Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sử dụng cách tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia để xây dựng chính sách khoa học và công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.59 KB, 20 trang )







SỬ DỤNG CÁCH TIẾP CẬN
HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA ĐỂ
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ















Một số quốc gia đã sử dụng khái niệm hệ thống đổi mới quốc gia (National
System of innovation - NSI) để làm khung khổ phân tích và hoạch định chiến lược/chính
sách khoa học và công nghệ (KH&CN). Đây là những kinh nghiệm rất đáng quan tâm đối
với Việt Nam trong quá trình chuẩn bị xây dựng các chiến lược và kế hoạch KH&CN giai
đoạn 2011-2020.
I. CÁCH TIẾP CẬN NSI
1) Đặt vấn đề


Cách tiếp cận, trong đó NSI được sử dụng làm khung khổ để phân tích và hoạch
định chính sách thoạt đầu được các nước phát triển, thường là có năng lực KH&CN thấp
hơn so với các đối thủ cạnh tranh, áp dụng. Tiếp theo đó, nó được phát triển ở Nam Phi
và Trung Quốc, trong bối cảnh của các nền kinh tế nằm trong giai đoạn chuyển dịch, với
những thách thức to lớn đặt ra cho công cuộc phát triển. Nó cũng được sử dụng một cách
hiệu quả ở các nền kinh tế đang phát triển khác, với vai trò là một phương pháp luận
thích hợp và bền vững để đem lại những kết quả tích cực.
NSI được định nghĩa là “mạng lưới những thể chế ở khu vực công và tư, với
những hoạt động và hành động để sáng tạo, nhập khẩu, cải biến và truyền bá công nghệ
mới”. Định nghĩa đầy đủ hơn “NSI là hệ thống bao gồm những doanh nghiệp Nhà nước
và tư nhân (cả quy mô lớn lẫn quy mô nhỏ), những trường đại học và những cơ quan
Chính phủ, nằm trong mối quan hệ tương tác với nhau nhằm mục đích tạo ra các sản
phẩm và dịch vụ KH&CN ở trong nước. Mối tương tác này có thể mang tính kỹ thuật,
thương mại, pháp lý, xã hội và tài chính, vì mục đích của nó là phát triển, bảo hộ, tài trợ
hoặc điều chỉnh các công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng trưởng
kinh tế bền vững”.
Cách tiếp cận NSI chú trọng vào các kết quả vận hành của hệ thống và những lợi
ích mà nó mang lại cho xã hội, chứ không chú trọng vào các quá trình, chẳng hạn như
hoạt động nghiên cứu, hoặc các thể chế, chẳng hạn như các “trung tâm xuất sắc” (Center
of Excellence”. Điều này không có ý nói rằng những vấn đề đó là không quan trọng, mà
chỉ nhấn mạnh rằng mối quan tâm chủ yếu và trên hết của cách tiếp cận NSI là tính hài
hòa và sự phối kết hợp nhau của các mối tương tác giữa các phần tử và các mối liên kết
nằm trong hệ thống, nhằm đem lại những kết quả và tác động một cách hiệu quả và bền
vững.
Cách tiếp cận này có những hàm ý quan trọng đối với các quốc gia, vì:
 Trên thực tế, mỗi quốc gia đều có một NSI, chỉ có điều là NSI đó vận hành hiệu
quả nhiều hay hiệu quả ít, hay nói cách khác là NSI đó có thực hiện tốt các chức
năng của mình hay không;
 Những hành động mà mỗi quốc gia đưa ra để củng cố NSI của mình không nên
thu nhận các thông tin từ những chính sách bên ngoài mang tính nhất thời, mà phải

dựa trên sự đánh giá một tập hợp những hành động thích hợp nhất, trên cơ sở cân
nhắc những nguồn lực sẵn có và những điều kiện hiện hành của NSI;
 Mỗi quốc gia có một khung khổ chính sách khác nhau và phân biệt với nhau, phục
vụ cho các mối quan tâm của mình, đồng thời vẫn liên hệ với các quá trình đổi
mới rộng lớn hơn đang diễn ra trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
 Đã có nhiều công trình nghiên cứu hàn lâm về NSI, tuy nhiên, xét từ quan điểm
thực tiễn, việc chú trọng đến các nhóm liên quan (Stakeholders) và các chức năng
của NSI cho phép đánh giá nhanh hiện trạng của NSI và thiết kế nên những chính
sách can thiệp hiệu quả và bền vững. Cách tiếp cận trên cơ sở sử dụng chức năng
cho phép “lập bản đồ” NSI theo cách thức dễ tiếp cận đối với những nhà hoạch
định chính sách và những thành viên tham gia ở trong hệ thống.
2) Khái niệm NSI
Thuật ngữ NSI dùng để mô tả các mối tương tác các thể chế, tổ chức và doanh
nghiệp tham gia vào hệ thống, phần lớn là hoạt động độc lập về hình thức với nhau. Do
đó, NSI bao hàm một số mối tương tác mang tính hợp tác, đồng thời cũng có một số mối
tương tác cạnh tranh với nhau. Điều quan trọng phải ý thức được rằng trong NSI không
có một thực thể duy nhất nào có sức mạnh và quyền lực kiểm soát các hoạt động của toàn
bộ hệ thống, mà có nhiều thực thể tạo ra các ảnh hưởng lớn, và có những điểm ảnh hưởng
then chốt tới Chính phủ để củng cố và tăng cường hiệu quả của hệ thống nói chung.
Điều quan trọng ngay thoạt đầu là phải hiểu rằng quan hệ giữa nghiên cứu và phát
triển (R&D) với đổi mới công nghệ không hề đơn giản và không phải là mối quan hệ
tuyến tính. Ngoài những đóng góp trực tiếp và dễ nhận thấy của các ý tưởng mới để đem
lại những ứng dụng thương mại, thì những đóng góp gián tiếp thông qua sự tiến bộ của tri
thức và hiểu biết cũng là những đặc điểm có vai trò quan trọng không kém của NSI. Có 2
mảng hoạt động KH&CN cũng hỗ trợ việc cung cấp đội ngũ nhân lực được đào tạo tốt và
tạo dựng năng lực rộng lớn để phục vụ công tác sản xuất, phổ biến, tiếp cận, ứng dụng và
trao đổi tri thức. Vấn đề then chốt đối với các chính sách công là xoay quanh việc phân
bổ nguồn lực cho những phương thức khác nhau của hoạt động nghiên cứu, đổi mới hoặc
chuyển giao công nghệ từ các nguồn bên ngoài cho nền kinh tế vào bất kỳ thời điểm nào.
Việc sử dụng khái niệm NSI để làm khung khổ cho chính sách là một nỗ lực thể

