Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Chất lượng hoạt động Cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng VIB Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.16 KB, 65 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập và làm chuyên đề tốt nghiệp, em đã nhận được
hướng dẫn tận tình của PGS.TS Vũ Duy Hào và sự chỉ bảo nhiệt tình của các anh
chị trong phòng quản lý tín dụng của ngân hàng VPBank – chi nhánh Thăng Long.
Em xin gửi lời cảm ơn PGS. TS Vũ Duy Hào đã chỉnh sửa đề cương và hướng dẫn
chi tiết quy trình làm chuyên đề và cách làm chuyên đề sao cho khoa học nhất. Em
cũng xin cảm ơn các anh chị trong ban quản lý tín dụng đã cung cấp số liệu và chỉ
dẫn những kinh nghiệm thực tế giúp chuyên đề của em hoàn chỉnh hơn. Trong quá
trình làm chuyên đề, do thời gian tìm hiểu và nghiên cứu có hạn nên còn nhiều
thiếu xót, có những vấn đề chưa đề cập đến hoặc được đề cập đến nhưng vẫn
không đầy đủ. Em kính mong thầy, các anh chị và các bạn đóng góp thêm ý kiến.
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
VPBank Ngân hàng thương mại cổ phần thương mại Việt Nam
Thịnh Vượng
DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng nhà nước
KH Khách hàng
NH Ngân hàng
SXKD Sản xuất kinh doanh
VNĐ Việt Nam đồng
DN Doanh nghiệp
TSĐB Tài sản đảm bảo
A/O Phòng quan hệ khách hàng
C/A Phòng quản lý tín dụng
HĐTD Hợp đồng tín dụng
TGĐ Tổng giám đốc
GĐ Giám đốc
LỜI MỞ ĐẦU
Từ nhiều năm nay, những nước có nền kinh tế phát triển rất coi trọng sự phát


triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi loại hình doanh nghiệp này góp phần
2
khá quan trọng trong việc tăng thêm thu nhập và tạo công ăn việc làm cho người
lao động, đưa tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân ngày một tăng cao. Ở
nước ta, nhờ có vốn tín dụng ngân hàng cho vay và vốn tự có của doanh nghiệp đã
góp phần giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ khai thác tiềm năng kinh tế từ nhiên,
sức lao động của mỗi vùng đưa vào sử dụng có hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đã
đứng vững trong nền kinh tế thị trường và thực tế ngày càng khẳng định các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế, thực hiện
đường lối đổi mới phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Nhận thức được tầm
quan trọng đó của doanh nghiệp vừa và nhỏ, các ngân hàng thương mại trong
nước đã và đang quan tâm rất nhiều đến đối tượng khách hàng này. Tuy nhiên,
hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các ngân hàng thương mại hiện
nay chưa thu được hiệu quả cao, nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được với
nguồn vốn vay một cách kịp thời làm mất đi cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong thời gian thực tập tại VPBank – chi nhánh Thăng Long, nhận thấy
hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ rất được chú trọng và doanh nghiệp
vừa và nhỏ là một trong những đối tượng khách hàng được ngân hàng quan tâm và
hướng tới. Hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng ngày càng
phát triển nhưng chất lượng cho vay chưa tốt và vẫn còn một số hạn chế cần khắc
phục. Vì thế, đề tài: “Nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng – chi nhánh Thăng Long”
được lựa chọn nghiên cứu nhằm tìm ra những hạn chế và biện pháp khắc phục để
hoạt động này thu được kết quả tốt nhất. Trong chuyên đề tốt nghiệp này có những
nội dung cơ bản sau đã được nghiên cứu:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của
ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân
hàng VPBank – chi nhánh Thăng Long
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ

tại VPBank – chi nhánh Thăng Long
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1Hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại
3
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh
tế của hầu hết các nước trên thế giới. Ở mỗi nước khác nhau có nền kinh tế phát
triển khác nhau theo từng thời kỳ phát triển kinh tế nên có tiêu chuẩn khác nhau để
xác định quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo tiêu chí đánh giá của Nhóm Ngân hàng thế giới, doanh nghiệp vừa và
nhỏ chia thành 3 loại là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp
vừa. Doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người,
doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, doanh nghiệp
vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Bảng 1: Phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thế giới
Loại hình doanh
nghiệp
Số người lao động
(người)
Doanh thu hàng
năm (triệu USD)
Tổng tài sản
(triệu USD)
Doanh nghiệp siêu nhỏ 1-9 <0,1 <0,1
Doanh nghiệp nhỏ 10-49 <3 <3
Doanh nghiệp vừa 50-300 <15 <5
(Nguồn: )
Ở nước ta, mỗi giai đoạn kinh tế khác nhau có những quy định khác nhau về
DNVVN. Năm ………., văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tiêu chí xác định

DNVVN là công văn số 681/CP-KTN của Chính phủ về định hướng chính sách và
phát triển doanh ngiệp vừa và nhỏ. Theo đó, tạm thời quy định thống nhất tiêu chí
xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn lúc đó là những
doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng
năm dưới 200 người. Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, các
DNVVN ngày càng phát triển về quy mô lượng và chất, vốn điều lệ của các doanh
nghiệp này tăng lên khá nhanh. Căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể, năm 2001 Chính phủ
đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp và phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ quy định lại như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh
doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người.
Khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới, nền kinh tế nước ta đã có nhiều
thay đổi và phát triển. Theo đó, DNVVN cũng ngày càng phát triển về số luợng
lẫn quy mô. Năm 2009, Chính phủ tiếp tục ban hành văn bản mới liên quan đến
4
DNVVN là Nghị định số 56/2009/NĐ_CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển
DNVVN. Theo đó, DNVVN là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa theo quy mô tổng
nguồn vốn (tổng vốn tương đương với tổng tài sản được xác định trên bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là
tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Bảng 2: Phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của Chính phủ
Quy mô
Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động Tổng nguồn

vốn
Số lao động Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I.Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
II.Công
nghiệp và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người

từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
III.Thương
mại và dịch
vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50
người đến 100
người
(Nguồn Điều 3 Nghị định 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ)
1.1.2 Vai trò và đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
1.1.2.1 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN là một loại hình doanh nghiệp không những thích hợp đối với nền
kinh tế của những nước công nghiệp phát triển mà còn đặc biệt thích hợp với nền
kinh tế của những nước đang phát triển. Ở nước ta, việc phát triển các DNVVN
được quan tâm rất nhiều từ phía Chính phủ. DNVVN ở mỗi nước khác nhau sẽ có
những đặc điểm khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước. ở nước

ta, DNVVN có những đặc điểm cụ thể như sau:
* DNVVN có vốn đầu tư ban đầu không lớn
DNVV ra đời với những xuất phát điểm thấp kể cả vốn và lao động. Hầu hết
các DNVVN thành lập ban đầu với số vốn đầu tư không lớn nên chu kỳ sản xuất
5
kinh doanh thường ngắn dẫn đến khả năng thu hồi vốn nhanh tạo điều kiện cho
doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả. Với số lượng vốn ít, DNVVN sẽ khó mở các
lớp đào tạo nâng cao tay nghề nghiệp vụ cho các nhân viên dẫn đến trình độ lao
động thấp và không thu hút được lao động tay nghề cao như các doanh nghiệp lớn.
Tuy nhiên, do quy mô vừa và nhỏ nên công tác điều hành thường mang tính trực
tiếp, các quy định được thực hiện nhanh chóng, công tác kiểm tra, giám sát được
tiến hành chặt chẽ, không phải qua nhiều khâu trung gian vì vậy rất gọn nhẹ và tiết
kiệm nhiều chi phí quản lý. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa người lao động của
người sử dụng lao động khá chặt chẽ, gắn bó, tạo môi trường làm việc tốt, người
quản lý luôn bám sát công việc của người lao động nên nếu có mâu thuẫn xảy ra
cũng dễ dàng giải quyết để cân bằng giữa lợi ích của người lao động với lợi ích
của người sử dụng lao động.
* DNVVN phát triển đa dạng trên nhiều lĩnh vực
DNVVN tồn tại và phát triển ở hầu hết các lĩnh vực, các thành phần kinh tế,
hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế: thương mại, dịch vụ, công
nghiệp, xây dựng, nông lâm nghiệp… và hoạt động dưới mọi hình thức như:
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở kinh tế cá
thể…, phát triển ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề, phát triển rộng khắp ở cả thành
thị lẫn nông thôn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* DNVVN hoạt động năng động linh hoạt trên thị trường
DNVVN có tính năng động cao trước những thay đổi của thị trường, các
DNVVN có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng
nhanh. Mặt khác, do DNVVN tồn tại ở mọi thành phần kinh tế, sản phẩm của các
DNVVN đa dạng phong phú nhưng số lượng không lớn nên chỉ cần không thích

ứng được với nhu cầu của thị trường, với loại hình kinh tế – xã hội này thì nó sẽ dễ
dàng hơn các doanh nghiệp lớn trong việc chuyển hướng sang loại hình khác cho
phù hợp với thị trường. Vì thế DNVVN được coi là liều thuốc “giảm sóc” cho nền
kinh tế.
* Doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực kinh doanh còn hạn chế
Do quy mô vốn nhỏ nên các DNVVN không có điều kiện đầu tư quá nhiều
vào nâng cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Việc sử dụng các công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao, tính
6
cạnh tranh trên thị trường kém. DNVVN cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tìm
kiếm, thâm nhập thị trường và phân phối sản phẩm do thiếu thông tin về thị
trường, công tác marketing còn kém hiệu quả. Điều đó làm cho các mặt hàng của
DNVVN khó tiêu thụ trên thị trường và không cạnh tranh được với các doanh
nghiệp lớn nên rất dễ bị thâu tóm và sát nhập.
* Năng lực quản lý ở doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp
Đây là loại hình kinh tế còn non trẻ nên trình độ, kỹ năng của nhà lãnh đạo
doanh nghiệp cũng như của người lao động còn hạn chế. Số lượng DNVVN có
chủ doanh nghiệp giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt
chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân
chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế –
xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh. Mặt khác, DNVVN ít có khả năng thu hút
được những nhà quản lý và lao động có trình độ, tay nghề cao do khó có thể trả
lương cao và có các chính sách đãi ngộ hấp dẫn để thu hút và giữ chân những nhà
quản lý cũng như người lao động giỏi.
Với những đặc điểm trên, cho thấy DNVVN không chỉ tồn tại trên nhiều lĩnh
vực và ngành nghề mà còn đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển của mỗi nước
trên thế giới. Điều này được thể hiện trong mục tiếp theo: vai trò của DNVVN
trong nền kinh tế.
1.1.2.2 Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
DNVVN luôn có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước. Trong

bối cảnh nền kinh tế mới hồi phục sau cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát đang
xảy ra tại nhiều quốc gia trên thế giới, các nước đều chú trọng đến hỗ trợ các
DNVVN nhằm huy động tối đa nguồn lực trong nền kinh tế để đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế và góp phần ổn định nền kinh tế. Đối với Việt Nam, nền kinh tế còn
đang phát triển, nguồn vốn và thiết bị công nghệ còn lạc hậu, DNVVN càng đóng
vai trò quan trọng. Ở mỗi nước khác nhau, DNVVN có những vai trò khác nhau
đối với nền kinh tế, ở Việt Nam DNVVN có một số vai trò sau:
* Tạo ra số lượng việc làm cho người lao động
Nhiều DNVVN ở nước ta yều cầu trình độ lao động thấp (tốt nghiệp phổ
thông trung học) nên thu hút một lượng lớn lao động trên thị trường với chi phí
thấp. Một bộ phận lớn người lao động ở nước ta còn ở trình độ phổ thông, nên rất
7
khó tham gia vào những doanh nghiệp lớn với những công nghệ và thiết bị tiên
tiến, hiện đại nên DNVVN đã tạo ra một khối lượng việc làm lớn cho bộ phận này.
Khi nền kinh tế khủng hoảng, các doanh nghiệp lớn buộc phải cắt giảm lao
động để giảm chi phí sản xuất đến mức thấp nhất để có thể tồn tại và cạnh tranh
trên thị trường. Nhưng đối với DNVVN do đặc tính nhỏ gọn, linh hoạt nên dễ
dàng thích nghi với thay đổi của thị trường nên vẫn có thể hoạt động được. Các
doanh nghiệp này không những giảm lao động mà vẫn thu hút được thêm lao
động. Điều này góp phần tạo nguồn thu ổn định cho người lao động, làm giảm bớt
chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư và sự phát triển đồng đều giữa các
vùng miền trong cả nước. DNVVN còn được đánh giá là liều thuốc “giảm sóc”
cho nền kinh tế khi có những biến động bất ngờ xảy ra như suy giảm kinh tế,
khủng hoảng kinh tế.
*Đảm bảo tính năng động cho nền kinh tế
Sự tham gia ngày càng đông đảo vào quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm tăng rất nhanh
và đa dạng, tạo ra nguồn sản phẩm dồi dào cho xã hội. Điều đó đã làm tăng tính
cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường
xuyên đổi mới sản phẩm, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm để thích

