Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Am – Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.24 KB, 101 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

MỤC LỤC
Bảng 10: Vòng quay vốn ngắn hạn của ngân hàng.....................................................3
Bảng 10: Vòng quay vốn ngắn hạn của ngân hàng....................................................63
CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG TỈNH PHÚ THỌ....................................................................................74
Thứ hai, về xử lý những phát sinh........................................................................85

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

Chuyên đề tốt nghiệp

CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHCT: Ngân hàng Công thương
TSCĐ: Tài sản cố định
TSNH: Tài sản ngắn hạn
TSDH: Tài sản dài hạn
TSĐB: Tài sản đảm bảo
TG: Tiền gửi
TGTK: Tiền gửi tiết kiệm
TCKT: Tổ chức kinh tế


CV: Cho vay
DNQD: Doanh nghiệp quốc doanh
DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
XLRR: Xử lý rủi ro
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TNHH NN: Trách nhiệm hữu hạn nhà nước
TNHH TN: Trách nhiệm hữu hạn tư nhân
CP: Cổ phần
CP NN: Cổ phần Nhà nước
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
Cho vay ngắn hạn: Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp
Chi nhánh/ Ngân hàng: chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

DANH SÁCH SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU
1. Sơ đồ
Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức bộ máy kinh doanh NHCT Phú Thọ
Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức NHCT Phú Thọ
2. Biểu đồ
Biểu đồ 1: Cơ cấu dư nợ cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế
Biểu đồ 2: So sánh cơ cấu tỷ trọng các thành phần trong khối DNQD

Biểu đồ 3: Cơ cấu dư nợ ngắn hạn của các DNNQD theo thành phần
Biểu đồ 4: So sánh tốc độ gia tăng của nợ xấu ngắn hạn với tổng dư nợ cho
vay
3. Bảng biểu
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHCT Phú Thọ giai đoạn 2006-2008
Bảng 2: So sánh tăng trưởng vốn huy động giữa các năm
Bảng 3: Tình hình cho vay của NHCT Phú Thọ giai đoạn 2006-2008
Bảng 4: Trạng thái các khoản vay
Bảng 5: Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng qua các năm
Bảng 6: Dư nợ ngắn hạn đối với DNQD và DNNQD
Bảng 7: Cơ cấu cho vay ngắn hạn đối với thành phần DNQD
Bảng 8: Cơ cấu cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD
Bảng 9: So sánh cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp giữa các năm
Bảng 10: Vòng quay vốn ngắn hạn của ngân hàng
Bảng 11: Dư nợ ngắn hạn quá hạn đối với doanh nghiệp từ 2006 – 2008
Bảng 12: Nợ xấu cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp năm 2006-2008
Bảng 13: Mức sinh lời của đồng vốn cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp
từ 2006 – 2008
Bảng 14: Tỷ lệ thu nhập tư cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp so với
tổng thu nhập của ngân hàng từ 2006 – 2008.

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A



1

Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), cho vay là
hoạt động chủ yếu. Trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại đã
mở rộng cho vay trung và dài hạn, song cho vay ngắn hạn vẫn luôn là hoạt
động chủ đạo, đặc biệt là đối với thị trường ngân hàng – tài chính Việt Nam.
Trong cho vay ngắn hạn, việc mở rộng quy mô cho vay không thể tách
rời việc nâng cao chất lượng cho vay. Do đó, nâng cao chất lượng cho vay là
yêu cầu cấp thiết đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM, là yêu cầu của
nền kinh tế.
Tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ, do đặc trưng là ngân
hàng phục vụ cho công nghiệp và thương mại nên cho vay ngắn hạn nói
chung và cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp nói riêng là khoản mục cho
vay có tỉ trọng lớn nhất. Từ những vấn đề trên, em đã chọn đề tài: “Nâng cao
chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng
công thương tỉnh Phú Thọ” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề là làm rõ lí luận về chất lượng cho
vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp của ngân hàng thương mại, bước đầu đưa
lí luận kiểm nghiệm, áp dụng trong thực tiễn để hiểu sâu sắc hơn vấn đề
nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu hoạt động cho vay của NHTM về khía cạnh chất
lượng và chỉ giới hạn ở hình thức cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp.

