT VINH, NGHỆ AN HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC











HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



LÊ THỊ NGỌC HÀ



NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
QUA ĐÀO TẠO NGHỀ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM KỸ THUẬT VINH, NGHỆ AN HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85




Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYỄN AN NINH






HÀ NỘI - 2009


 1

 8
1.1. Chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 8
1.1.1. Mấy vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực 8
1.1.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 15
1.2. Vai trò của đào tạo nghề đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực . 23
1.2.1. Về đào tạo nghề 23
1.2.2. Vai trò của đào tạo nghề trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 27

  33
2.1. Thực trạng cơ sở đào tạo nghề ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh,
Nghệ An hiện nay 33
2.1.1. Vài nét về Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh 33
2.1.2. Thực trạng cơ sở đào tạo nghề ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh 36
2.2. Thực trạng việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo nghề ở
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh, Nghệ An hiện nay 45
2.2.1. Thực trạng đào tạo nghề ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh hiện
nay 45
2.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua phát triển đào tạo nghề ở
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh hiện nay 50


 56
3.1. Phương hướng 56
31.1. Phát triển giáo dục toàn diện 56

3.1.2. Phát triển theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá 58
3.1.3. Phát triển đào tạo nghề theo hướng đa ngành 59
3.2. Những giải pháp cơ bản 59
3.2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên 59
3.2.2. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị 61
3.2.3. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo 63
3.2.4. Tăng thời lượng rèn luyện kỹ năng thực hành nghề 65
3.2.5. Mở rộng đào tạo liên thông và liên kết với các doanh nghiệp 66
3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về lĩnh vực dạy nghề 68
 70
 75
 80




CĐSPKT: Cao đẳng sư phạm kỹ thuật
CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
ĐHSPKT: Đại học sư phạm kỹ thuật
HSSV: Học sinh sinh viên
KH & CN: Khoa học và công nghệ
KHKT - CN: Khoa học kỹ thuật - công nghệ
KT - XH: Kinh tế - xã hội
UBND: Uỷ ban nhân dân
WTO: Tổ chức thương mại thế giới



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống các nguồn lực có thể khai thác thì nguồn lực con người
là nhân tố cơ bản và có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự phát triển của một
quốc gia dân tộc. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một
trong những vấn đề chiến lược trọng tâm của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế
giới hiện nay. Đối với Việt Nam, vấn đề này càng có ý nghĩa chiến lược quan
trọng khi chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm mục tiêu
“sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và vươn lên trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [12, tr.10].
Sự nghiệp CNH, HĐH của chúng ta được tiến hành trong bối cảnh toàn
cầu hoá diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Quá trình toàn cầu hoá đang tạo ra
những thời cơ hết sức to lớn để chúng ta có thể tạo ra bước phát triển đột phá
nhưng cũng là thách thức lớn khi Việt Nam vẫn ở trong tình trạng kém phát
triển. Chiến lược phát triển con người vẫn là nội dung cơ bản nhất để tận dụng
được thời cơ và vượt qua thách thức.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay là tất yếu trước
những yêu cầu thực tiễn. Toàn cầu hóa kinh tế đang tạo ra những tiêu chuẩn
chung và ngày càng cao đối với nguồn nhân lực toàn cầu trong quá trình
hướng tới kinh tế tri thức. Cuộc cách mạng KH & CN hiện đại cũng đang
hàng ngày hàng giờ tạo ra cơ sở kinh tế - kỹ thuật cho sự phát triển của giai
cấp công nhân. Nâng cao chất lượng lao động, phát triển số lượng lao động
được đào tạo là trọng trách mà đất nước trao cho hệ thống đào tạo nghề. Hiện
nay, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề của nước ta mới đạt khoảng 25%, phần
lớn trong số đó lại chưa đủ trình độ để đáp ứng yêu cầu mới của CNH, HĐH.
Chỉ có quan tâm đúng mức tới việc đào tạo nghề chúng ta có cơ sở để thực
hiện thành công CNH, HĐH gắn với hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện mục