ứng với sự thay đổi của thị trường. Từ đó, góp phần làm cho nền kinh tế năng
động, hiệu quả hơn.
*Phát huy và tận dụng các nguồn lực góp phần tăng trưởng kinh tế
Về nguồn vốn, DNVVN thường khởi sự ban đầu với số vốn tương đối nhỏ,
do đó những cá nhân có vốn ít trong dân cư có thể tham gia đầu tư vào các
DNVVN hoặc đứng ra thành lập DNVVN để kinh doanh, qua đó có thể thu hút
được nguồn vốn trong dân cư vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Về lao động, các DNVVN thường yêu cầu trình độ lao động không cao. Bên
cạnh đó phần lớn lao động ở Việt Nam lại có ít kinh nghiệm và tay nghề không
cap nên các DNVVN tận dụng được nguồn lao động này với chi phí thấp.
DNVVN không phải đào tạo nhiều thời gian, tốn kém chi phí mà chỉ cần bồi
dưỡng hay đào tạo ngắn ngày là người lao động có thể tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Về nguyên liệu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ do có nguồn vốn hạn chế, lao
động phổ thông là chính nên nguồn nguyên liệu chủ yếu là tại chỗ, thuộc phạm vi
8
địa phương, dễ khai thác sử dụng từ đó bên cạnh việc tạo điều kiện giải quyết công
ăn việc làm cho lao động địa phương mà còn khai thác được nguồn tài nguyên sức
lao động ở địa phương một cách triệt để mà tốn ít chi phí.
Về kỹ thuật, DNVVN thường sử dụng kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động
và khả năng vốn, kỹ thuật mà đa số quần chúng lao động có thể nhanh chóng tiếp
thu và sử dụng được, ít sử dụng những kỹ thuật hiện đại đòi hỏi vốn lớn, đào tạo
sử dụng lâu, tốn kém chi phí. Vì thế, đa số trang thiết bị các doanh nghiệp này sử
dụng là sản phẩm trong nước.
*Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh
Cùng với sự phát triển DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều các nhà
kinh doanh trẻ, tài năng. Đây là lực lượng cần thiết để góp phần thúc đẩy nền kinh
tế Việt Nam phát triển. Đội ngũ các nhà kinh doanh có năng lực ở nước ta còn
khiêm tốn cả về số lượng và chất lượng do nhiều yếu tố cả chủ quan lẫn khách
quan. Trong những năm đổi mới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện ngày

càng nhiều với những gương mặt quản lý rất trẻ và năng động.
Tóm lại, các DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Tuy nhiên do quy mô nhỏ, tốc độ phát triển kinh tế của thị trường và sự cạnh tranh
trong nền kinh tế thúc đẩy các DNVVN phải có thêm vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh, xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị,… Ngân hàng là tổ chức
tín dụng được các DNVVN tìm đến vay vốn nhiều nhất bởi lãi suất linh hoạt được
áp dụng ở hầu hết các ngân hàng. Các ngân hàng cũng ngày càng chú trọng hơn
với hoạt động cho vay loại hình doanh nghiệp này. Ở mỗi ngân hàng khác nhau có
các hình thức cho vay DNVVN khác nhau.
1.1.3 Các hình thức cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương
mại
Cho vay là hoạt động theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận.
Cho vay là hoạt động vô cùng quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất của
NHTM. Cho vay khách hàng doanh nghiệp chiếm 70% hoạt động cho vay của hầu
hết các ngân hàng ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, các DNVVN chiếm đa số
trong tổng số doanh nghiệp của nền kinh tế, nhu cầu vốn cho bộ phận doanh
nghiệp này là không hề nhỏ. Chính vì thế cho vay DNVVN đang được nhiều
NHTM quan tâm. Mỗi ngân hàng khác nhau có các hình thức cho vay khách hàng
9
doanh nghiệp khác nhau. Sau đây là cách phân loại cho vay chung nhất của các
ngân hàng đối với DNVVN.
Căn cứ theo thời hạn cho vay
Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng và để bù đắp sự
thiếu hụt vốn lưu động cho các doanh nghiệp.
Cho vay trung hạn là các món vay có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng.
Cho vay trung hạn chủ yếu để mua sắm tài sản cố định, đổi mới thiết bị công nghệ,
mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và khả năng thu
hồi vốn nhanh, hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp đặc
biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.

Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 60 tháng và thời hạn tối đa
có thể lên 20-30 năm. Mục đích cho vay dài hạn nhằm tài trợ cho các công trình
xây dựng cơ bản như xây dựng nhà ở, sân bay, cầu đường, các thiết bị vận tải có
quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới….
Căn cứ theo phương thức cho vay
*Cho vay thấu chi
Cho vay thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định
và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, doanh nghiệp làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và
thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình
hoạt động, doanh nghiệp có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ… vượt số dư
tiền gửi để chi trả (song song hạn mức thấu chi). Khi doanh nghiệp có tiền nhập về
tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà doanh nghiệp phải trả
là:
Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thầu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử
dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của doanh nghiệp không
phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa
vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thanh toán, chủ động, kịp
thời.
10
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần
lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày
trong tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản nộp, mua
hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với doanh nghiệp có độ tin cậy
cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
* Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân

hàng đối với các doanh nghiệp không có nhu cầu vay thường xuyên, không có
điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số doanh nghiệp sử dụng vốn chủ sở
hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng
sản xuất đặc biệt mới đi vay ngân hàng, vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một
giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay, doanh nghiệp phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử
dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích doanh nghiệp và ký hợp đồng cho vay, xác
định mức cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo
nếu cấn. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ)
khác nhau.
Nhu cầu vay NH = Chi phí cần thiết cho SXKD – Vốn tự có – Vốn khác
Trong đó:
Chi phí cần thiết
cho SXKD
=
Giá trị
hợp đồng
-
Khấu hao
cơ bản
- Thuế -
Lợi nhuận định
mức cho SXKD
Nếu cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo:
Mức cho vay =
Giá trị tài
sản đảm bảo
x
Tỷ lệ cho vay trên giá trị
tài sản đảm bảo

Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá
trình doanh nghiệp sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả
sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn
hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính
lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát
từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo.
* Cho vay theo hạn mức
11
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho doanh
nghiệp hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Mỗi lần vay, doanh nghiệp chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp
các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi
kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ giải ngân cho
doanh nghiệp.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những doanh nghiệp vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi doanh
nghiệp có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho
doanh nghiệp. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ
thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có
thể phát triển vấn đề khi doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không
giảm sút.
* Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để
mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý, người
vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và doanh nghiệp thỏa thuận
với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và

khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong 1 năm hoặc vài
năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn ngân hàng xem xét lại
mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp cũng như tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa nên cả ngân hàng và doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch luân chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân
quỹ trong thời gian tới.
Khi vay doanh nghiệp chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập
hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình
thức này, giá trị hàng hóa mua vào (có hóa đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng)
đều là đối tượng được ngân hàng cho vay, thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi
trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng
12
và chất lượng và tình trạng nợ của người vay. Cho vay luân chuyển thường được
áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có
chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho doanh nghiệp. Thủ tục cho vay chỉ
cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Doanh nghiệp được áp dụng nhu cầu vốn
kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung ứng sẽ nhanh gọn.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ
ràng.
* Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép doanh
nghiệp trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã theo thỏa thuận. Cho vay
trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho
tài sản cố định và tài sản lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù
hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của doanh
nghiệp, hoặc từ thu nhập sau thuế của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn

mức nhất định ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà doanh
nghiệp đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận tiền ngay sau khi bán hàng từ
phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc doanh nghiệp trả trực
tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ người mua nhằm khuyến
khích tiêu thụ hàng hóa.
Cho vay trả góp rủi ro cao do doanh nghiệp thường thế chấp bằng hàng hóa
mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu
người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng
cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi
suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
* Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng
cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông
qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ… Các tổ chức này thường liên kết các thành
13
viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi
cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xóa đói giảm nghèo
luôn được các tổ chức này quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt đông cho vay sang các tổ
chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng
ra bảo đảm cho các thành viên vay hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho
một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ
tài sản thế chấp.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu
vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử
dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay
nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay

qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay.
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng.
Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế
của mình để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác
cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc
với giá đắt cho người vay vốn.
Căn cứ vào tính chất đảm bảo của khoản vay
* Cho vay có tài sản đảm bảo
Là loại cho vay dựa trên cơ sở các tài sản đảm bảo như cầm cố, thế chấp
hoặc có đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba.
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng có tài sản đảm bảo
khi nhận tín dụng. Lý do là khách hàng phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh,
có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Những biến cố không mong đợi có thể
mang lại cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vây, trừ những khách hàng
có uy tín cao, nhiều ngân hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng mà ngân
hàng yêu cầu, ngân hàng muốn có nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là
nguồn thu từ hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ. Hiện nay, hầu hết các
khoản vay đều phải có tài sản đảm bảo.
* Cho vay không có tài sản đảm bảo
14
Cho vay không có tài sản đảm bảo là việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng đi vay không cần tài sản cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh bằng
tài sản của bên thứ ba.
Cho vay không có tài sản đảm bảo thông thường dành cho những khách hàng
có uy tín cao, khách hàng truyền thống, khách hàng có tình hình tài chính lành
mạnh, kinh doanh thường xuyên có lãi,… Tuy nhiên, đây là hình thức mang nhiều
rủi ro cho ngân hàng, ngân hàng cần thẩm định kỹ khách hàng trước khi cho vay.
1.2 Chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân
hàng thương mại

Chất lượng cho vay nói chung tại NHTM là chất lượng của các khoản cho
vay của NHTM. Các khoản cho vay có chất lượng khi vốn vay được khách hàng
sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, tạo ra số tiền lớn hơn, thông qua đó ngân hàng
thu hồi được gốc và lãi, còn doanh nghiệp có thể trả được nợ bù đắp chi phí và thu
lợi nhuận. Điều này có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế lại tạo được
hiệu quả xã hội. Chất lượng cho vay DNVVN của NHTM không chỉ phụ thuộc
vào ngân hàng hay doanh nghiệp mà còn chịu những tác động từ môi trường kinh
tế bên ngoài. Vì vậy khi xem xét chất lượng cho vay DNVVN của NHTM cần xét
trên ba giác độ: chất lượng cho vay đối với ngân hàng thương mại, doanh nghiệp
và nền kinh tế.
Trước hết, chất lượng cho vay xem xét trên giác độ của NHTM. Đối với
NHTM, một khoản vốn cho vay được coi là có chất lượng khi phạm vi, giới hạn,
mức độ cho vay phù hợp với khả năng tài chính của ngân hàng, đảm bảo đúng
nguyên tắc cho vay chung của NHNN và các quy định riêng của từng ngân hàng,
hạn chế thấp nhất mức độ rủi ro trong suốt quá trình kinh doanh của ngân hàng.
Thu nhập từ hoạt động cho vay của ngân hàng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
thu nhập của ngân hàng nhưng bên cạnh đó cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Do đó,
việc đảm bảo an toàn vốn vay là mục tiêu quan trọng bên cạnh mục tiêu lợi nhuận
của ngân hàng. Chất lượng cho vay tốt là kết quả của một quy trình hoạt động có
sự phối hợp giữa các phòng ban bộ phận sao cho thu được tối đa lợi nhuận cho
ngân hàng nhưng đồng thời đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng nhằm tạo uy
tín cho ngân hàng, đem lại sự hài lòng nhất đến cho khách hàng.
15
Chất lượng cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp thể hiện ở các khoản
vay ngân hàng với lãi suất hợp lý, phí suất tín dụng vừa đảm bảo nhu cầu vốn hợp
lý cho sản xuất của doanh nghiệp của đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp
và thủ tục vay vốn đơn giản. Bên cạnh đó, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn
của doanh nghiệp một cách kịp thời, tiến độ giải ngân nhanh chóng đảm bảo an
toàn, uy tín và sự thân thiện trong giao dịch với khách hàng. Các khoản vay vốn từ
ngân hàng của doanh nghiệp được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh

một cách đúng mục đích, hiệu quả để tạo ra được một số tiền lớn hơn, đủ để trang
trải chi phí và có lợi nhuận làm cơ sở cho việc hoàn trả khoản vay ngân hàng và
doanh nghiệp giữ lại được lợi nhuận cho mình.
Chất lượng cho vay xét trên giác độ nền kinh tế. Chất lượng cho vay tốt là
phải phục vụ tốt cho sản xuất và lưu thông hàng hóa cho nền kinh tế, góp phần
giải quyết công ăn việc làm, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội, khai thác mọi tiềm năng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với mục tiêu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng
tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, chất lượng cho vay là một khái niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Để
có chất lượng cho vay cao thì hoạt động cho vay của ngân hàng phải có hiệu quả
và quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp phải được thiết lập trên cơ sở
tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau tạo hiệu quả tốt cho cả hai bền và góp phần chung
vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Để hiểu rõ hơn về chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ và nâng cao
chất lượng cho vay thì cần tìm hiểu các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất
lượng cho vay của ngân hàng.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Ngân hàng thương mại
Các chỉ tiêu định tính
* Tuân thủ theo cơ sở pháp lý, nguyên tắc và quá trình tín dụng
Hoạt động cho vay có chất lượng phải tuân thủ các quy định pháp luật của
Nhà nước: Luật các tổ chức tín dụng, các quy chế cho vay, các văn bản của NHNN
và các văn bản khác có liên quan.
16
Khi tiến hành hoạt động cho vay phải luôn đảm bảo tuân thủ các quy trình
cho vay, nguyên tắc cho vay vì nó giúp phòng ngừa rủi ro, đánh giá được chất
lượng cho vay. Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất
định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ

thể hóa trong các quy định của NHNN và các NHTM. Cụ thể là ba nguyên tắc sau:
+ Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn và lãi với thời gian xác định thỏa
thuận trong hợp đồng cho vay.
+ Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận
trong hợp đồng.
+ Ngân hàng chỉ được tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả.
Nếu ngân hàng thực hiện đúng theo quy trình cho vay thì ngân hàng có thể
đánh giá đúng tình hình tài chính của khách hàng từ đó giúp đưa ra quyết định tài
trợ hợp lý, đảm bảo tính an toàn hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
* Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với yêu
cầu cạnh tranh, phát triển kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ cụ thể, chỉ
tiêu này thể hiện ở chính sách tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng cho ta
biết về mục tiêu tài trợ của ngân hàng, hướng dẫn chung cho cán bộ, nhân viên
ngân hàng tăng cường chuyên môn và tạo sự thống nhất. Chính sách tín dụng của
ngân hàng cũng cho biết được chiến lược phát triển tín dụng của ngân hàng.
* Mức độ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và chi phí cho vay. Chất lượng cho
vay của ngân hàng với khách hàng được cho là tốt khi ngân hàng có khả năng đáp
ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng. Để đảm bảo yêu
cầu trên, ngân hàng cần có hệ thống đánh giá, dự báo, phân tích thông tin của
khách hàng thật chính xác từ đó nâng cao được chất lượng cho vay. Đồng thời việc
đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý của khách hàng một cách nhanh chóng giúp làm tăng
thêm uy tín của ngân hàng.
Các chỉ tiêu định lượng
* Doanh số cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ trong kì
Doanh số cho vay DNVVN trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho
DNVVN vay thực tế trong kỳ. Doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng của nó
phản ánh quy mô và xu hướng hoạt động cho vay của ngân hàng là mở rộng hay
thu hẹp. Tuy nhiên doanh số cho vay tăng không phải lúc nào cũng tốt hay doanh
số cho vay thu hẹp không phải lúc nào cũng xấu. Nếu doanh số cho vay quá cao
17