Nguyễn Thị Nga


Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

2

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

Chuyên đề chọn điểm nghiên cứu thực tiễn tại chi nhánh ngân hàng công
thương tỉnh Phú Thọ, thời gian nghiên cứu là từ năm 2006 đến 2008.
4. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
bảng biểu, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại
NHTM
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh
nghiệp tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn
đối với doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy giáo
ThS. Nguyễn Đức Hiển, cùng sự giúp đỡ của Ban Giám đốc và các cô chú,
các anh chị trong phòng Khách hàng doanh nghiệp ngân hàng cơng thương
tỉnh Phú Thọ đã giúp em hồn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Trong bài viết,
không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong có được ý kiến đóng góp và chỉ bảo
của các thấy cơ để bài viết hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô!

Nguyễn Thị Nga


Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

3

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

CHƯƠNG I
CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong
việc khơi nguồn vốn đến những người vay tiền có các cơ hội đầu tư sinh lời,
đảm bảo cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng hữu hiệu. Để hiểu được hoạt
động của ngân hàng trước hết cần xem xét “Bản quyết toán tài sản của ngân
hàng” –đó là bản kê các tài sản có và tài sản nợ của ngân hàng và đặc trưng
của nó là:
“Tổng tài sản có =Tài sản nợ +Vốn”
Tài sản nợ bao gồm:
*Các khoản tiền gửi có thể phát séc: là loại tiền gửi có thể được thanh
tốn theo u cầu.
*Các khoản tiền gửi phi giao dịch: bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi
kỳ hạn, đây có thể nói là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng, những
người sở hữu chúng không được quyền phát séc và cũng không được hưởng
nhiều dịch vụ như tiền gửi phát séc, nhưng được hưởng mức lãi suất cao hơn.
*Các khoản tiền ngân hàng đi vay từ NHNN, từ dân cư, từ các doanh
nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác, vay Chính phủ và vay nước ngồi…
Vốn của ngân hàng là của cải thực có của ngân hàng đó. Vốn hình thành

ban đầu của ngân hàng chính là vốn do NSNN cấp (đối với NNTM thuộc sở
hữu của Nhà nước); hoặc góp vốn cổ phần (đối với NHTM cổ phần)… Trong
quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn theo nhiều phương thức khác

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

4

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

nhau như: phát hành cổ phiếu, lợi nhuận giữ lại, thặng dư vốn, dự phịng rủi
ro.
Khi nói tới hoạt động sinh lời của NHTM là nói tới tài sản có của ngân
hàng. Tài sản có là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng đó, nhờ
chúng mà ngân hàng thu được tiền trả lãi, tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Các
tài sản có bao gồm:
*Tiền dự trữ: bao gồm tiền gửi ở NHNN và tiền mặt mà ngân hàng cất
giữ.
*Tiền mặt: bao gồm tiền mặt trong quá trình thu – đó là các tờ séc được
phát hành bởi các ngân hàng A được gửi vào ngân hàng B nhưng chưa tới B,
nó sẽ được coi như tài sản có của B; và tiền gửi ở các ngân hàng khác.
*Các chứng khoán: đối với các NHTM, các chứng khoán chỉ bao gồm
những công cụ vay nợ, tuy nhiên chúng là nguồn thu nhập quan trọng của
ngân hàng.
*Tiền cho vay: đây là loại tài sản có mang lại lợi nhuận chủ yếu cho

ngân hàng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tài sản có của ngân hàng. Tiền
cho vay là một món nợ đối với cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc tổ chức tín
dụng khác. Tiền cho vay kém lỏng hơn và rủi ro vỡ nợ so với các loại tài sản
có khác vì chúng khơng thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho
vay đến hạn, do vậy ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ vào chúng.
*Tài sản có khác: bao gồm các TSCĐ như nhà cửa, trang thiết bị của
ngân hàng v.v
Như vậy, cho vay là hoạt động quan trọng nhất trong việc thu lợi nhuận
cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này không thuộc về độc quyền của ngân
hàng, hiện nay, các ngân hàng cũng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh của