2
tiêu xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong số các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện
nay thì đào tạo nghề là yếu tố quyết định.
Trước năm 1986, công tác dạy nghề chủ yếu đươc tiến hành trong các
trường dạy nghề chính quy. Sau năm 1986, khi nền kinh tế nước ta chuyển
sang cơ chế thị trường, với sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế, thị
trường lao động từng bước được hình thành. Đứng trước yêu cầu về nghề
nghiệp và việc làm của xã hội, yêu cầu của người lao động, dạy nghề đã có
những bước thay đổi để thích nghi đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Một trong những thay đổi đó là sự đa dạng hóa các loại hình đào tạo, với sự
phát triển của nhiều loại hình cơ sở dạy nghề. Năm 2001, mới có 150 trung
tâm dạy nghề, đến năm 2005 cả nước có 404 trung tâm dạy nghề. Đến tháng
4/2007, đã có 599 trung tâm dạy nghề. Đến nay, số lượng trung tâm dạy nghề
đã phát triển tương đối đồng đều tại tất cả các vùng trong cả nước. Dự kiến
đến năm 2010, cả nước sẽ có khoảng 700 trung tâm dạy nghề.
Hệ thống đào tạo nghề của nước ta hiện nay tuy khá đồ sộ về quy mô và
loại hình (với hơn 200 trường dạy nghề cùng gần 600 trung tâm ở khắp 63
tỉnh thành) nhưng cũng khá tản mạn về quy chuẩn, nguồn lực và mục tiêu đào
tạo; cơ quan quản lí và tham gia quản lý còn đa dạng: Tổng cục dạy nghề, Bộ
Giáo dục & Đào tạo và nhiều ban ngành khác. Chính sách cũng nhiều tầng
nấc, thể chế Mặt khác, trước nhu cầu thực tiễn: tăng nhanh số lượng lao
động và chất lượng tay nghề của người lao động cho CNH, HĐH hệ thống
dạy nghề nước ta đã bộc lộ khá nhiều bất cập.
Trạng thái trên làm cho hệ thống đào tạo nghề của nước ta chưa phát huy
hết được công suất của nó và đối với thực tiễn CNH, HĐH, cũng chưa làm
tròn trọng trách mà xã hội trao cho. Trường ĐHSPKT Vinh cũng không nằm
ngoài tình trạng trên.

3
Trường ĐHSPKT Vinh tiền thân là Trường Công nhân kỹ thuật Vinh

được thành lập năm 1960. Từ một trường đào tạo công nhân đến nay đã trở
thành một trung tâm đào tạo giáo viên và cán bộ kỹ thuật cho cả khu vực Bắc
miền Trung, sự trưởng thành đó cũng là phù hợp với nhu cầu mới về tạo
nguồn nhân lực cho CNH, HĐH. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo lực lượng lao
động trình độ cao phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH nhà trường đã không
ngừng phát triển trên nhiều mặt. Tuy nhiên, để làm tròn nhiệm vụ này trong
thời gian tới nhà trường cần có thêm nhiều nỗ lực mà trọng điểm là phát triển
công tác đào tạo nghề.
Nghiên cứu về hệ thống đào tạo nghề nước ta nói chung cũng mới chỉ
tập trung nhiều hơn ở khía cạnh thống kê, xã hội học, kinh tế phát triển
Thực tế cần có một nghiên cứu sâu hơn vấn đề này từ góc độ chính trị - xã
hội. Vấn đề này lại càng cần thiết với ĐHSPKT Vinh vì đây là một trường
đào tạo nghề của cả khu vực miền Trung nói riêng và cho đất nước trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực qua đào tạo nghề ở trường Đại học sư phạm kỹ thuật Vinh, Nghệ An
hiện nay” làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay thì vấn đề nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực là vấn đề luôn thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu
của nhiều nhà lý luận. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thực trạng
nguồn nhân lực nước ta, có thể nêu ra đây một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu như:
- Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX - 05 (11/2003), Để
có nguồn lực con người đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thế kỷ
XXI, Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI - Kỷ
yếu hội thảo quốc tế, Hà Nội.

4
- Chương trình KX - 07 mà sản phẩm tổng hợp của nó đã được công bố

trong cuốn sách “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hóa” do GS.VS. Phạm Minh Hạc làm chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996).
- Nguyễn Minh Đường, Vấn đề bồi dưỡng và đào tạo lại các loại hình lao
động nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội trong
điều kiện mới, Báo cáo tại Hội nghị khoa học quốc tế “Nghiên cứu con người
giáo dục phát triển và thế kỷ XXI”, Hà Nội 29 - 7 - 2004.
- Nguyễn Thị Như Hà: “Lao động, việc làm ở nước ta: Thực trạng và
những vấn đề đặt ra”, Tạp chí phát triển kinh tế, tháng 7/2006.
- Nguyễn Duy Quý: “Phát triển con người tạo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản, số 19 -
1998.v.v
Bên cạnh đó, nhiều công trình luận văn Tiến sỹ, luận văn thạc sỹ cũng
quan tâm đề cập nhiều tới vấn đề nhân lực, các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ở nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay như:
- Phan Thanh Tâm: Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, Luận án
tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2000.
- Trần Thị Thuỷ: Nhân tố con người và những biện pháp phát huy nhân
tố con người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học, Hà Nội, 2000.
- Cao Thị Hà: Vấn đề nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hóa đất nước, Luận văn thạc sĩ triết học, 1999.