không hợp lý có thể dẫn đến khả năng thanh toán của khách hàng không đảm bảo
và có thể mất khả năng thanh toán. Điều này còn phụ thuộc vào tiềm lực của ngân
hàng và điều kiện của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
* Dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ trong kì
Dư nợ cho vay DNVVN là số tiền mà ngân hàng hiện đang cho DNVVN vay
tính đến một thời điểm. Chỉ tiêu này phản ánh quy mô và sự tăng trưởng hoạt động
cho vay của ngân hàng đối với DNVVN. Tổng dư nợ cho vay cao và tăng trưởng
qua từng thời kỳ cho thấy ngân hàng đã tạo được uy tín đối với khách hàng. Tuy
nhiên tăng trưởng cho vay phải phù hợp với khả năng về vốn, quản lý kiểm soát
rủi ro cũng như các nguồn lực về con người và công nghệc của ngân hàng. Việc
tăng trưởng dư nợ cho vay vượt quá khả năng nguồn lực của ngân hàng sẽ tiềm ẩn
nhiều rủi ro về thanh khoản và ngân hàng không đủ điều kiện nguồn lực để kiểm
soát chặt chẽ các khoản vay điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng cho vay
của ngân hàng.
* Tỷ lệ thu nợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tỷ lệ thu nợ (%) =
Doanh số thu nợ
x 100%
Doanh số cho vay
Trong đó, doanh số thu nợ DNVVN trong kỳ là tổng các khoản thu nợ
DNVVN phát sinh trong kỳ. Doanh số này phản ánh hai tình trạng trái ngược
nhau. Một là do tình hình kinh doanh ổn định và thu được lợi nhuận mà doanh
nghiệp trả nợ ngân hàng đúng hạn. Hai là ngân hàng nhận thấy những dấu hiệu
không lành mạnh trong việc kinh doanh của khách hàng mà tăng cường việc thu
hồi vốn. Cả hai trường hợp đều có lợi cho ngân hàng và hạn chế rủi ro cho ngân
hàng.
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của ngân hàng. Nó
phản ánh trong một thời kỳ nào đó, với doanh số cho vay nhất định thì ngân hàng
sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn. Tỷ lệ này càng cao càng tốt.
* Tỷ lệ nợ quá hạn của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nợ quá hạn của DNVVN là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc va
̀/hoặc lãi đã quá hạn của DNVVN. Nợ quá hạn vi phạm tính đặc trưng cơ bản của
tín dụng là tính hoàn trả, hoàn trả không đầy đủ và kịp thời gây nên sự đổ vỡ niềm
tin của ngân hàng đối với người vay vốn. Theo Quyết định 493/2005/QĐ/NHNN ,
nợ quá hạn bao gồm các khoản nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5: nợ cần chú ý, nợ dưới
tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn.
18
Nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng ngân hàng mà cụ thể là hoạt động cho
vay là tất yếu. Vấn đề quan trọng là phải giảm tỷ lệ nợ quá hạn đến mức thấp nhất
có thể chấp nhận được để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
NHTM có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng cho vay thấp.
Đây là chỉ tiêu hiện nay thường sử dụng khi đánh giá chất lượng cho vay của
NHTM.
Tỷ lệ nợ quá hạn
DNVVN
=
Nợ quá hạn DNVVN
x 100%
Dư nợ cho vay DNVVN
Nếu các khoản nợ quá hạn của DNVVN càng cao thì ngân hàng sẽ càng gặp
khó khăn trong kinh doanh, ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ mất vốn, mất khả
năng thanh toán và lợi nhuận sẽ giảm. Tỷ lệ nợ quá hạn càng thấp thì chất lượng
cho vay DNVVN càng cao và ngược lại. Theo thông tư của Bộ tài chính số
49/2004/TT-BTC hướng dẫn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của các
tổ chức tín dụng:
Xếp loại A: Tỷ lệ nợ quá hạn ≤ 5%
Xếp loại B: 5% < Tỷ lệ nợ quá hạn < 8%
Xếp loại C: Tỷ lệ nợ quá hạn ≥ 8%
* Tỷ lệ nợ xấu của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tỷ lệ nợ xấu =

Tổng nợ xấu
X 100
Tổng dư nợ cho vay
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể
đòi,…) là khoản mang các đặc trưng sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam
kết này đã hết hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến
có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi.
+ Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát
mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
+ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Các khoản nợ xấu bao gồm: nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả
năng mất vốn.
19
Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các
Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân
hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
* Vòng quay vốn vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Vòng quay vốn

vay DNVVN
=
Doanh số thu nợ DNVVN x 100%
Dư nợ cho vay DNVVN
Vòng quay vốn tín dụng phản ánh thời gian chu chuyển vốn tín dụng trong
hoạt động cho vay của ngân hàng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ
nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất kinh doanh. Với một số vốn nhất định, nhưng vòng quay vốn tín dụng nhanh
nên ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Chỉ tiêu này càng

cao càng phản ánh tình hình tổ chức quản lý tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao.
* Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa
và nhỏ
Mục tiêu quan trọng của ngân hàng là lợi nhuận trên cơ sở đảm bảo an toàn.
Cho vay DNVVN tạo được khoản lợi nhuận càng lớn phần nào chứng tỏ chất
lượng khoản cho vay càng cao.
Tỷ lệ sinh lời từ
cho vay DNVVN
=
Lợi nhuận từ hoạt động cho vay DNVVN
x 100%
Tổng lợi nhuận từ hoạt động cho vay
Từ công thức trên có thể cho so sánh được tỷ lệ lợi nhuận thu được từ hoạt
động cho vay DNVVN so với tổng lợi nhuận cho vay của ngân hàng, từ đó thấy
được vai trò của nó trong hoạt động của ngân hàng.
1.2.3 Sự cần thiết nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Ngân hàng thương mại
Cho vay là một hoạt động vô cùng quan trọng của NHTM và cho vay doanh
nghiệp là loại cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động cho vay của ngân
hàng, chiếm 70% hoạt động cho vay của ngân hàng. Bên cạnh đó, các DNVVN
chiếm đa số trong tổng số doanh nghiệp của nền kinh tế. Nhu cầu vay vốn của bộ
phận này là rất lớn và cho vay DNVVN đang được nhiều NHTM quan tâm. Doanh
nghiệp có vốn hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế. Vì thế
nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ là cần thiết với
ngân hàng với doanh nghiệp mà còn cần thiết với cả nền kinh tế.
Đối với ngân hàng thương mại
20
Nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ là một yêu cầu tất
yếu của bản thân mỗi ngân hàng. Bởi cho vay là hoạt động đặc trưng cơ bản và
quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng ở hầu hết các nước. Khi hoạt