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

5

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

các tổ chức tài chính khách như các cơng ty chứng khốn, các công ty bảo
hiểm… Trong thời gian vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ mà bắt nguồn
từ sự sụp đổ của một số tổ chức tài chính lớn của Mỹ, câu hỏi được đặt ra cho
mỗi chúng ta là phải hiểu thế nào về hoạt động và chất lượng cho vay của các
NHTM.
1.1.1. Khái niệm cho vay
Theo quan điểm của Frederici S.Mishkin trong cuốn “Tiền tệ, ngân hàng
và thị trường tài chính”, các ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách bán tài sản nợ

có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng
tiền mua được để mua những tài sản có một số đặc tính khác, và trong hoạt
động cho vay, tài sản có này chính là tiền cho vay. Như vậy, các ngân hàng đã
cung cấp dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công
chúng, và cho vay là một trong những sản phẩm dịch vụ đó.
Theo các văn bản hiện hành liên quan tới hoạt động tín dụng của các
NHTM, cho vay là một nghiệp vụ tín dụng, theo đó, ngân hàng cho vay giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất
đình theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Cho vay là hoạt động thông qua sự thỏa thuận giữa bên đi vay và bên cho
vay dựa trên các phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án kinh doanh do
bên đi vay trình cho bên cho vay, bên cạnh đó các khoản vay còn được đảm
bảo bằng tài sản của bên đi vay. Các khoản vay này chứa đựng những rủi ro
vì chúng xuất hiện trước khi diễn ra các hành vi thương mại của bên đi vay, vì
thế chúng phải đảm bảo theo 3 nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.
Thứ hai, khoản vay phải được bên đi vay sử dụng đúng mục đích.

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

6

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

Thứ ba, các khoản vay phải được đảm bảo bởi các tài sản của bên đi vay.

Như vậy, có thể khái quát khái niệm cho vay như sau: cho vay là hoạt
động cơ bản của NHTM, đó là một giao dịch về tiền giữa bên cho vay là ngân
hàng và bên đi vay là các cá nhân và tổ chức, trong đó, bên cho vay chuyển
giao tiền cho bên đi vay sử dụng cho một mục đích nào đó trong một thời hạn
nhất định như đã thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hồn trả vơ điều kiện
gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2. Phân loại cho vay
Cho vay có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu thức sao cho phù hợp
với tính chất, đặc điểm của nhu cầu vay và việc quản lý cho vay của ngân
hàng. Có một số cách chủ yếu để phân loại cho vay như sau:
1.1.2.1. Theo đối tượng khách hàng
Theo đối tượng khách hàng, cho vay được phân chia thành:
- Cho vay Chính phủ: Là hoạt động cho vay đối với Nhà nước để tài trợ
cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Cho vay Chính phủ thường thể hiện bằng
việc Ngân hàng mua trái phiếu do Kho bạc phát hành.
- Cho vay các tổ chức kinh tế: Là hoạt động cho vay đối với các doanh
nghiệp, công ty nhằm tài trợ cho các nhu cầu vốn để kinh doanh. Cho vay tổ
chức kinh tế được thực hiện với nhiều phương thức khác nhau phù hợp với
từng nhu cầu vốn cụ thể.
- Cho vay các tổ chức tài chính khác (ngân hàng, cơng ty tài chính, quỹ
tín dụng…): Là hoạt động cho vay chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thanh
khoản hoặc thanh toán liên ngân hàng.

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp


7

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

- Cho vay cá nhân: Là hoạt động cho vay đối với khách hàng là các cá
nhân – người tiêu dùng với các mục đích mua sắm tài sản, tiêu dùng hoặc
kinh doanh.
1.1.2.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay
Theo mục đích vốn vay được sử dụng, cho vay bao gồm:
- Cho vay kinh doanh: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng
cho mục đích kinh doanh. Đối tượng khách hàng vay kinh doanh có thể là cá
nhân, các hộ gia đình hoặc các tổ chức kinh tế, trong đó chủ yếu là các tổ
chức kinh tế.
- Cho vay tiêu dùng: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng cho
mục đích tiêu dùng. Đối tượng chủ yếu vay tiêu dùng là các cá nhân (vay để
mua tài sản) và Chính phủ (vay cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên).
1.1.2.3. Theo phương thức cho vay
Về phương thức, cho vay có thể bao gồm các loại chính như sau:
- Cho vay từng lần: Là phương thức cho vay đối với các khách hàng
khơng có nhu cầu vay thường xun, chỉ khi vào thời vụ kinh doanh hay mở
rộng sản xuất mới xin vay. Mỗi lần vay vốn, ngân hàng và khách hàng lại
thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là phương thức cho vay mà ngân hàng
và khách hàng thoả thuận một hạn mức về số dư trong suốt kỳ hoặc số dư
cuối kỳ. Đây là hình thức cho vay phù hợp đối với khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh.
- Cho vay luân chuyển: Là phương thức cho vay mà ngân hàng thoả
thuận tài trợ dựa trên kế hoạch lưu chuyển hàng hoá và ngân quỹ của khách


Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

8

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

hàng. Hình thức này phù hợp với các doanh nghiệp thương mại hoặc doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh có chu kỳ tiêu thụ sản phẩm ngắn.
- Cho vay trả góp: Là phương thức cho vay trong đó ngân hàng trả gốc
thành nhiều lần trong thời hạn đã thoả thuận. Phương thức này thường được
áp dụng đối với vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định.
- Cho vay thấu chi: Là phương thức cho vay mà ngân hàng thoả thuận
bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền trên tài khoản tiền
gửi thanh tốn của mình trong một thời hạn nhất định (gọi là hạn mức thấu
chi) và trong một khoảng thời gian xác định.
Ngồi ra, cịn có nhiều phương thức cho vay khác như: cho vay theo dự
án đầu tư, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay hợp vốn, cho
vay qua việc phát hành thẻ tín dụng…
1.1.2.4. Theo thời hạn
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt
đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn cho vay căn cứ vào nhu
cầu vốn, chu kỳ sản xuất – kinh doanh của khách hàng, thời hạn thu hồi vốn
của dự án/phương án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn

vay của ngân hàng.
Theo thời hạn, cho vay được phân loại thành:
- Cho vay không có thời hạn: Là hình thức cho vay mà việc vay – hoàn
trả của khách hàng là thường xuyên, theo kế hoạch luân chuyển hàng hoá và
kế hoạch doanh thu của khách hàng, không xác định cụ thể thời điểm trả nợ
trên hợp đồng tín dụng.

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

9

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

- Cho vay có thời hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn thu hồi nợ được
xác định cụ thẻ trong hợp đồng tín dụng. Cho vay có thời hạn được phân chia
thành:
+ Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay dưới 12
tháng
+ Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ trên
12 tháng đến dưới 60 tháng.
+ Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ 60
tháng trở lên.
Thơng thường, hai hình thức cho vay trung hạn và dài hạn được ghép
thành cho vay trung và dài hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề tốt nghiệp chỉ giới hạn phạm vi

nghiên cứu là hình thức cho vay ngắn hạn.
1.1.2.5. Các căn cứ khác
- Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: là việc cho vay mà ngân hàng yêu
cầu người vay phải có tài sản hợp pháp đảm bảo cho khoản vay. Tài sản này
chính là nguồn thu nợ cuối cùng của ngân hàng. Đó có thể là tài sản để thế
chấp hoặc cầm cố.
+ Cho vay khơng có tài sản đảm bảo: là việc cho vay mà ngân hàng
không yêu cầu người vay phải có tài sản làm vật đảm bảo. Đây chính là hình
thức cho vay đảm bảo bằng uy tín, chủ yếu chỉ áp dụng cho các khách hàng
có tình hình tài chính lành mạnh, làm ăn có lãi. Cũng có thể đó là các khoản
cho vay theo chỉ thị của Chính phủ, các khoản cho vay đối với các tổ chức tài

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

10

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

chính lớn, các công ty lớn trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có thể giám sát
việc sinh lợi và khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
- Theo phương thức trả nợ, đồng tiền vay
Sự phân loại cho vay trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực
tế, bao hàm trong loại cho vay này có thể là các loại cho vay khác. Chẳng
hạn, cho vay theo thời hạn ngắn (ngắn hạn) có thể theo phương thức cho vay