5
- Nguyễn Thị Hồng Vân: Xu hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa, Luận văn thạc sĩ
triết học, 1998.
- Lương Ngọc Bình: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua phát triển

giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ triết học, 2003.
Những công trình trên đã nghiên cứu, khảo sát để nghiên cứu về thực trạng
nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và đưa ra những giải pháp nhằm mục đích sử dụng và phát huy có hiệu quả
nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Một số công trình khoa học khác cũng đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm phát triển trường ĐHSPKT Vinh trong thời kỳ hiện nay được tập trung
trong kỷ yếu hội thảo khoa học “Định hướng phát triển trường ĐHSPKT Vinh
giai đoạn 2007 - 2015”.
Những công trình trên đã tiếp cận, nghiên cứu vấn đề nguồn lực và chất
lượng nguồn nhân lực dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay thì vấn đề này cần được tiếp tục
nghiên cứu để có thể đưa những giải pháp phù hợp nhằm khai thác và phát huy
có hiệu quả nhất nguồn lực quan trọng và có ý nghĩa quyết định này. Trong
phạm vi đề tài này nó sẽ được nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Khẳng định vai trò của đào tạo nghề với việc phát triển nguồn nhân lực,
đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH Việt Nam hiện nay thông
qua khảo sát thực tiễn của trường ĐHSPKT Vinh.
* Nhiệm vụ:

6
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về chất lượng nguồn nhân lực và
vai trò của đào tạo nghề trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Nêu lên thực trạng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua phát triển

đào tạo nghề của trường ĐHSPKT Vinh hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực qua phát triển đào tạo nghề ở trường ĐHSPKT Vinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng hoạt động đào tạo nghề
ở ĐHSPKT Vinh với mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
* Phạm vi nghiên cứu:
Từ góc độ chính trị - xã hội, luận văn nghiên cứu quá trình nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực qua đào tạo nghề ở ĐHSPKT Vinh từ 1999 đến nay.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu:
Luận văn sử dụng các tài liệu có liên quan với đối tượng và phạm vi
nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng phương pháp luận chung nhất của CNDVBC và
CNDVLS của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng ta về con người và nguồn lực con người.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù là kết hợp lịch sử -
lôgic, phương pháp tổng kết lý luận từ thực tiễn.

7
- Ngoài ra, luận văn kết hợp sử dụng một số phương pháp liên ngành
như: Phân tích- tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hóa, so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận đang đặt ra ở nước ta hiện nay là
vấn đề là vấn đề đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
- Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo nghề ở trường ĐHSPKT Vinh hiện nay.

- Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà
hoach định chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết:
Chương 1. Chất lượng nguồn nhân lực và vai trò của đào tạo nghề trong
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Chương 2. Thực trạng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo
nghề ở trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh, Nghệ An hiện nay.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực qua phát triển đào tạo nghề ở trường ĐHSPKT Vinh, Nghệ
An hiện nay.






8
Chương 1
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ ĐÀO TẠO NGHỀ
TRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC

1.1. Chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực
1.1.1. Mấy vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân
lực
1.1.1.1. Nguồn nhân lực
Sự phát triển kinh tế - xã hội ở bất cứ quốc gia nào trong giai đoạn hiện
nay đều cần phải và có thể khai thác một hệ thống các nguồn lực như nguồn

lực con người, nguồn lực khoa học công nghệ, nguồn tài nguyên thiên nhiên,
vị trí địa lí và cả nguồn lực ngoài nước. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta chỉ ra
rằng, trong quá trình CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay
chỉ có thể thành công khi chúng ta biết khai thức tổng hợp các nguồn lực ấy.
Trong hệ thống các nguồn lực có thể khai thác đó thì nguồn lực con
người là yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một
quốc gia, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác và phát huy đầy đủ
có hiệu quả thông qua tác động của nguồn lực con người. Dù rằng, điều kiện
tự nhiên, khí hậu, địa lý, nguồn vốn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của
một quốc gia song đó cũng chỉ là những yếu tố dưới dạng tiềm năng, chúng
vẫn chỉ là những khách thể bất động cần đến vai trò của nhân tố con người,
chúng chỉ thực sự phát huy được tác dụng của mình khi được kết hợp với
nguồn lực con người. Nguồn lực con người là nguồn lực vô tận
Nguồn lực con người có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Ngân
hàng thế giới định nghĩa: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí
lực, kỹ năng, nghề nghiệp, v.v ) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động
được trong quá trình sản xuất kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó.