hiện sự rời bỏ hoàn toàn khỏi tình trạng và hiểu biết trước đây, thay thế quan điểm cũ
bằng quan điểm mới về vị thế và vai trò của các bộ môn khoa học (kể cả các ngành khoa
học xã hội và khoa học nhân văn), kỹ thuật và công nghệ trong công cuộc phát triển quốc
gia. Quan niệm của nhiều quốc gia coi thay đổi kỹ thuật là nguồn chủ yếu đem lại tăng
trưởng kinh tế cho thấy: Các chính sách kinh tế và KH&CN cần phải ý thức được 2 quy
trình trong mối quan tâm chủ yếu của mình, đó là đổi mới và truyền bá công nghệ, vì
chính 2 quá trình này là những động lực đem lại đổi mới kỹ thuật. Để phục vụ cho các
mục đích phân tích, NSI có thể được hiểu như một tập hợp các thể chế, tổ chức và chính
sách chức năng nằm trong mối quan hệ tương tác với nhau một cách hiệu quả nhất để
cùng theo đuổi những mục tiêu chung về KT-XH và áp dụng đổi mới để làm tác nhân
then chốt đem lại sự thay đổi.
Do vậy, bất kỳ quốc gia nào cũng cần phải có 4 mối quan tâm then chốt như sau:
(1) . Đảm bảo để có được một tập hợp những thể chế, tổ chức và chính sách tác dụng
tới những chức năng khác nhau của NSI;
(2) . Đảm bảo để có được một tập hợp những mối tương tác mang tính xây dựng để
phục vụ cho các thể chế và chính sách nói trên;
(3) . Đảm bảo để có được một môi trường chính sách thuận lợi, thúc đẩy đổi mới.
Những yếu tố của một NSI-bao gồm các cá nhân, các tổ chức và các chính sách-
đều được tìm thấy ở mỗi quốc gia. Điều phân biệt giữa một NSI thành công và một NSI
không thành công là năng lực của NSI đó trong việc thúc đẩy các mối tương tác mang
tính tạo dựng ở nhiều phần tử đó để khắc phục những mô thức trước đây như sự thiếu gắn
kết, sự phân tán cao độ của các nỗ lực phát triển quốc gia và tính mất cân đối nghiêm
trọng trong khả năng tiếp cận với các nguồn lực trong xã hội. Năng lực này phải được bắt
nguồn từ trong tư duy của bản thân các cá nhân, các tổ chức nằm trong hệ thống, chứ
không thể được tạo ra từ những sắc lệnh mang tính áp đặt từ trên xuống, nghĩa là mọi
người cũng như các tổ chức phải ý thức được sự cần thiết phải hợp tác, tương tác với
nhau vì những mục tiêu chung cùng theo đuổi. Tầm quan trọng của các mối tương tác
trong NSI đã được nhấn mạnh trong một Báo cáo quan trọng của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế (OECD) như sau: “Đặc trưng tương tác của quá trình đổi mới cần đến
các cơ cấu tổ chức và các thể chế để đảm bảo có được những mối tương tác thích hợp và

phản hồi ở bên trong các công ty cũng như các tổ chức thành viên khác nhau tạo nên NSI.
Đối với cả việc phân tích lẫn chính sách, mô hình này nhấn mạnh tầm quan trọng của các
mối liên kết và mạng lưới gắn kết các tổ chức với nhau. Sự tăng trưởng của những liên
minh giữa các doanh nghiệp biểu hiện một sự thay đổi lớn trong lĩnh vực đổi mới. Đặc
biệt, chúng nêu bật mối quan hệ cộng sinh ngày càng gia tăng giữa KH&CN, bản chất lan
tỏa của một số công nghệ đương đại và sự kết năng, thậm chí là sự hợp nhất của một số
lĩnh vực công nghệ”.
Ba lý do chính dẫn tới việc sử dụng khái niệm NSI để làm khung khổ cơ bản cho
công tác phân tích chính sách là:
(1) . Nó giúp đưa lại cơ hội để suy nghĩ về các phương tiện giúp thúc đẩy sự gắn kết
và hội nhập đối với các hoạt động ở tầm quốc gia;
(2) .Nó cung cấp phương tiện để nhận dạng những việc cần làm mà không trói buộc
những chức năng cần thiết đối với bất cứ một thể chế hoặc một tổ chức nào hiện
đang tồn tại;
(3) .Nó tập trung sự chú ý vào “đổi mới”-tức là vào việc tạo ra các sản phẩm/quy
trình mới bằng những phương pháp mới-chứ không đơn thuần là vào những vấn
đề, chẳng hạn như sản xuất tri thức, hoặc nguồn nhân lực.

3) Một lưu ý khi áp dụng cách tiếp cận NSI cho quốc gia đang phát triển
Cách tiếp cận NSI đã có một sức hấp dẫn rất lớn đối với những chuyên gia nghiên
cứu về mối liên hệ giữa thay đổi công nghệ, tăng trưởng và phát triển ở các nền kinh tế
đang công nghiệp hoá, ít nhất là bởi 3 lý do sau đây:
(1) Sự thay đổi công nghệ được đặt ở vị trí trung tâm của NSI;
(2) Cách tiếp cận này đặt mục đích giải thích nguyên do tồn tại những khác biệt từ lâu
về hiệu quả hoạt động kinh tế của các nước;
(3) Có sự cân nhắc kỹ lưỡng về các thể chế và những yếu tố lịch sử.
Cho đến nay, chưa có một khung khổ phân tích nào bao hàm những đặc điểm ở mức tổng
quát như vậy, do đó đây là cách tiếp cận rất có triển vọng để hiểu được quá trình phát
triển kinh tế của quốc gia. Mặc dù đã có những hy vọng rất lớn như vậy, nhưng những
công trình nghiên cứu về NSI ở các nền kinh tế đang công nghiệp hoá lại chỉ được thực

hiện ở mức độ rất ít ỏi. Nguyên do chính không phải là thiếu dữ liệu, mà là ở chính bản
thân cách tiếp cận lý thuyết của NSI. Chính khung khổ lý thuyết và khái niệm của NSI đã
không phù hợp để xem xét quá trình thay đổi công nghệ diễn ra phổ biến ở các nền kinh
tế đang công nghiệp hoá, bởi chúng khác với các quá trình ở các nước công nghiệp phát
triển. Đại đa số các công trình khảo sát về NSI đều tập trung chủ yếu vào các hoạt động
KH&CN nhằm tạo ra đổi mới, đặc biệt là hoạt động R&D. Sự bó hẹp phạm vi như vậy rõ
ràng trái ngược với định nghĩa rộng của nó. Chỉ trong một số ít công trình mới đề cập đến
cả các thể chế (và các mối quan hệ) có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới quá trình đổi
mới.
Sự hiểu biết theo nghĩa hẹp nói trên đối với NSI đặc biệt không thích hợp cho việc
nghiên cứu các nền kinh tế đang công nghiệp hoá. Sở dĩ như vậy, vì quá trình thay đổi
công nghệ ở các nền kinh tế này phần lớn được hình thành ở bên ngoài phạm vi của các
thể chế nằm ở cốt lõi của quá trình đổi mới (theo đúng nghĩa của thuật ngữ này). Ngay cả
khi sử dụng NSI với nghĩa rộng, thì đối với các nền kinh tế đang công nghiệp hoá, chúng
cũng không đem lại nhiều tác dụng nếu việc phân tích vẫn còn dựa vào quan niệm đổi
mới là đồng nghĩa với thay đổi công nghệ. Thực ra, đổi mới là một quá trình có mối liên
kết và phản hồi với tất cả các bộ phận, bao gồm: (1) Sáng chế; (2) Đổi mới và (3) Phổ
biến (Diffusion), cùng với một khái niệm mới đưa ra gần đây là cải tiến (Incremetal
Innovation). Với một quan niệm bao hàm như vậy, thoạt đầu mọi người cho rằng nó sẽ
mở rộng cửa để phân tích các bộ phận tham gia vào quá trình thay đổi công nghệ ở các
nền kinh tế đang công nghiệp hoá, ví dụ như đối với phổ biến công nghệ. Tuy nhiên, do
không phân biệt rạch ròi các bộ phận ở trong khái niệm này nên kết cục đã rất khó sử
dụng cách tiếp cận NSI (theo nghĩa rộng) để nghiên cứu các nền kinh tế đang công
nghiệp hoá. Việc nghiên cứu NSI thiên về đổi mới đã không gây ra những hậu quả có hại
khi nghiên cứu đó liên quan đến các quốc gia phát triển, vì ở đó đổi mới nằm ở cốt lõi
của quá trình thay đổi công nghệ. Nhưng đối với các quốc gia đang công nghiệp hoá lại
không như vậy, vì đổi mới ít có vai trò, thậm chí hoàn toàn không có vai trò gì đối với
thay đổi công nghệ.
Như vậy, nếu đơn thuần áp dụng cách tiếp cận NSI để phân tích các nền kinh tế đang
công nghiệp hoá thì không thích hợp. Nó có thể đem lại những hiểu biết sai lệch về bản