từng lần, hoặc có thể là cho vay theo hạn mức.
1.2. Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp của NHTM
1.2.1. Khái niệm cho vay ngắn hạn
Xét về thời hạn, theo các văn bản liên quan tới hoạt động tín dụng của
NHTM, cho vay ngắn hạn là ngân hàng cho khách hàng vay một khoản tiền
với mục đích đã được thỏa thuận trong thời hạn không quá 12 tháng. Khác với
cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn là các khoản cho vay từ trên 12 tháng
đến 60 tháng và cho vay dài hạn là các khoản cho vay trên 60 tháng.
Xét về tính chất của cho vay ngắn hạn, khơng chỉ đơn thuần là các khoản
cho vay của ngân hàng đối với khách hàng trong khoảng thời gian không quá
12 tháng. Đối ứng với việc ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp là việc
doanh nghiệp huy động vốn để tài trợ cho tài sản của mình phục vụ hoạt động
sản xuất – kinh doanh. Như vậy, để hiểu rõ về việc ngân hàng cho vay ngắn
hạn đối với doanh nghiệp và phân biệt được với cho vay trung – dài hạn,
chúng ta sẽ xem xét về khái niệm “vốn ngắn hạn” và “vốn trung – dài hạn”
của doanh nghiệp.
Trước hết, vốn của doanh nghiệp được biểu hiện là giá trị của toàn bộ tài
sản do doanh nghiệp quản lý và sử dụng tại một thời điểm nhất định. Mỗi
đồng vốn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định. Tiền tệ là hình thái vốn ban

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

11

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển


đầu của doanh nghiệp, nhưng chưa hẳn có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng
tiềm năng của vốn, để biến tiền thành vốn thì tiền phải đưa vào sản xuất kinh
doanh với mục đích sinh lời. Như vậy, vốn là lượng giá trị ứng trước của toàn
bộ tài sản mà doanh nghiệp kiểm soát để phục vụ trong hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Vốn trong họat
động sản xất kinh doanh được tồn tại dưới hai hình thức là vốn ngắn hạn và
vốn trung – dài hạn, hay còn gọi là vốn lưu động và vốn cố định.
“Vốn ngắn hạn” được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp chính là tài sản lưu
động và đầu tư ngắn hạn theo chuẩn mực kế toán cũ trước đây. Tài sản ngắn
hạn của doanh nghiệp thường gồm hai bộ phận là tài sản ngắn hạn trong sản
xuất và tài sản ngắn hạn trong lưu thơng. Tài sản ngắn hạn trong q trình sản
suất là những vật tư dự trữ nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu… và sản phẩm dở
dang trong quá trình sản xuất. Tài sản ngắn hạn trong lưu thông bao gồm sản
phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh tốn, các
khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước… Có thể phân biệt vốn ngắn hạn
theo hai tiêu chí:
*Theo hình thái biểu hiện, vốn ngắn hạn được chia thành 3 loại:
- Vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán:
+ Vốn bằng tiền gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển, kim loại quý…
+ Vốn trong thanh toán là các khoản nợ phải thu của khách hàng, các
khoản tạm ứng, các khoản phải thu khác…
- Vốn vật tư hàng hóa (hàng tồn kho) bao gồm nguyên, nhiên vật liệu,
phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động, sản phẩm dở dang và thành
phẩm.

Nguyễn Thị Nga


Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

12

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

- Vốn về chi phí trả trước là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát
sinh có liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá trị
thành sản phẩm của nhiều chu kỳ kinh doanh như: chi phí sửa chữa lớn
TSCĐ, chi phí thuê tài sản, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật,
cho phí xây dựng, lắp đặt các cơng trình tạm thời, chi phí phục vụ cho xây
dựng cơ bản…
*Theo vai trị của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh,
vốn ngắn hạn được chia thành 3 loại:
- Vốn ngắn hạn trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm giá trị các khoản
nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế,
công cụ dụng cụ lao động nhỏ.
- Vốn ngắn hạn trong khâu sản xuất bao gồm giá trị sản phẩm dở dang và
vốn về chi phí trả trước.
- Vốn ngắn hạn trong khâu lưu thông gồm các giá trị thành phẩm, vốn
bằng tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay
ngắn hạn…), các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm
ứng…).
“Vốn trung – dài hạn” của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ tài sản trung – dài hạn của doanh nghiệp. Giống như tài sản ngắn hạn,
tài sản dài hạn chính là tài sản cố định và đầu tư trung – dài hạn của doanh
nghiệp theo chuẩn mực kế toán cũ. Tài sản dài hạn của doanh nghiệp bao gồm

các khoản đầu tư dài hạn, các khoản tạm ứng dài hạn, tài sản cố định hữu hình
(nhà cửa, máy móc, trang bị, thiết bị…), tài sản cố định vơ hình (cơng nghệ
dây chuyền sản xuất, bản quyền chế tạo, thương hiệu của doanh nghiệp)… đó
là những tài sản có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