9
Theo GS. Phạm Minh Hạc thì nguồn lực con người là được hiểu là dân số và
chất lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ,
năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc” [21, tr.328].
Nói tới nguồn lực con người là nói tới những gì cấu thành khả năng,
năng lực, sức mạnh sáng tạo của nhân tố con người, là nói tới con người với
tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi
xã hội. Trong cấu trúc nguồn lực con người có sự kết hợp giữa thể lực, trí lực
và nhân cách nói chung đảm bảo cho khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả
hoạt động và triển vọng phát triển của con người.
Khi nói đến đặc điểm của nguồn nhân lực, người ta còn bàn đến trình độ,
cơ cấu, sự đáp ứng với yêu cầu của thị trường lao động. Đây là những yếu tố

rất quan trọng khi hiện thực hoá nguồn nhân lực. Yêu cầu của thị trường sức
lao động hiện nay được coi như thước đo thực tiễn quan trọng nhất với đại bộ
phận lao động nước ta. Được thị trường sức lao động chấp nhận (có việc làm)
cũng là tiền đề để từ đó thực hiện một nguyên tắc phân phối cơ bản là phân
phối theo lao động. Song muốn đạt được điều này thì chất lượng của “hàng
hoá sức lao động” phải đạt những quy chuẩn (trình độ văn hoá, tay nghề…)
tức là những cái chỉ có thể có được thông qua đào tạo.
Xét theo dạng thức tồn tại, nguồn lực này có hai dạng cơ bản là tiềm
năng và nguồn lực hiện hữu. Dạng thức tiềm năng phản ánh trạng thái chưa
triển khai, sẽ đạt tới hoặc đang vận động - phát triển, chẳng hạn hàng năm
nước ta có tiềm năng khoảng 1,6 - 1,7 triệu nhu cầu việc làm. Tiềm năng ấy
sẽ chuyển thành nguồn lưc con người khi được đào tạo và bố trí đủ việc làm.
Nhìn chung, cả hai dạng thức này có chuyển hoá từ tiềm năng sang nguồn lực
hoặc có thực sự trở thành nguồn lưc đầy đủ phẩm chất, quy mô được hay
không đều quan hệ mật thiết tới khâu đào tạo và sử dụng.
Hiểu theo nghĩa chung nhất nguồn lực con người là tổng hợp toàn bộ các
yếu tố, quá trình (vật chất và tinh thần) đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức

10
mạnh thúc đẩy quá trình phát triển. Khái niệm nguồn lực con người ở đây
được nói đến với tư cách là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần,
đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, kỹ năng lao động, tay nghề, v.v. tạo nên
năng lực của con người, của cộng đồng người có thể huy động, sử dụng và
phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong
những hoạt động xã hội. Những yếu tố đó lại là sản phẩm của một quá trình
xã hội đặc thù: giáo dục và đào tạo.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin
việc xem xét nguồn lực con người phải được hình thành từ hai phương diện
chủ yếu: cá nhân và xã hội.
Phương diện cá thể của con người và nguồn lực con người được xem xét

trong tính hiện thực và cụ thể của nó, trong những điều kiện kinh tế - xã hội
xác định. Điều đó có nghĩa là xem xét con người với tư cách là những cá
nhân, cá thể sinh động, đồng thời cũng khảo sát nhân tố con người như những
tập thể cộng đồng người. Thực ra, phương diện này cũng là kết quả của nhiều
quá trình xã hội, bởi như tư tưởng của C.Mác, rằng “con người là một cá thể
xã hội chỉ có thể tách riêng ra trong bầy đàn”.
Phương diện xã hội của nguồn nhân lực biểu hiện ở tính xã hội của con
người. Người lao động chính là chủ thể của quá trình cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới, đó chính là biểu hiện năng lực xã hội (chính là nhân tố nội
sinh, nhân tố bên trong của sự phát triển). Chính bản thân cơ cấu chất lượng,
quy mô của nguồn nhân lực cũng là kết quả của một quá trình xã hội - đó là
công tác giáo dục - đào tạo. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã nhấn mạnh tới
chế độ “Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em.
Xóa bỏ việc sử dụng trẻ em làm trong các công xưởng như hiện nay.
Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất, v.v ” [37, tr.628].
Hai phương diện cá nhân và xã hội của nguồn nhân lực nếu được kết hợp
với nhau một cách hài hoà sẽ tạo điều kiện cho việc phát huy nguồn lực con