chất, tốc độ và phương hướng của quá trình thay đổi công nghệ của những nền kinh tế đó,
do vậy sẽ ảnh hưởng đến sự nhận dạng các nhân tố quyết định, cũng như có thể đem lại
những biện pháp chính sách không phù hợp. Những vấn đề khái niệm và lý thuyết đề cập
ở trên là những lý do chính giải thích vì sao lại không thực hiện được kỳ vọng rất lớn đặt
vào NSI để làm công cụ giúp hiểu được các mối liên quan giữa thay đổi công nghệ, tăng
trưởng và phát triển ở các quốc gia đang công nghiệp hoá. Tuy nhiên, cách tiếp cận NSI
vẫn là một khung khổ phân tích hữu ích, nếu ta khắc phục được những vấn đề đã đặt ra.
Mặc dù có rất nhiều quan hệ tương tác với nhau, nhưng mỗi một hình thức thay
đổi công nghệ đều có những điểm khác biệt, tồn tại độc lập cần xem xét trong khung khổ
khái niệm. Quan điểm này được tăng cường thêm, khi ta nhận thức được những khác biệt
lớn ở những quá trình mà nhờ đó chúng được tạo ra, ở những năng lực đa dạng mà chúng
cần phải có, và ở những ý nghĩa khác nhau mà chúng hàm chứa để đem lại sức cạnh tranh
cho doanh nghiệp, ngành và quốc gia. Việc nhận dạng từng khái niệm nằm trong đó nhìn
chung là cần thiết. Tuy nhiên, điều này lại đặc biệt có tầm quan trọng để xây dựng một
khung khổ đặc thù để phân tích sự thay đổi công nghệ ở các nền kinh tế đang công
nghiệp hoá. Tuy thế, việc này vẫn chưa giúp nhận thức được mối liên quan mật thiết giữa
hấp thụ và cải tiến. Nhận thức này buộc ta phải bổ sung thêm một khái niệm nữa để bao
hàm cả hai bộ phận trên, đó là khái niệm học tập. Học tập là một quá trình thay đổi kỹ
thuật, đạt được bằng việc hấp thụ và cải tiến. Nói một cách khác, học tập là sự hấp thụ
các công nghệ/kỹ thuật đã có, hấp thụ những đổi mới do nơi khác tạo ra và có những cải
tiến/hoàn thiện chúng. Dựa vào những khái niệm cơ bản này, ta có thể tiến tới hiểu biết
quá trình thay đổi công nghệ ở các nền kinh tế đang công nghiệp hóa. Một điều dễ thấy là
ở công cuộc công nghiệp hoá muộn, động lực của nó là sự học tập công nghệ, chứ không
phải là đổi mới. Do vậy, đối với các nền kinh tế công nghiệp hoá muộn, NSI có một bộ
phận chung quan trọng, đó là điều kiện để phục vụ cho quá trình học tập công nghệ. Ý
nghĩa quan trọng nhất của sự phân biệt rạch ròi như vậy là ở chỗ khi phân tích cần phải
tập trung vào các hoạt động, thể chế và mối quan hệ liên quan đến học tập, chứ không
phải là đổi mới. Hướng chú trọng chính trong việc nghiên cứu là vấn đề hấp thụ và cải
tiến công nghệ.
4) Cách tiếp cận chức năng

Sử dụng cách tiếp cận chức năng để mô tả những yếu tố của NSI cho phép các
thành viên và các nhóm liên quan trong NSI nhận dạng được những vai trò khác biệt của
mình và hiểu được các mối quan hệ của mình với những thành viên và nhóm khác trong
hệ thống. Lợi ích của cách tiếp cận này là có thể vạch ra và nhận dạng những khiếm
khuyết và thách thức, cũng như có được sự nhất trí cao hơn về những yêu cầu trong
tương lai đối với NSI.


Các chức năng dành riêng cho Chính phủ TƯ là:
1. Hoạch định chính sách và phân bổ nguồn lực ở cấp quốc gia;
2. Các chức năng tư vấn đã được chuyên môn hóa;
3. Hoạch định chính sách điều chỉnh;
4. Các quan hệ quốc tế về KH&CN và đổi mới quốc gia ở cấp song phương.
Các chức năng mà Chính phủ TƯ cùng gánh vác với các tổ chức khác trong xã hội là:
1. Tài trợ cho các họat động liên quan đến đổi mới;
2. Thực hiện công tác R&D và đổi mới;
3. Tạo lập các mối liên kết và các dòng lưu chuyển tri thức;
4. Phát triển nguồn nhân lực và tạo dựng năng lực;
5. Cung cấp các dịch vụ kỹ thuật và kết cấu hạ tầng.
Các chức năng nói trên được chi tiết hóa như sau:
a) Hoạch định chính sách:
 Hoạch định các chính sách KH&CN và đổi mới;
 Tuyên bố chính thức các chính sách và chiến lược của Chính phủ;
 Thể hiện các chính sách thành các khoản yêu cầu ngân sách tổng hợp cho
KH&CN;
 Phối hợp chính sách nhằm mục tiêu đảm bảo các điều kiện khung thuận lợi cho
đổi mới như:
 Các chính sách cạnh tranh để thúc đẩy cạnh tranh nhằm đem lại động lực
cho đổi mới nhưng đồng thời cũng phải tạo thuận lợi cho hợp tác nghiên
cứu;

 Các chính sách giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực cần thiết;
 Các chính sách cải cách luật để giảm nhẹ những gánh nặng tài chính và
những quy định cứng nhắc của thể chế;
 Các chính sách tài chính và tiền tệ để kích thích các dòng vốn đi tới các
doanh nghiệp quy mô nhỏ;
 Các chính sách thị trường lao động để đẩy mạnh sự cơ động của nhân lực
và tăng cường lưu thông các dòng tri thức tiềm ẩn;
 Các chính sách truyền thông để tối đa hóa sự phổ cập thông tin và tạo khả
năng tăng trưởng của các mạng điện tử;
 Chính sách đầu tư nước ngòai và thương mại để tăng cường truyền bá
công nghệ trên cơ sở toàn cầu;
 Các chính sách khu vực để cải thiện sự bổ sung các sáng kiến của các cấp
chính quyền khác nhau.