13

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng chỉ dùng nguồn vốn
ngắn hạn để tài trợ cho TSNH cũng như chỉ dùng nguồn dài hạn tài trợ cho
TSDH. Xuất phát từ nhu cầu vốn của doanh nghiệp, các ngân hàng cho vay
đối với doanh nghiệp –đây là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu
của doanh nghiệp. Các NHTM cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp trong
các trường hợp sau:
*NHTM cho vay ngắn hạn để tài trợ tài sản lưu động:
Ngân hàng thương mại thường chia các khoản cho vay của mình thành
cho vay ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn. Tùy thuộc vào nhu cầu và
nguyện vọng vay của khác hàng mà sẽ chọn thời hạn phù hợp nhất với mình.
Theo sự phân chia thời hạn thì những món vay dưới 1 năm được xếp vào món
vay ngắn hạn, nó phù hợp với trường hợp tài trợ cho tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Các trường hợp cụ thể là:
- Nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất và kinh doanh,

đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, doanh nghiệp kinh doanh thương
mại, dịch vụ, vốn tăng thêm này chủ yếu để mua nguyên vật liệu, công cụ
dụng cụ, tăng dự trữ, đầu tư vào tài sản lưu động ròng.
- Nhằm tài trợ cho hoạt động xuất, nhập khẩu, tài trợ thanh toán quốc tế
đối với các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu.
Ngân hàng có thể tài trợ ngắn hạn cho nhà nhập khẩu thơng qua nhiều
hình thức khi nhà nhập khẩu khơng có đủ khả năng thanh toán. Cụ thể, ngân
hàng cung cấp các nghiệp vụ sau:
+ Tín dụng cho người đặt hàng và hiệp định khung tài trợ nhập khẩu
+ Cho vay mở L/C
+ Tạm ứng cho nhà nhập khẩu

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

14

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

+ Chấp nhận của ngân hàng (Bank Acceptance)
+ Tín dụng chấp nhận hối phiếu dành cho nhà nhập khẩu (hối phiếu tự
nhận nợ - promissory note).
Ngân hàng cũng tài trợ xuất khẩu trong nhiều trường hợp. Khi nhà xuất
khẩu có khó khăn trong thanh toán mà chưa thu được tiền từ xuất khẩu,
NHTM thực hiện các nghiệp vụ tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
có quy mơ lớn và chiếm thị trường rộng. Cụ thể, ngân hàng cung cấp các

nghiệp vụ như sau:
+ Tài trợ trong khuôn khổ nhờ thu kèm chứng từ
Thực hiện nghiệp vụ này, nhà xuất khẩu ủy thác các chứng từ về hàng
hóa, vận đơn, bảo hiểm và các chứng từ khác cho ngân hàng phục vụ mình
nhờ thu hộ. Ngân hàng này sẽ chuyển tiếp chứng từ đến ngân hàng cần giao
dịch với chỉ thị giao chứng từ sau khi đã thanh toán, hoặc chấp nhận thanh
tốn. Trong q trình thanh tốn sẽ có một yếu tố rất quan trọng, đó là yếu tố
thời gian. Chính điều này nảy sinh nhu cầu vốn đối với nhà xuất khẩu. Ngân
hàng bên xuất khẩu hoặc bên nhập khẩu đều có thể thực hiện tài trợ ngắn hạn
cho nhà xuất khẩu.
+ Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu
Khi thoả thuận giữa các bên tham gia xuất nhập khẩu chấp nhận có hối
phiếu kỳ hạn khơng hủy ngang, khi chưa đến hạn thanh tốn nhà xuất khẩu có
thể mang hối phiếu này đến ngân hàng phục vụ mình xin chiết khấu.
+ Tài trợ trong khn khổ chứng từ
Hình thức tín dụng của ngân hàng trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ
trước khi đến hạn thanh toán.
+ Tạm ứng cho nhà xuất khẩu