11
người có hiệu quả, tạo nên năng lực thực tiễn cho hoạt động cải tạo xã hội của
con người.
1.1.1.2. Chất lượng nguồn nhân lực và các yếu tố cơ bản của chất lượng
nguồn nhân lực
Khi nói tới nguồn lực con người, chúng ta đề cập tới cả hai mặt của nó là
số lượng và chất lượng nguồn nhân lực
Số lượng nguồn nhân lực chính là lực lượng lao động và khả năng cung
cấp lực lượng lao động cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng nguồn
nhân lực của một quốc gia được xác định trên quy mô dân số, tốc độ tăng dân
số, cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối giữa các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư
giữa các vùng miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực

của đời sống xã hội. Số lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng đối với sự
phát triển của một quốc gia dân tộc, bởi nếu như một quốc gia có điều kiện
thuận lợi về số lượng nguồn nhân lực thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển và ngược lại, nếu số lượng và sự phát triển không tương xứng với nhau
sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội như khó khăn
về lực lượng lao động, phân công lao động xã hội và có thể tạo nên vấn đề lao
động nhập cư. Đối với những nước đang phát triển như nước ta thì vấn đề lao
động, việc làm đang là một trong những vấn đề cơ bản của chính sách xã hội
đòi hỏi sự quan tâm thoả đáng của Đảng và Nhà nước.
Yếu tố cơ bản quyết định nhất của nguồn lực con ngưòi là chất lượng
nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh trong trình độ kiến
thức, kỹ năng và thái độ của người lao động. Nó là một khái niệm tổng hợp
bao gồm những nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lý,
mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương
đất nước, ý thức giai cấp, ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc, với gia
đình và xã hội, giác ngộ và bản lĩnh chính trị v.v Đây mới là yếu tố chính tạo
nên chất lượng của lao động, là yếu tố quyết định tới sự phát triển kinh tế - xã

12
hội của một quốc gia, đặc biệt là đối với nước ta khi chúng ta đang ở trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Tuy nhiên, khi xét thực trạng nguồn nhân lực của một quốc gia chúng
phải được xem xét một cách tổng thể hai yếu tố trên bởi vì giữa số lượng và
chất lượng nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu số lượng
nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng tạo nên lợi thế trong phân công lao động
xã hội của một quốc gia thì chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định
trong cạnh tranh phát triển, đặc biệt là trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay.
Chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp tất cả những yếu tố đã
nêu trên, trong đó chúng ta đề cập đến những yếu tố quan trọng đó là thể lực,
trí lực (trí tuệ) và phẩm chất. Có thể nói đây là những yếu tố cơ bản quyết

định nhất làm nên chất lượng nguồn nhân lực.
Thể lực: Đó là trạng thái sức khoẻ của người lao động biểu hiện ở sự
phát triển sinh học, không có bệnh tật, có sức khoẻ để học tập, lao động lâu
dài, đủ sức để làm việc trong một hình thái lao động - nghề nghiệp nào đó
Thể lực là yếu tố quan trọng đầu tiên trong chất lượng nguồn nhân lực, bởi
nếu người lao động không đáp ứng được yêu cầu về thể lực sẽ không thể tạo
nên lao động có hiệu quả. Hơn nữa, thể lực không khoẻ mạnh sẽ là yếu tố làm
hạn chế sự phát triển trí lực, trí tuệ của cá nhân và của cả cộng đồng nói
chung. Sẽ không thể có một trí tuệ minh mẫn, dẻo dai trong một cơ thể ốm
yếu, bệnh hoạn, mà chỉ có thể có trong một cơ thể cường tráng, tràn trề sinh
lực. Tất nhiên, người lao động có thể lực còn là người lao động mạnh khoẻ cả
về tâm hồn, có sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, có niềm tin và ý chí, có
khả năng vận động trí lực tốt. Trong thời đại CNH, HĐH hiện nay nguời lao
động cần phải đáp ứng được yêu cầu về thể lực để có thể làm việc trong nhiều
môi trường khác nhau.
Trí lực là yếu tố trí tuệ, tinh thần. Có thể khẳng định, đây là yếu tố quan
trọng nhất trong chất lượng nguồn nhân lực bởi nó quyết định phần lớn khả