 Chức năng tư vấn chiến lược liên quan đến họach định các chính sách KH&CN và
đổi mới quốc gia;
 Dự báo và tiên liệu về công nghệ ở cấp quốc gia;
 Phát triển các chỉ tiêu quốc gia về KH&CN và đổi mới;
 Tiếp cận với các nguồn chuyên gia tư vấn khoa học về các vấn đề lớn và cấp bách
của chính sách công;
 Thực hiện chính sách.
b) Phân bổ nguồn lực quốc gia:
 Phân bổ nguồn lực cho KH&CN và đổi mới;
 Thực hiện và điều hành ngân sách KH&CN, ít nhất như là một công cụ thông tin;
 Thiết kế và sử dụng các công cụ chính sách để tài trợ và khuyến khích các sáng
kiến KH&CN và đổi mới:
 Hỗ trợ KH&CN và đổi mới trong phạm vi khu vực Chính phủ;
o Phân bổ ngân sách;
o Tạo lập các cơ sở ươm tạo công nghệ và các dịch vụ công nghệ;
o Hệ thống trợ cấp mang tính cạnh tranh;

o Cung cấp các dịch vụ KH&CN và đổi mới;
o Sử dụng các hợp đồng giao việc giữa các Bộ và các Phòng thí nghiệm
của các Bộ;
o Tạo lập các cơ sở thuộc sở hữu của Chính phủ nhưng do nhà thầu điều
hành;
 Hỗ trợ KH&CN và đổi mới nằm ngoài khu vực Chính phủ;
o . Các hệ thống hỗ trợ cạnh tranh;
o . Đấu thầu các dịch vụ kỹ thuật, kể cả R&D;
o . Thành lập các cơ sở ươm tạo kinh doanh/công nghệ và các dịch vụ công
nghệ;
o . Sử dụng sức mua của Chính phủ;
o . Khuyến khích kinh doanh vốn mạo hiểm;
o . Tạo lập các biện pháp kích thích bằng công cụ thuế;
 Thiết lập các quy định quản lý tài chính.
c) Các chức năng xây dựng và ban hành các quy định:
 Chính sách đối với tiêu chuẩn, đo lường;
 Chính sách về sở hữu trí tuệ;
 Chính sách về bảo vệ sức khỏe, an toàn và môi trường;
 Các tiêu chuẩn quản trị đối với các thể chế và chương trình liên quan đến KH&CN
và đổi mới;
 Ủy nhiệm và tiếp thu các sản phẩm phục vụ cho các mục tiêu thống kê quốc gia về
các chỉ số liên quan đến KH&CN và đổi mới.

d) Các quan hệ quốc tế về KH&CN và đổi mới ở cấp song phương và đa phương
 Đàm phán, kết thúc, vận hành và xem xét các hiệp ước đa phương ở cấp quốc gia;
 Các đàm phán đa phương có tác động đến KH&CN và đổi mới;
 Đảm bảo vốn ODA (Viện trợ phát triển chính thức) cho hỗ trợ họat động của NSI;
 Kích thích năng lực KH&CN quốc tế và khu vực.

CÁC CHỨC NĂNG CHÍNH PHỦ ĐẢM TRÁCH CÙNG VỚI CÁC TỔ CHỨC

KHÁC
a) Tài trợ cho các họat động liên quan đến đổi mới
 Dữ liệu thống kê về các nguồn tài trợ cho KH&CN và đổi mới;
 Tài trợ bởi khu vực Chính phủ;
 Tài trợ bởi khu vực tư nhân;
 Tài trợ bởi các trường đại học;
 Tài trợ song phương của nước ngòai;
 Tài trợ đa phương của nước ngòai;
 Tài trợ trong nước cho KH&CN và đổi mới của nước ngoài;
 Tài trợ cho KH&CN và đổi mới của khu vực Chính phủ;
 Tài trợ cho KH&CN và đổi mới của khu vực tư nhân;
 Tài trợ cho KH&CN và đổi mới của các trường đại học;
 Sử dụng sức mua của Chính phủ;
 Tài trợ cho các họat động KH&CN và đổi mới của nước ngoài;
 Tài trợ của nước ngoài (song phương) cho KH&CN và đổi mới ở nội địa;
 Tài trợ đa phương cho KH&CN và đổi mới ở nội địa.
b) Thực hiện R&D thuộc tất cả các thể loại
 Dữ liệu thống kê hoạt động R&D và đổi mới
 Dữ liệu về R&D và đổi mới được thực hiện ở khu vực Chính phủ;
 Dữ liệu về R&D và đổi mới được thực hiện ở khu vực tư nhân;
 Dữ liệu về R&D và đổi mới được thực hiện ở khu vực giáo dục đại học;
 Dữ liệu về R&D và đổi mới được thực hiện ở khu vực các cơ quan khác.
 Hoạt động R&D ở các viện nghiên cứu và phòng thí nghiệm của Chính phủ;
 Hoạt động R&D ở khu vực tư nhân;
 Hoạt động R&D ở các công ty Nhà nước;
 Tạo lập các sản phẩm, quy trình và dịch vụ đổi mới.



c) Tạo lập các mối liên kết và các dòng lưu chuyển tri thức

 Các mạng lưới, liên doanh hoặc conxoocxiom về R&D;
 Các mạng lưới, liên doanh hoặc conxoocxiom để khai thác sở hữu trí tuệ;
 Các cơ chế để đánh giá, tiếp thu và truyền bá các công nghệ được coi là những
thực tiễn tốt nhất
 Các cơ chế để liên kết các đầu ra của R&D với ứng dụng thực tiễn, kể cả những
dịch vụ trung gian;
 Các dịch vụ mở rộng công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME);
 Các cơ sở ươm tạo công nghệ;
 Hỗ trợ việc bảo đảm hoặc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ;
 Các liên kết với những mối quan tâm, chương trình và họat động của các vùng
trong phạm vi quốc gia;
 Các liên kết với những hoạt động KH&CN quốc tế.
d) Chức năng phát triển nhân lực và xây dựng năng lực
 Các chương trình/phương tiện giáo dục và đào tạo nhân lực KH&CN cấp kỹ sư,
nghiên cứu viên và quản lý;
 Các chương trình/phương tiện giáo dục và đào tạo nhân lực KH&CN cấp kỹ thuật
viên;
 Các chương trình/phương tiện giáo dục và đào tạo nhân lực KH&CN cấp công
nhân lành nghề;
 Các chương trình/phương tiện giáo dục và đào tạo nhân lực KH&CN để nâng cấp
việc giảng dạy KH&CN ở hệ thống các trường;
 Các chương trình để thúc đẩy đào tạo quốc tế đối với nhân lực KH&CN;
 Các chương trình để xúc tiến quản lý việc hoàn thiện công nghệ;
 Các cơ chế để duy trì và nâng cao sức sống của đội ngũ KH&CN trong nước;
 Kích thích sự quan tâm chung trong việc hỗ trợ các sáng kiến KH&CN quốc gia
 Tạo lập văn hóa đổi mới, bằng cách:
 Giúp các doanh nghiệp cải tiến quản lý thay đổi kỹ thuật;
 Cải thiện những khuyến khích đối với những doanh nghiệp mới khởi sự.
 Xây dựng các thể chế đối với KH&CN và đổi mới:
 Xác định các mục đích chung được phục vụ của các cơ quan;

 Tạo lập năng lực và trình độ của các cơ quan về KH&CN;
 Xây dựng các quy định tài chính đối với các cơ quan tham gia vào các
hoạt động KH&CN và đổi mới.
e) Các chức năng cung cấp các dịch vụ kỹ thuật và kết cấu hạ tầng
 Thiết lập, điều hành và duy trì:

 Các dịch vụ thông tin (bao gồm các thư viện, cơ sở dữ liệu, các dịch vụ
thống kê, hệ thống các chỉ tiêu);
 Các hệ thống truyền thông, bao gồm việc truy cập mạng Internet với độ
tin cậy cao, các mạng lưới nghiên cứu và giáo dục quốc gia;
 Các dịch vụ kỹ thuật, bao gồm kiểm định sản phẩm, khắc phục hỏng hóc,
chuẩn độ và khảo sát nguồn lực;
 Các phương tiện để đo lường và tiêu chuẩn hóa;
 Các văn phòng thúc đẩy và khuyến khích thiết kế công nghiệp hoàn thiện;
 Các cơ chế thúc đẩy năng suất và cạnh tranh;
 Hệ thống cung cấp, lập hồ sơ và bảo hộ sở hữu trí tuệ;
 Các cơ chế bảo đảm công tác bảo vệ an toàn, sức khỏe và môi trường.
 Các phương tiện đặc biệt (chẳng hạn như các khu ươm tạo doanh nghiệp, khu công
nghệ ).
 Các phương tiện nghiên cứu quy mô lớn của quốc gia.
5) Các nhóm liên quan tham gia vào NSI
Các nhóm liên quan cũng đóng vai trò quan trọng như những chức năng trong
NSI. Điều này trở nên rõ ràng khi thiết kế các biện pháp can thiệp, khi xem xét các
chương trình hoặc các thể chế hiện có, hoặc khi mối quan hệ giữa các nhóm liên quan
thay đổi bởi các chính sách của Chính phủ và những yếu tố bên ngoài, chẳng hạn như yêu
cầu của nhà tài trợ. Cách tiếp cận NSI ý thức được rõ ràng các nhóm liên quan nằm ở
trong NSI và cân nhắc đến những lợi ích, sự đóng góp và quyền lực của họ ở trong hệ
thống. Các nhóm liên quan điển hình của NSI gồm:
 Chính phủ TƯ/chính quyền các cấp;
 Các doanh nghiệp;

 Các tổ chức giáo dục và đào tạo;
 Các tổ chức quốc gia đa thành viên;
 Các tổ chức xã hội dân sự;
 Các đối tác và cơ quan quốc tế.

II. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG SỬ DỤNG NSI ĐỂ PHÂN
TÍCH VÀ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH KH&CN
1) Kinh nghiệm của Nam Phi
Nam Phi đã xây dựng văn hóa tư vấn và tham gia đối với quá trình họach định
chính sách, và chính trong bối cảnh văn hóa này, quá trình xây dựng cuốn Tài liệu Xanh
(Green Paper - khung khổ tư vấn), và cuốn Tài liệu Trắng (White Paper-khung khổ chính
sách) đã được thực hiện. Quá trình này đã nhận được tài trợ của Trung tâm Nghiên cứu
Phát triển Quốc tế của Canada (IDRC).
Cuốn tài liệu Xanh: Công trình này được công bố vào tháng 1/1996 và là cuộc tư vấn
chính sách lớn đầu tiên được xây dựng công khai trên cơ sở cách tiếp cận NSI. Cách tiếp
cận này thừa nhận quá trình đổi mới và các sản phẩm tích cực của nó đóng góp cho lợi
ích quốc gia theo một số cách trực tiếp và gián tiếp. Một số mục tiêu đặt ra để NSI vận
hành tốt bao gồm:
 Đảm bảo sự gắn kết, sự phối kếp hợp và hướng trọng tâm cho các hoạt động
KH&CN thông qua việc thiết lập các mục tiêu xã hội, môi trường và kinh tế làm
nền tảng cho các hoạt động đó;
 Phát triển sự hiểu biết chung rõ ràng về các vai trò, trách nhiệm và trách nhiệm
giải trình của các nhóm liên quan khác nhau tham gia vào hệ thống, kể cả Chính
phủ;
 Thiết lập một quy trình và các mục tiêu để đạt được sự bình đẳng cho tất cả các
hoạt động KH&CN về khả năng tiếp cận với các nguồn lực;
 Tối đa hóa và tái định hướng các lợi ích cho cả cộng đồng thay vì lợi ích của thiểu
số;
 Tái định hướng việc chi tiêu và sản xuất KH&CN từ phục vụ quốc phòng sang
phục vụ các nhu cầu xã hội/thương mại;

 Tăng năng suất và số lượng việc làm trong nền kinh tế và đảm bảo để cơ cấu công
nghiệp có sức cạnh tranh trong khu vực và trên toàn cầu;
 Phát triển và tạo điều kiện để kết cấu hạ tầng đạt hiệu quả về chi phí;
 Đảm bảo để có được sự tranh luận về tác động xã hội của KH&CN, có cân nhắc
về sự bình đẳng và tăng trưởng kinh tế;
 Xây dựng cách tiếp cận tư vấn và thu hút sự tham gia nhiều hơn trong việc đưa ra
các quyết định chính sách và phân bổ nguồn lực cho hệ thống KH&CN;
 Thực hiện các nguyên tắc phát triển bền vững;
 Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tạo lập nền văn hóa KH&CN trong xã hội,
tạo khả năng và sức mạnh cho các công dân để họ có thể đánh giá được tri thức
khoa học và coi hệ thống KH&CN như một nguồn quan trọng của các lựa chọn
trên cơ sở được cung cấp đầy đủ thông tin về phát triển;
 Thúc đẩy và hỗ trợ các hoạt động tạo ra tri thức và sự hiểu biết dựa trên cơ sở các
hoạt động đó.
Việc đạt được tập hợp các mục tiêu trên đây chính là bản chất của cách tiếp cận dựa
vào khung khổ NSI. Cuốn Tài liệu Xanh cũng đưa ra danh sách các nhóm liên quan và
những chức năng chính của các nhóm đó (xem bảng ở dưới) . Sau khi cuốn Tài liệu Xanh
được công bố và lấy ý kiến tư vấn rộng rãi trong xã hội, Chính phủ Nam Phi đã tiến hành
xây dựng cuốn Tài liệu trắng về KH&CN, phục vụ làm khung khổ chính sách phát triển
KH&CN và đổi mới ở Nam Phi.



Các nhóm liên quan và các chức năng tương ứng trong NSI của Nam Phi


Các chức năng quản lý
cốt lõi
Các chức năng thực hiện


Các chính
sách và
phân bổ
nguồn lực
Điều
chỉnh
(cấp
chính
sách)
Tài chính
(cấp thực
hiện)
Thực
hiện
Phát
triển
nhân
lực và
xây
dựng
năng
lực
Cung cấp
kết cấu
hạ tầng
Chính phủ
Chức năng
chủ yếu
Chức
năng

cùng đảm
trách:
Tạo lập
một số
tiêu
chuẩn
Tham
gia hỗ
trợ mạnh
cho cả
doanh
nghiệp
lẫn giáo
dục
Tham
gia tích
cực
Tham
gia một
phần
vào
công
cuộc
giáo
dục cấp
phổ
thông
Tham gia
tích cực
Doanh nghiệp

Có một số
chức năng
tư vấn
Chức
năng
cùng đảm
trách:
Tạo lập
một số
tiêu
chuẩn
Tham
gia tích
cực với
tư cách
là nhà
cung cấp
và đối
tượng
được tài
trợ
Chức
năng
chủ
chốt
Tham
gia một
phần
vào
giáo

dục cấp
phổ
thông.
Có thể
đóng
vai trò
quan
trọng
trong
hỗ trợ
vấn đề
học tập
suốt
đời
Tham gia
một phần
Giáo dục đại học
Một số
chức năng
Tư vấn
Đối
tượng
được
nhận tài
trợ chủ
chốt
Tham
gia tích
cực
Chức

năng
chủ
chốt
Tham gia
một phần
Các tổ chức giáo
dục khác
Không
tham dự
Không
tham dự
Đối
tượng
được tài
Hạn chế
Chức
năng
chủ
Tham gia
một phần
trợ
chốt
Các tổ chức đa
thành phần
Chức năng
then chốt
là tư vấn
Tư vấn
Không
tham dự