động cho vay của ngân hàng có hiệu quả đồng nghĩa với việc ngân hàng có khả
năng thu nợ đầy đủ, đúng hạn và thu được lợi nhuận từ mỗi khoản vay của khách
hàng. Ngoài ra, chất lượng cho vay tốt cũng phản ánh trình độ tổ chức quản lý các
hoạt động kinh doanh của ngân hàng và trình độ của cán bộ tín dụng. Nhờ đó,
ngân hàng không những thu được lợi nhuận cao mà còn xây dựng được hình ảnh
và uy tín với khách hàng, giữ được khách hàng truyền thống và thu hút thêm nhiều
khách hàng mới. Ngân hàng có nhiều điều kiện mở rộng khả năng cung cấp tín
dụng cũng như các dịch vụ ngân hàng khác đồng thời tăng cường khả năng cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường. Bên cạnh đó, do trình độ công nghệ hiện đại,
các ngân hàng không chỉ cạnh tranh qua chính sách lãi suất mà còn cạnh tranh qua
chất lượng dịch vụ và khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách nhanh nhất,
hiệu quả nhất. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng cho vay là cần thiết và là xu thế
tất yếu của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cho vay của ngân hàng thương mại là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các
DNVVN hiện nay. Trong quá trình mở rộng, sản xuất kinh doanh, các nhu cầu về
vốn thường xuyên phát sinh và để đáp ứng phần lớn các nhu cầu vốn lưu động
phục vụ sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động thì doanh nghiệp
phải sử dụng nguồn vốn đi vay bởi vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp thường
thấp.
Vốn vay từ ngân hàng giúp các DNVVN nâng cao năng lực cạnh tranh trên
thị trường. Vốn vay ngân hàng còn giúp doanh nghiệp hình thành cơ cấu vốn tối
ưu. Cơ cấu vốn tối ưu mà doanh nghiệp cần đạt hiệu quả cao trong kinh doanh bao
gồm hai nguồn cơ bản: vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Thông thường các doanh
nghiệp thích sử dụng vốn vay ít tốn chi phí mà còn được hưởng phần tiết kiệm nhờ
thuế và không làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp. Còn việc
sử dụng vốn chủ sở hữu để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
không những hạn chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà
còn làm tăng chi phí vốn, do đó việc sử dụng vốn chủ sở hữu ít được ưu tiên. Qua
đó cho thấy, việc cho vay của ngân hàng thương mại mang lại nhiều lợi ích cho

21
các DNVVN. Vì vậy, nâng cao chất lượng cho vay không chỉ cần thiết đối với
ngân hàng mà còn rất cần thiết với các DNVVN.
Đối với sự phát triển kinh tế – xã hội
Cho vay của ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp góp phần thúc đẩy
các doanh nghiệp sản xuất và lưu thông hàng hóa tốt hơn tạo điều kiện giải quyết
công ăn việc làm, hạn chế các tệ nạn xã hội, khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc
gia, thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn phục vụ sản xuất kinh doanh,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng cho vay góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tín dụng ngân hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho
nền kinh tế.
Khi các thành phần kinh tế cụ thể là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng
vốn vay đúng mục đích kinh doanh, hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn
vừa tạo nên các nguồn lực trong nền kinh tế vừa củng cố cho sự phát triển của nền
kinh tế. Nếu tăng trưởng cho vay chậm và chất lượng cho vay kém tức là việc sử
dụng vốn không có hiệu quả và hấp thụ vốn kém, nền kinh tế rơi vào tình trạng trì
trệ, chậm phát triển. Ngược lại, nếu cho vay có hiệu quả thì sẽ tạo động lực cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì thế nâng cao chất lượng cho vay là yêu cầu
cần thiết bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh tạo điều kiện hội nhập kinh tế
trong khu vực và trên thế giới.
Vậy nhân tố nào có ảnh hưởng nhiều nhất đến chất lượng cho vay các doanh
nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại? Điều này được trình bày ở mục tiếp
theo.
1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Ngân hàng thương mại
1.3.1 Nhân tố chủ quan
*Cơ cấu tổ chức, quản lý của ngân hàng thương mại
Mô hình tổ chức có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển bền vững của
một ngân hàng thương mại, bảo đảm các điều kiện thích hợp và quản lý rủi ro. Cơ
cấu tổ chức thích hợp sẽ khai thác tốt tiềm năng của ngân hàng cả về công nghệ

lẫn con người. Mô hình tổ chức phù hợp sẽ tạo môi trường làm việc chuyên
nghiệp, có sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng ban rút ngắn được các thủ tục
rườm rà. Ngược lại nếu cơ cấu tổ chức không hợp lý sẽ làm tiêu hao nhiều chi phí
và có thể gây tổn thất không đáng có cho ngân hàng như những khoản nợ khó đòi,
22
đầu tư không đúng đối tượng, đầu tư kém hiệu quả. Hoạt động cho vay của ngân
hàng là một trong những hoat động chính đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Vì vậy,
cơ cấu tổ chức của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động này.
Bên cạnh cơ cấu tổ chức tốt thì khâu quản lý của ngân hàng cũng cần đặc
biệt chú ý. Bởi lẽ mỗi cán bộ nhân viên ngân hàng, mỗi người có một thế mạnh
riêng, điều quan trọng là phải biết sắp xếp công việc sao cho phát huy hết thế
mạnh và hạn chế của từng người. Đồng thời có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm nâng
cao tinh thần trách nhiệm, tạo sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động của từng thành
viên trong bộ máy thống nhất cùng với mục tiêu chung là nâng cao chất lượng cho
vay nói riêng và mọi hoạt động của ngân hàng nói chung.
*Chính sách cho vay của ngân hàng
Trong hoạt động cho vay của ngân hàng, chính sách cho vay là một nhân tố
rất quan trọng ảnh tác động tới hoạt động này. Chính sách cho vay bao gồm quy
trình cho vay, hạn mức cho vay, các hình thức cho vay, lãi suất, kỳ hạn, phí suất,
tài sản đảm bảo của khách hàng, quy định về điều kiện vay vốn của khách hàng,…
Chính sách cho vay có ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay của ngân hàng và là
tiêu chuẩn để ngân hàng đáp ứng các khoản vay của khách hàng sao cho phù hợp
với mục tiêu trong hoạt động cho vay của ngân hàng đồng thời mang lại sự hài
lòng cho khách hàng.
Chính sách cho vay là cơ sở quan trọng để đảm bảo hoạt động cho vay đi
đúng quỹ đạo, quyết định sự thành công hay thất bại cùa ngân hàng trong hoạt
động cho vay. Nếu chính sách cho vay được xây dựng và thực hiện chặt chẽ, kết
hợp hài hòa giữa lợi ích của ngân hàng, của doanh nghiệp và của xã hội sẽ nâng
cao chất lượng cho vay, thu hút thêm khách hàng và tạo dựng uy tín của ngân
hàng. Ngược lại, nếu chính sách cho vay không hợp lý thì chất lượng tín dụng nói