13
năng sáng tạo của con người. Trí tuệ là thành phần ngày càng có vai trò quyết
định trong sự phát triển nguồn lực con người, đặc biệt là trong thời đại của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, đối với nước ta nó càng có ý
nghĩa quan trọng khi chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với kinh tế tri thức, khi mà nền kinh tế thế giới hiện nay đã vận động đến nền
kinh tế của trí tuệ. Lao động trí tuệ ngày càng chiếm tỉ lệ cao trong giá trị
hàng hoá và giá thành sản phẩm. Ở những nước công nghiệp hiện nay, yếu tố
tri thức chiếm tới tới hơn 65% giá thành sản xuất và hơn 35% giá trị sản
phẩm. Chính nhờ yếu tố trí tuệ mà nguồn lực con người (trong đó chủ yếu là
trí tuệ con người) có sức mạnh áp đảo so với các nguồn lực khác bởi trí tuệ là
yếu tố vô hạn còn các nguồn lực khác đều hữu hạn. Nhà tương lai học

người Mỹ AlvinToffler đã khẳng định: Mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể
bị khai thác cạn kiệt, chỉ riêng có trí tuệ là vô tận, bởi đó là “tri thức có tính
chất lấy không bao giờ hết” [1, tr.41]. Trong lịch sử, tri thức luôn là một
nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng từ trước đến nay
chưa hề có nhiều lao động tri thức như bây giờ, và cũng chưa từng có việc
truyền bá tri thức nhanh như bây giờ thông qua máy tính và mạng internet.
Ngày nay, trí tuệ con người là yếu tố quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia,
là thứ tài nguyên đáng quý nhất.
Phẩm chất nói chung trong đó cốt lõi là phẩm chất đạo đức cũng là yếu
tố quan trọng trong chất lượng nguồn nhân lực. Người lao động trong thời đại
hiện nay bên cạnh một thể lực khoẻ mạnh và một trí tuệ sáng suốt còn phải có
những phẩm chất quan trọng của một công dân mà trước hết là đạo đức cá
nhân, đó chính là yếu tố cơ bản hình thành nên nhân cách cá nhân người lao
động. Người lao động cần phải có những phẩm chất đạo đức của công dân
yêu nước, ham học hỏi, cần cù lao động và sáng tạo, có tinh thần hợp tác, ý
chí tự chủ, vươn lên và lòng tự hào dân tộc. Đó là con người vừa biết giữ gìn
bản sắc dân tộc, vừa biết tiếp thu văn minh nhân loại; con người mang bản

14
chất nhân văn, nhân đạo, nhân ái, sống nhân ái, khoan dung, không ích kỷ,
hẹp hòi, không thờ ơ trước tương lai của cộng đồng dân tộc.
Ngoài ra, người lao động trong thời đại khoa học và công nghệ hiện nay
cần phải có văn hoá lao động trong công nghiệp: có tác phong công nghiệp, có
kỷ luật lao động, có tính tự giác, có tinh thần trách nhiệm cao, có lương tâm
nghề nghiệp; sống bản lĩnh, có lý tưởng và bản lĩnh chính trị vững vàng để thực
hiện sứ mệnh vẻ vang là CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, để đáp ứng được đòi hỏi khách quan
của nền sản xuất công nghiệp hiện đại và môi trường lao động chuyên nghiệp
người lao động còn cần phải có trình độ cao của văn hóa sinh thái (mối quan
hệ, sự ứng xử của con người với thiên nhiên). Nếu không có sự hiểu biết và

văn hoá cao trước vấn đề sinh thái sẽ dẫn đến mất cân bằng sinh thái, nếu con
người cứ khai thác thiên nhiên một cách bừa bãi, chặt phá rừng, huỷ hoại
nguồn nước sẽ làm mất cân bằng sinh thái. Thay vì phục vụ cho cuộc sống
của con người, thiên nhiên sẽ quay lại trừng trị chính chủ nhân của nó.
Có thể khái quát rằng, thực tiễn đất nước đang đòi hỏi chúng ta phải có
một đội ngũ lao động kỹ thuật hùng hậu, trong đó lực lượng quan trọng này
phải hội đủ các phẩm chất cơ bản là:
- Có trí tuệ
- Có sức khỏe
- Lòng yêu nước
- Tinh thần tự chủ vươn lên, hợp tác, lòng tự trọng dân tộc, hiểu biết tôn
trọng pháp luật
- Có trình độ cao của văn hóa sinh thái (mối quan hệ, sự ứng xử của con
người với thiên nhiên).

15
Tóm lại là phải được biểu hiện trên 3 mặt của chất lượng nhân lực gồm
thể lực, trí thức và phẩm chất. Vấn đề là làm sao để có được một đội ngũ
nhân lực có chất lượng và đội ngũ nhân lực đó phải hội đủ các yếu tố quan
trọng nói trên.