Không
tham dự
Không
tham
dự
Không
tham dự
Các tổ chức xã
hội dân sự
Chức năng
then chốt
là tư vấn
Tư vấn
Không
tham dự
chỉ cóp
chức
năng
hạn chế
Tham
dự phần
nào
Không
tham dự
Các tổ chức bên
ngoài được quan
tâm
Một số có
chức năng
tư vấn

Phần nào
đóng vai
trò quan
trọng ở
cấp toàn
cầu
Một số
có chức
này như
một chức
năng
then chốt
Những
đối tác
Những
đối tác
Không
tham dự

2) Kinh nghiệm của Canada
Ngày 17/05/2007, Thủ tướng Chính phủ Canada, ông Hêphn Harper, đã công bố
bản Chiến lược KH&CN mới, cung cấp khung định hướng chính sách và việc đề ra quyết
định về các chương trình góp phần thực hiện các biện pháp cụ thể để tạo dựng các ưu thế
cạnh tranh quốc gia. Chiến lược này:
 Vạch ra cách tiếp cận mới và tập trung hơn để huy động KH&CN;
 Định vị để tiến hành các hoạt động bằng cách nhằm vào những thách thức và dựa
trên các thế mạnh của KH&CN. Nhận dạng tầm quan trọng của khu vực tư nhân
và các đối tượng khác ở Canada;
 Tìm cách thiết lập các điều kiện để đem lại thành công chung cho mọi khu vực.
 Chiến lược này đặt nền tảng vững chắc hỗ trợ cho cách tiếp cận dựa vào hệ thống,

được liên kết chặt chẽ để củng cố nền kinh tế thông qua đổi mới và thương mại
hóa và ứng phó với nhiều thách thức đang đặt ra hiện nay.
Theo các chuyên gia Canada, để một NSI thực hiện tốt chức năng, nó cần phải bao
gồm một số yếu tố như sau ở dọc theo chuỗi giá trị của nó:
 Một khối lượng tới hạn những nhà khoa học giỏi nhất và sáng giá nhất;
 Mức độ hoạt động cao ở các lĩnh vực phát minh và nghiên cứu được nhằm tới;
 Một kết cấu hạ tầng tiên tiến;
 Sự chuyển dịch hiệu quả tri thức thành ứng dụng thương mại;
 Các chương trình thương mại hóa và các mối tương tác mạnh với khu vực công
nghiệp.
Thiết lập một NSI thực hiện tốt chức năng ở Canada được bắt đầu từ việc nhận
dạng các phần tử trù liệu là sẽ thực hiện thành công ở hệ thống, nghĩa là cần phải xác
định từng phần tử hoặc từng trạm và những hoạt động tương ứng của chúng dọc theo
chuỗi giá trị. Một điều phải luôn tâm niệm rằng đổi mới không phải là quá trình tuyến
tính. Trái lại, tiến độ ở bất kỳ trạm nào nằm trong chuỗi giá trị được đề xuất có thể và cần
phải thông tin cho cả các trạm nằm ở phía trên lẫn các trạm nằm ở phía dưới của chuỗi.
Một khi hoạt động của mỗi trạm được tối ưu hóa so với năng lực của toàn chuỗi,
thì vấn đề đặt ra là xác định khối lượng tới hạn tối thiểu về con người và mức độ hoạt
động ở mỗi trạm dọc theo chuỗi giá trị mà khi kết hợp lại sẽ tạo thành một hệ thống đổi
mới thực hiện tốt chức năng. Vấn đề then chốt đối với cách tiếp cận này là khả năng mở
rộng cấp độ (scalability) của nó. Dựa vào khả năng của nguồn lực, cần phải nhận dạng
những tỷ lệ cần thiết đối với những nhà khoa học, phát minh và hoạt động nghiên cứu
được nhằm tới, kết cấu hạ tầng, chuyển dịch và thương mại hóa kết quả để nhận được sự
cân đối hài hòa. Các chức năng và trách nhiệm của 3 khu vực chủ yếu trong NSI ở
Canada là:
(1). Khu vực tư nhân: Biến tri thức thành cơ hội
Khu vực tư nhân đóng vai trò trung tâm trong việc biến tri thức thành các sản
phẩm/dịch vụ/công nghệ cho thị trường nội địa và quốc tế. Các doanh nghiệp đầu tư vào
R&D để tạo ra và hoàn thiện các sản phẩm/dịch vụ/quy trình. Và chính khu vực tư nhân
là nơi ra đời của các công ty đổi mới và cạnh tranh, giành được chiến thắng trên trường

quốc tế. Khả năng của họ để đưa những đổi mới vào thị trường đòi hỏi phải có sự dự báo,
chấp nhận rủi ro và ra sức sáng tạo trong việc áp dụng và sử dụng các công nghệ tiên tiến.
Khu vực phi lợi nhuận là nơi hỗ trợ quan trọng cho R&D được thực hiện ở các
trường Đại học Canada. Khu vực này gồm những tổ chức như Killam Trust và các tổ
chức từ thiện về y tế như Quỹ Tim mạch và Hội Ung thư Canada. Năm 2005, khu vực phi
lợi nhuận đã đầu tư gần 800 triệu USD vào R&D, nhờ sự ủng hộ tài chính của các cá
nhân, công ty và Chính phủ.
(2). Khu vực giáo dục đại học: Tạo dựng các thế mạnh R&D của Canada
Hoạt động nghiên cứu ở các trường đại học và bệnh viện giảng dạy có tác dụng
giáo dục sinh viên ở những lĩnh vực tri thức tiên tiến, trong số đó một số sinh viên sau
này sẽ trở thành những nhà nghiên cứu thực thụ, một số khác sẽ theo đuổi sự nghiệp ở tất
cả các ngành kinh tế. Hoạt động nghiên cứu ở khu vực giáo dục đại học cũng là nguồn
then chốt của các ý tưởng và sáng chế.
Trên 80 trường đại học ở Canada đã phát triển các tài năng nghiên cứu và đổi mới
và thực hiện các công trình nghiên cứu. Các nhà khoa học, các bác sĩ và các nhà nghiên
cứu khác đã tham gia vào các công trình nghiên cứu y học ở các bệnh viện giảng dạy và
các cơ sở nghiên cứu của các tổ chức y tế vùng. Ngoài ra, 150 trường đại học phân bổ ở
trên 1000 cộng đồng trên khắp toàn quốc cùng hợp tác với các doanh nghiệp địa phương
để phát triển và ứng dụng những phát triển KH&CN. Ở tất cả các trường hợp, sự đóng
góp lớn nhất của khu vực này là góp phần quan trọng vào việc đào tạo những kỹ năng
KH&CN hết sức trọng yếu cho sinh viên.
(3). Khu vực Chính phủ
a) Các cấp chính quyền tỉnh, vùng và địa phương: Tạo lập ưu thế cạnh tranh vùng
Các cấp chính quyền tỉnh và vùng lãnh thổ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống
KH&CN quốc gia. Họ thực hiện các công trình nghiên cứu, hỗ trợ các trường đại học,
cấp kinh phí cho hoạt động nghiên cứu ở các trường đại học và khu vực tư nhân, ảnh
hưởng tới môi trường kinh doanh thông qua các chính sách thị trường và những biện
pháp khuyến khích về thuế, và hỗ trợ các mạng lưới đổi mới khu vực.
Chính quyền các đô thị cũng ngày càng tham gia hỗ trợ năng lực KH&CN địa
phương, do nhận thức được sự cần thiết phải đưa các cộng đồng của mình lên vị trí hàng