chung và cho vay nói riêng sẽ không cao. Tùy trong từng giai đoạn khác nhau của
nền kinh tế mà mỗi ngân hàng có những chính sách khác nhau để đem lại hiệu quả
cao nhất cho ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế nước nhà.
*Cán bộ, nhân viên ngân hàng
Nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, nhu cầu vay vốn của các DNVVN
ngày càng nhiều. Chính vì thế chất lượng cho vay của ngân hàng rất cần được chú
trọng. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng mạnh mẽ nên đòi hỏi trình độ,
chất lượng của cán bộ ngân hàng ngày càng cao để làm tốt các quy trình và quy
23
định của ngân hàng, sử dụng có hiệu quả các phương tiện công nghệ ngân hàng
hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động cho vay
của các ngân hàng, từ khâu tiếp xúc với khách hàng, tiếp nhận hồ sơ vay vốn,
thẩm định khách hàng, hoàn thiện hồ sơ khách hàng,… Do đó, trình độ, năng lực
và phẩm chất đạo đức của các cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định đối với chất
lượng của hoạt động cho vay. Một cán bộ tín dụng cần hội tụ đủ các yếu tố: nghiệp
vụ giỏi, có hiểu biết sâu rộng, toàn diện trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, luật
pháp, có khả năng thu thập và xử lý thông tin tốt, nắm bắt được tâm lý khách
hàng, năng động và nhạy bén,… Những yếu tố này là cần thiết để cán bộ tín dụng
đưa ra được quyết định cho vay đúng đắn, ký kết được những hợp đồng tín dụng
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng và hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Đội
ngũ cán bộ tín dụng là cánh tay đắc lực của cả ngân hàng.
Bên cạnh đó, hoạt động của ngân hàng cần phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo
và quản lý giàu kinh nghiệm, năng động, sáng tạo trong kinh doanh, nắm bắt
nhanh nhạy những biến động của thị trường, tâm huyết với công việc và luôn vì
lợi ích của tập thể. Cho dù thiết bị công nghệ có hiện đại đến đâu nhưng nhân tố
con người vẫn không thể thay thế sự nhạy cảm và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ
nhân viên trong ngân hàng. Chính vì thế nhân tố con người luôn chiếm vị trí quan
trọng trong bất cứ hoạt động nào dù kinh doanh hay công tác xã hội của ngân hàng
nói riêng và các tổ chức khác trên mọi lĩnh vực.

*Công tác kiểm tra, kiểm soát và khả năng phân tích của ngân hàng
Yêu cầu đầu tiên trước khi thực hiện một món vay là công tác thẩm định dự
án và thẩm định khách hàng. Điều đó có nghĩa là kiểm tra năng lực sản xuất và
khả năng trả nợ của khách hàng. Để hạn chế rủi ro thanh toán, ngân hàng cần tiến
hành công tác thẩm định chặt chẽ, lựa chọn khách hàng tin cậy, có được những dự
án khả thi, thu được lợi nhuận cao nhất.
Trong suốt thời gian cho vay, cán bộ ngân hàng phải tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát và kiểm tra doanh nghiệp thực hiện vốn vay có đúng hợp đồng
không. Bởi lẽ, trong quá trình sản xuất, thực hiện hợp đồng luôn chứa đựng rủi ro,
gian lận. Việc phát hiện những sai sót trong quá trình thực hiện của doanh nghiệp
giúp ngân hàng có được biện pháp xử lý thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro, hạn chế
tổn thất mà ngân hàng có thể gặp phải.
24
Để có thể thực hiện tốt công tác này, ngân hàng cần đào tạo một đội ngũ cán
bộ chuyên môn giỏi có nghiệp vụ, đạo đức tốt, có chế độ thưởng phạt rõ ràng. Như
vậy, công tác cho vay mới được thực hiện đúng quy trình và chất lượng cho vay
ngày càng cao.
*Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng
Đây là nhân tố không thể thiếu đối với bất kì một tổ chức kinh doanh nào.
Ngân hàng cũng như mọi doanh nghiệp kinh doanh khác phải có cơ sở vật chất,
trang thiết bị và công nghệ phục vụ cho quá trình kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại sẽ để lại hình ảnh đẹp về ngân hàng trong lòng khách hàng, củng cố
niềm tin của khách hàng với ngân hàng, đồng thời các giao dịch diễn ra thuận tiện,
nhanh chóng. Các trang thiết bị công nghệ hiện đại này còn giúp ngân hàng có một
hệ thống thông tin tín dụng hiện đại, chính xác, công tác lập kế hoạch và xây dựng
chính sách tín dụng có hiệu quả hơn.
*Chất lượng thông tin của ngân hàng
Trong mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề của nền kinh tế, ai nắm bắt được càng
nhiều thông tin chính xác và kịp thời thì càng có nhiều lợi thế trong cạnh tranh.
Hoạt động cho vay của ngân hàng, mục tiêu là lợi nhuận lớn, mà lợi nhuận có lớn

hay không phụ thuộc một phần vào chất lượng thông tin thu thập được của ngân
hàng. Để cho vay có chất lượng, ngân hàng cần có được thông tin chính xác và cập
nhật từ đó phân tích và đề ra các chính sách và đánh giá chính xác về khách hàng.
Ngoài những thông tin mà khách hàng cung cấp trong quá trình cho vay như năng
lực tài chính, kết quả kinh doanh, giá trị tài sản đảm bảo,… còn nhiều những thông
tin khác cần tìm hiểu trên thị trường như chính sách lãi suất của NHNN, tình hình
kinh tế xã hội trong nước và trên thế giới hay các thông tin về chính trị cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay của ngân hàng.
Mỗi nhân tố khác nhau có những ảnh hưởng khác nhau đến hoạt động của
ngân hàng. Tuy nhiên trong đó, các nhân tố cũng tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến
những biến đổi khó lường trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Ngoài các nhân
tố chủ quan thuộc về ngân hàng còn nhiều yếu tố bên ngoài cũng tác động không
nhỏ vào chất lượng cho vay của ngân hàng.
1.3.2 Các nhân tố khách quan
*Nhân tố từ phía khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ
25

×