16
1.1.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
1.1.2.1. Quan niệm về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay là tất yếu khi
mà Việt Nam đang đứng trước những thách thức về vấn đề lao động. Dù
chúng ta có lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, thông minh, cần cù, chịu
khó nhưng chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam còn thấp. Điều đó sẽ làm
giảm khả năng cạnh tranh của quốc gia khi mà nền kinh tế của chúng ta đã hội
nhập ngày càng sâu rộng, đặc biệt khi chúng ta đã gia nhập vào WTO. Bàn về

vấn đề này, trong phát biểu chỉ đạo tại hội nghị triển khai kế hoạch dạy nghề,
việc làm và xuất khẩu lao động giai đoạn 2007-2010 Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng cho rằng một trong những thách thức lớn nhất của đất nước khi gia
nhập WTO là chất lượng nguồn nhân lực còn quá thấp, làm giảm khả năng
cạnh tranh của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Lao động của ta “dân trí thấp,
tay nghề kém” dẫn đến năng suất, chất lượng cũng kém, không đáp ứng được
nhu cầu, làm khả năng cạnh tranh quốc gia kém. Chính điều này đã làm lao
động Việt Nam có nguy cơ tiếp tục “thua trên sân nhà”. Thủ tướng dẫn
chứng: tại một công trình trọng điểm ở phía Nam, lao động Việt Nam làm các
công việc phổ thông; còn vị trí đội trưởng, kỹ thuật do lao động nước ngoài
đảm trách.
Theo đánh giá mới của Ngân hàng Thế giới (WB), chất lượng nguồn
nhân lực của Việt Nam hiện nay mới chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp
thứ 11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng. Một nghiên cứu khác cho
thấy lao động Việt Nam chỉ đạt 32/100 điểm. Trong khi đó, những nền kinh tế
có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên
thị trường toàn cầu.
Việt Nam hiện có khoảng 53 triệu người trong độ tuổi lao động. Có thể
thấy đây là một thuận lợi rất cơ bản của nước ta về lực lượng lao động dồi
dào. Tuy nhiên để biến điều đó thành lợi thế trong phát triển chúng ta không

17
thể thờ ơ với vấn đề về chất lượng của lao động Việt Nam. Bởi vì con số 53
triệu lao động nhưng chỉ có trên 20% được đào tạo nghề và lại có đến 10 triệu
lao động không có việc làm đang là vấn đề gây nhức nhối đối với các cơ quan
chức năng và xã hội. Vấn đề đặt ra hàng đầu đối với lực lượng lao động Việt
Nam hiện nay là cần được đào tạo về cơ bản, đáp ứng được yêu cầu về nguồn
nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay. Mục tiêu đã được chúng ta đề ra là đến
năm 2010 có 50% lao động đã qua đào tạo.

Để đạt được chỉ tiêu nêu trên chúng ta không thể chậm trễ được nữa,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trở thành vấn đề cơ bản nhất đối với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta bởi vì chúng ta đã khẳng định
yếu tố con người là yếu tố quyết định nhất.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là nâng cao khả năng cạnh
tranh của lao động Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như thế giới
trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Để nâng cao chất lượng
lao động của Việt nam chúng ta phải thực hiện một cách đồng bộ từ nâng cao
tình trạng sức khoẻ của dân cư, nâng cao trình độ văn hóa cho người lao động
và quan trọng nhất là nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao
động.
Trước hết, người lao động cần phải có thể lực dồi dào. Đây là yếu tố cơ
bản đầu tiên tạo nên chất lượng của lao động bởi vì như đã nêu ở trên, muốn
lao động có hiệu quả trước hết người lao động phải đáp ứng được yêu cầu về
thể lực. Đây cũng chính là một trong những điểm yếu của lao động Việt Nam
bởi vì nhìn chung chất lượng cuộc sống của Việt Nam còn thấp so với khu
vực và thế giới. Bởi vậy, cùng với nó phải là quá trình nâng cao chất lượng
cuộc sống nhằm cải thiện đời sống cho lao động Việt Nam.
Trình độ văn hoá của người lao động là sự hiểu biết của người lao động
đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trong chừng mực

18
nhất định, trình độ văn hoá của dân số biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia
đó. Trình độ văn hoá của dân số hay của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu hết
sức quan trọng phản ánh chất lượng của nguồn nhân lực và có tác động mạnh
mẽ tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trình độ văn hoá cao
tạo ra khả năng tiếp thu nhanh những thành tự của khoa học công nghệ và tạo
ra khả năng vận dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học vào sản xuất. Đối
với lao động Việt Nam trong thời gian tới khi chúng ta đã gia nhập WTO thì
nâng cao trình độ văn hoá của người lao động là một yêu cầu khách quan bởi