đầu của những phát triển KH&CN thì mới có thể cạnh tranh thành công.
b) Chính phủ liên bang: Tạo mọi điều kiện để đạt được trình độ xuất sắc về KH&CN
Để tạo ra những cơ hội kinh tế và đảm bảo đời sống tốt đẹp cho người dân
Canada, Chính phủ liên bang sẽ:
- Khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào KH&CN;
- Cấp kinh phí cho R&D ở các trường đại học;
- Thực hiện các công trình nghiên cứu KH&CN;
- Nuôi dưỡng các quan hệ đối tác trong nước và quốc tế.
Vai trò quan trọng nhất của Chính phủ liên bang là đảm bảo một thị trường cạnh
tranh và tạo ra một môi trường đầu tư khuyến khích khu vực tư nhân vươn ra cạnh tranh
với thế giới dựa trên cơ sở các sản phẩm/dịch vụ/công nghệ mới của mình. Chính phủ
phải đảm bảo môi trường kinh tế có sức thu hút và khuyến khích đầu tư vào đổi mới,
thông qua việc duy trì tỉ lệ lạm phát thấp và ổn định và thông qua việc thúc đẩy để có
được một môi trường thuế cạnh tranh và một chế độ luật pháp tiên tiến, giảm gánh nặng
vay mượn của Chính phủ, dỡ bỏ các rào cản, thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao thương
mại trong nước và sự cơ động của thị trường lao động.
3) Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung quốc lần đầu tiên áp dụng cách tiếp cận NSI để phát triển chính sách vào
cuối những năm 1990. Công việc này đã dựa trên cơ sở một cuộc xem xét được Chính
phủ Trung Quốc tiến hành với thời gian trên 3 tuần lễ, được tài trợ bởi IDRC, để nâng
cao năng lực quản lý và sự gắn kết của hệ thống. Một trong những thách thức đặt ra cho
công cuộc xem xét này là lĩnh hội được những gì đang diễn ra trong một hệ thống rộng
lớn chứa đựng tới hơn 25.000, thậm chí có thể lên tới 32.000 cơ quan R&D trên cả nước,
cùng với nhiều Chương trình Chính phủ ở cấp TƯ, cấp tỉnh, một số trường hợp thậm chí
còn ở cấp đô thị. Trong phạm vi Chính phủ TƯ, Ủy ban KH&CN Nhà nước (Nay là Bộ
KH&CN) đã chịu trách nhiệm đối với hàng tá Chương trình tài trợ lớn.
Tháng 1/2006, Trung Quốc đã thông qua Kế hoạch trung hạn và dài hạn phát triển
KH&CN cho giai đoạn 2006-2020 với mục tiêu xây dựng một NSI mang màu sắc Trung
Quốc và lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Thông qua Bản kế hoạch này, Trung Quốc đã
thể hiện một tầm nhìn dài hạn, tư duy toàn cầu và cách tiếp cận NSI trong định hướng

chiến lược phát triển KH&CN.
Bản kế hoạch đặt mục tiêu tổng quát đến năm 2020 Trung Quốc phải:
 Cải thiện đáng kể năng lực đổi mới về KH&CN của đất nước;
 Tạo khả năng thúc đẩy hoạt động KT-XH, giữ gìn an ninh quốc gia thông qua việc
hoàn thiện năng lực đổi mới KH&CN, hướng tới xây dựng một xã hội hài hòa;
 Đẩy mạnh và tăng cường năng lực nghiên cứu cơ bản và các công nghệ tiên tiến;
 Tạo ra những thành tựu KH&CN ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu;
 Nằm trong số các quốc gia định hướng vào đổi mới (Innovation-Oriented Country)
để trở thành cường quốc thế giới về KH&CN vào giữa thế kỷ 21.
Như vậy, Trung Quốc đã khẳng định và thực hiện định hướng hoạt động KH&CN
theo cách tiếp cận xây dựng năng lực đổi mới KH&CN, và lấy năng lực đổi mới KH&CN
làm nòng cốt xây dựng Trung Quốc trở thành một quốc gia định hướng đổi mới, thể hiện
sự bắt kịp và tương hợp của Trung Quốc với bối cảnh toàn cầu hóa của thời đại ngày nay,
khi mà năng lực đổi mới của quốc gia trở thành tiền đề cho sự phát triển của đất nước.
Với những mục tiêu của kế hoạch, Trung Quốc thể hiện ý đồ rất rõ ràng muốn
vươn lên trở thành một cường quốc về KH&CN trên thế giới cả về đầu tư và thành tựu
KH&CN. Đồng thời thể hiện cách tiếp cận đưa KH&CN lan tỏa nhanh chóng vào trong
các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế mà không chỉ dừng lại ở các mục tiêu thuần
túy về KH&CN. Để thực thi các định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, Bản kế
hoạch đưa ra giải pháp cải cách hệ thống KH&CN, xây dựng NSI mang màu sắc Trung
Quốc liên quan đến chính sách tài khoá, chi tiêu của khu vực công, sở hữu trí tuệ và tiêu
chuẩn, phối kết hợp giữa KH&CN quân sự và dân sự, hợp tác quốc tế và mở rộng các
liên kết đổi mới trong nước, nâng cao dân trí về KH&CN. Kế hoạch cũng nhấn mạnh vai
trò của đầu tư xây dựng hạ tầng KH&CN và đào tạo nhân lực cho KH&CN. Với giải
pháp này, Trung Quốc đã đặt hệ thống KH&CN vào một khuôn khổ rộng lớn hơn để định
hướng phát triển KH&CN trong sự gắn kết với các hệ thống tài chính, các định chế về sở
hữu trí tuệ, tiêu chuẩn và các yếu tố khác thuộc hạ tầng KH&CN. Việc cải cách hệ thống
KH&CN được xác định sẽ hướng vào hỗ trợ các doanh nghiệp, thay vì các tổ chức
KH&CN để doanh nghiệp trở thành chủ thể chính của hoạt động đổi mới công nghệ, coi
đó là tiền đề quan trọng để xây dựng năng lực đổi mới và hình thành hệ thống đổi mới

quốc gia.
Bản kế hoạch xác định mục tiêu của hệ thống KH&CN Trung Quốc là biến đổi trở
thành hệ thống đổi mới quốc gia, trong đó hệ thống này được xác định là hệ thống xã hội
trong đó Chính phủ đóng vai trò chủ đạo, doanh nghiệp là trung tâm, thị trường đóng vai
trò cơ bản, nền tảng trong huy động nguồn lực, các tác nhân, chủ thể đổi mới khác cộng
tác và liên kết chặt chẽ với nhau một cách hiệu quả trong môi trường đổi mới.
Ngoài cách hiểu thông thường về NSI, Bản kế hoạch đã cụ thể hóa thành 4 bộ phận cấu
thành chủ yếu là:
 Hệ thống đổi mới công nghệ trong đó doanh nghiệp là chủ thể chính;
 Hệ thống đổi mới tri thức trong đó các viện nghiên cứu công cùng cộng tác với các
viện nghiên cứu ở trường đại học là chủ thể chính;
 Hệ thống đổi mới quốc phòng bao gồm các khu vực dân sự và quốc phòng;
 Hệ thống đổi mới vùng bao gồm các vùng với các đặc thù và thế mạnh riêng.
4) Kinh nghiệm của các nước châu Mỹ Latinh
a) Chilê
Một công trình xem xét quan trọng được tiến hành ở Chilê năm 1998. Những mục
tiêu chung của công trình này là xem xét, đánh giá và báo cáo về: Những chính sách,
chương trình, ưu tiên và những công cụ chính sách được quản lý bởi Ủy ban KH&CN
Quốc gia (CONICYT) để thúc đẩy sự phát triển và ứng dụng KH&CN ở Chilê; Những
mối tương tác giữa các công cụ chính sách chính của CONICYT với các công cụ chính
sách khác để hỗ trợ các hoạt động KH&CN ở Chilê (đặc biệt là những công cụ chính sách
được điều phối trong phạm vi Chương trình Đổi mới Công nghệ ) và tác động của những
công cụ chính sách đó tới hiệu quả hoạt động KH&CN ở các trường đại học, doanh
nghiệp và các viện nghiên cứu ở Chilê;
Môi trường chính sách và thể chế trong đó CONICYT vận hành.
Đặc biệt, công trình xem xét này đề ra nhiệm vụ đánh giá việc thiết kế, quản lý, hiệu quả
và sự tiến hóa khả dĩ trong tương lai của 2 công cụ chính sách lớn của CONICYT, cụ thể
như sau:
 Khả năng của 2 công cụ đó trong việc đáp ứng những mục tiêu đã đề ra liên quan
tới nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và xây dựng năng lực nguồn nhân

lực;
 Hiệu quả của 2 công cụ đó trong việc đảm bảo chất lượng, tính liên quan và tính
bền vững của các hoạt động được hỗ trợ, căn cứ vào những mục tiêu KT-XH và
văn hóa của Chilê;
 Năng lực của 2 công cụ đó trong việc ứng phó với những nhu cầu thay đổi, những
cơ hội và khuôn mẫu nghiên cứu trong KH&CN;
 Mức độ đầy đủ về cơ sở nguồn lực cung cấp cho 2 công cụ đóm căn cứ vào nhu
cầu và tình hình kinh tế vĩ mô của Chilê.
Công trình này đã thực hiện việc xem xét và đánh giá cần thiết dựa trên cơ sở
những thực tiễn quốc tế đã được xác lập. Kết quả then chốt của nó là đã đạt được sự cân
đối hiệu quả hơn của các Chương trình nghiên cứu mang tính hợp tác và cạnh tranh nhau.
Trong quá trình xem xét, một điều đã được nhận thức là có mối liên hệ cốt lõi giữa hoạt
động patent và cơ sở khoa học của quốc gia-một vấn đề mang tính đặc thù chung cho
nhiều quốc gia đang phát triển. Các Chương trình nhằm tăng cường các mối liên kết giữa
khu vực hàn lâm và khu vực công nghiệp đã được xây dựng và đưa vào vận hành. Ví dụ,
vai trò then chốt của Quỹ đổi mới Chilê ở ngành công nghiệp khai thác chế biến cá hồi,
dẫn tới sự gia tăng rất lớn năng lực xuất khẩu đã cho thấy rằng đổi mới và chuyển giao
công nghệ có thể được quản lý một cách chiến lược để phục vụ lợi ích quốc gia nhờ
những cơ quan được nhằm vào khi được cung cấp đầy đủ nguồn lực.
b) Các công trình xem xét của Ngân hàng Liên châu Mỹ (IDB)
IDB đã tài trợ các Chương trình KH&CN của các nước thành viên từ những năm
60 của thế kỷ trước. Gần đây, chính sách của IDB đã tiến hóa để đáp ứng những thách
thức về quản lý đổi mới, chứ không chỉ thuần túy hỗ trợ cho R&D. Việc đưa sự chú trọng
đổi mới vào các chương trình tài trợ KH&CN của mình đã khiến IDB phải tiến hành khảo
sát tình hình vận hành NSI ở từng quốc gia để làm căn cứ tài trợ. Những công trình xem
xét của IDB dựa trên phương pháp luận này đã được thực hiện cho các quốc gia nhỏ và
trung bình trong khu vực như: Venezuela (1998), El Salvador và Guytemala (1999),
Ecuador và Panama (2001), Peru (2002) và Dominic (2003). Các công trình phân tích đã
nhận dạng những nhược điểm cơ bản nhất trong NSI của những quốc gia được khảo sát,
đã tập trung vào việc thiết kế những công cụ chính sách để có thể khắc phục những vấn

đề xét thấy là nghiêm trọng nhất trong số những nhược điểm phát hiện thấy. Do sử dụng
một phương pháp luận chung, nên các công trình phân tích có thể nhận dạng ra những
vấn đề chung và khác nhau. Tập hợp những vấn đề phức tạp nhất của các vấn đề tồn tại ở
các quốc gia đó là họ đều thiếu một thị trường hiệu quả cho các dịch vụ công nghệ. Điều
này đặc biệt nghiêm trọng đối với các quốc gia nhỏ ở Trung Mỹ và Caribê, cũng như
Peru.
Ba phát hiện then chốt đối với các nước châu Mỹ Latin được nêu ra như sau:
a) Không có thị trường hiệu quả cho các công nghệ nội sinh và dịch vụ công nghệ vì:
 Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) không có khả năng chuyển hóa những nhu
cầu công nghệ thực sự của mình thành các nhu cầu kinh tế hiệu quả;
 Hầu như chưa có một cơ quan nào ở bất cứ ngành nào có được thành tựu trong
việc phát triển công nghệ phục vụ cho SME;
 Có ít các nguồn vốn để thúc đẩy thay đổi kỹ thuật;
 Không có một hệ thống trung gian hiệu quả để đưa các thành viên khác nhau xích
lại gần nhau trong bối cảnh những dự án đặc thù và không có sẵn những cơ chế để
nhận dạng nhu cầu kỹ thuật chung của các nhóm doanh nghiệp;
 Hầu như không có truyền thống hợp tác giữa các tổ chức hàn lâm, hoặc giữa
những tổ chức KH&CN của Chính phủ với khu vực tư nhân trong công cuộc liên
quan đến thay đổi kỹ thuật;
b) Không đầu tư hoặc xây dựng những biện pháp “tạo dựng lòng tin” để nối liền những
hố ngăn cách tồn tại từ lâu nay;
c) Tồn tại những nhược điểm lớn (chủ yếu liên quan đến thiếu kinh nghiệm và kỹ năng
quản lý ) ở hầu hết các tổ chức công được kỳ vọng là sẽ đóng góp vai trò trong việc khắc
phục những vấn đề liên quan đến hệ thống.
Những phát hiện trên đã góp phần đi đến những nhận định dưới đây:
 Các nước được xem xét đều có cơ cấu và môi trường chính sách thiếu coi trọng
đúng mức công tác phát triển và/hoặc truyền bá các tri thức đã được làm thích ứng
với các điều kiện kinh tế của địa phương;
 Thiếu hoặc yếu về các tổ chức xúc tác để giúp giảm bớt phí tổn giao dịch liên quan
đến việc tiếp thu thông tin và tri thức phù hợp;

 Sự khuếch trương kinh tế mất cân đối, quá nhấn mạnh đến phương diện cạnh tranh
mà xem thường sự hợp tác trong việc xây dựng các quy tắc cơ bản và kết cấu hạ
tầng;
 Quá nhiều những tác nhân kinh tế vẫn còn chưa sẵn sàng để trở thành những
doanh nghiệp hùng mạnh.

Xử lý: Kiều Gia Như


TÀI LIỆU THAM KHẢO
The Relevance of National System of Innovation Approach to Mainstreaming Science
and Technology for Development, Mullin Consulting Ltd, Canada, 2006.

×