vì chúng ta đang sống trong thời đại của nền kinh tế tri thức và nó đòi hỏi lao
động không chỉ có sức khoẻ, tay nghề mà còn phải có trí tuệ. Một trí tuệ minh
mẫn trong một cơ thể dẻo dai là yếu tố quan trọng đầu tiên tạo nên hiệu quả
trong công việc.
Yếu tố cơ bản quyết định khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay đó chính là trình độ
chuyên môn và kỹ thuật của người lao động.
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn
nào đó, nó biểu hiện ở trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một
công việc thuộc một chuyên môn nhất định.
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ của
người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định,
những kỹ năng thực hành về công việc nhất định.
Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau,
thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng
tập thể nguồn nhân lực. Ở đây ta thấy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở
nước ta hiện nay phải tập trung vào khâu yếu nhất này của lao động Việt
Nam. Bởi vì như trên đã phân tích, lao động Việt Nam chủ yếu chưa qua đào
tạo nên trình độ tay nghề chưa cao làm giảm hiệu quả trong công việc. Với

19
thực trạng chất lượng lao động đáng lo ngại như hiện nay thì yêu cầu nâng
cao trình độ chuyên môn và kỹ thuật là yêu cầu cơ bản và thiết thực nhất
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta trong giai đoạn hiện nay,
tăng khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam cả ở trong cũng như ngoài
nước. Trong đó ta thấy đào tạo nghề là vấn đề cấp bách nhất trong giai đoạn
hiện nay.
1.1.2.2. Các chủ thể của quá trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay là yêu cầu

bức thiết, đó là nhiệm vụ của toàn xã hội. Tuy nhiên, ở đây, có thể kể đến
vai trò chủ đạo của ba chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp (nhà tuyển dụng) và
nhà trường.
a, Nhà nước - chủ thể của quá trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nhà nước là với tư cách là chủ thể quản lý đóng vai trò quan trọng
nhằm tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Nhận thức
được yêu cầu cấp bách của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước
ta trong thời kỳ hội nhập Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực nhằm tạo ra một thế
hệ lao động Việt Nam “có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” nhằm
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát triển giáo dục và đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu
nhằm “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Chỉ có phát
triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo chúng ta mới có thể hy vọng sánh vai
cùng các cường quốc trên thế giới bởi vì chỉ có bằng con đường giáo dục và
đào tạo chúng ta mới có thể nâng cao trình độ của dân trí, tạo ra nguồn nhân
lực cơ bản phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và trên cơ sở đó bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước. Trong đó yêu cầu cơ bản về một nguồn nhân lực được
đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tác phong công nghiệp, đạo
đức, văn hoá là yêu cầu cơ bản trước mắt mà chúng ta cần phải tập trung

20
chiến lược đào tạo nhằm phục vụ cho yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. Bởi
vây, giáo dục và đào tạo nói chung, đào tạo nghề nói riêng cần được sự quan
tâm phát triển đặc biệt của Đảng và Nhà nước.
Trong những năm qua, để đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực
cho CNH, HĐH Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng tới công tác dạy nghề, góp
phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn khoảng 5,1% và tăng thời
gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 82%. Dạy nghề đã gắn kết với sản xuất
và tạo việc làm (trong nước và xuất khẩu lao động), xóa đói giảm nghèo, bước

đầu đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, góp phần chuyển dịch cơ
cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Trong 5 năm 2001 - 2005, cả nước đã tạo việc
làm cho trên 7,5 triệu lao động (tăng 25% so với giai đoạn 1996 - 2000),
nhiệm vụ đặt ra cho giai đoạn 2006 - 2010 là dạy nghề cho 7,5 triệu lao động.
Với những nỗ lực đó, chất lượng đào tạo nghề được nâng cao hơn, từng bước
đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, góp phần nâng cao năng suất lao
động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá.
Hệ thống quy phạm pháp luật và các cơ chế, chính sách về dạy nghề đã
được xây dựng, bổ sung, sửa đổi, ban hành tương đối đồng bộ, tạo hành lang
pháp lý quan trọng hình thành hệ thống dạy nghề với các trình độ sơ cấp
nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề và tạo hành lang pháp lý cho hoạt
động dạy nghề phát triển ổn định, đi vào nề nếp. “Luật dạy nghề” được ban
hành là sự thể hiện rõ nhất quyết tâm phát triển giáo dục nghề nghiệp ở nước
ta nhằm phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn
cầu hiện nay. Luật quy định những chính sách quan trọng về đầu tư, về trách
nhiệm của doanh nghiệp với dạy nghề, về xã hội hóa, về hỗ trợ phát triển dạy
nghề tại các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, hỗ trợ học
nghề cho người nghèo, người dân tộc, phụ nữ, người tàn tật khuyết tật và các
đối tượng chính sách khác; quy định về việc đảm bảo chất lượng và kiểm định
chất lượng.

×