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

15

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển


Dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa ngân hàng và nhà xuất khẩu, khách
hàng có thể đề nghị được cung cấp tín dụng giữa chừng trong khn khổ
“clean payment” (thanh tốn trơn).
+ Bao tồn bộ thanh tốn xuất khẩu – Factoring
Đây là hình thức tài trợ xuất khẩu ngắn hạn. Bản chất Factoring là nghiệp
vụ chiết khấu các khoản phải thu của nhà xuất khẩu. NHTM lớn tiến hành lập
các công ty chuyên môn để thực hiện các nghiệp vụ này.
- NHTM cho vay ngắn hạn đối với mục đích tiêu dùng của cá nhân,
doanh nghiệp.
Hình thức tín dụng này trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng
trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Loại nghiệp vụ này
giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cá nhân và giúp các doanh
nghiệp có các sản phẩm phục vụ quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh
nghiệp. Hình thức này cũng gồm nhiều loại. Ngân hàng có thể tài trợ cho khác
hàng bằng tiền mặt, đúng như một khoản cho vay. Ngân hàng cũng có thể cho
vay trả góp bằng cách thanh tốn cho nhà cung cấp hàng hoá thay cho khách
hàng, và khách hàng trả nợ ngân hàng theo phương thức trả góp nhiều lần.
*NHTM cho vay ngắn hạn để tài trợ tài sản cố định
Các NHTM thường cho các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn để tài trợ
cho tài sản lưu động. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt, đối tượng
tài trợ của cho vay ngắn hạn là tài sản cố định (máy móc, thiết bị, nhà xưởng).
Trong trường hợp này, khơng thể nói đến sự phù hợp giữa thời hạn của nguồn
huy động và tài sản mà chỉ xét đến lí do tại sao khách hàng lại vay vốn ngắn
hạn để tài trợ cho tài sản cố định. Những lí do mà khách hàng vay vốn là thiếu
vốn tạm thời, duy trì cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng địn bẩy tài chính. Từ những

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A



Chuyên đề tốt nghiệp

16

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

lí do trên mà khách hàng có thể lựa chọn vay vốn ngắn hạn dể tài trợ cho tài
sản cố định chứ không nhất thiết phải vay vốn trung và dài hạn.
Trong trường hợp doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn đầu tư cho máy móc,
thiết bị mà doanh nghiệp vẫn có khả năng hồn trả trong ngắn hạn, thì vay
ngắn hạn là giải pháp hiệu quả hơn so với vay vốn trung và dài hạn. Vay ngắn
hạn sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được lợi ích của việc sử dụng nợ, nhanh
chóng có được khoản tiền cần thiết mà lại chịu chi phí vốn thấp hơn so với
cho vay trung và dài hạn.
Vay ngắn hạn cịn có một ưu điểm lớn nữa là tính chất kịp thời với chi
phí hợp lý, khi doanh nghiệp chưa đến kỳ thu nợ nhưng đang có nhu cầu sử
dụng tiền. Vay ngắn hạn có thủ tục đơn giản hơn vay trung và dài hạn, tiết
kiệm được thời gian cho doanh nghiệp trong khâu xét duyệt xin vay, khâu ký
kết hợp đồng và quá trình giải ngân. Như vậy, xin vay ngắn hạn trong trường
hợp này còn tiết kiệm được cả chi phí cơ hội, mà trong kinh doanh, tuy đây là
chi phí khơng nhìn thấy, nhưng có thể quyết định đến thành công hay thất bại
của doanh nghiệp.
Như vậy có thể nói cho vay ngắn hạn khơng chỉ là phương thức tài trợ
chủ yếu đối với tài sản lưu động, mà còn là một giải pháp hiệu quả trong việc
tài trợ tài sản cố định.
1.2.2. Các hình thức cho vay ngắn hạn chủ yếu
1.2.2.1. Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội (vượt) trên số tiền gửi thanh tốn của mình đến một giới hạn

nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là
hạn mức thấu chi.

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

17

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi
và thời hạn thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong q
trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt
quá số dư tiền gửi để chi trả (trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền
nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời
gian và quy mơ. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đốn dựa vào dự đốn
ngân quĩ song khơng chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng trong q trình thanh tốn.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản.
phần lớn là khơng có bảo đảm, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân
vài ngày trong tháng vài tháng trong năm dùng để chi lương, chi các khoản
phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các
khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
1.2.2.2. Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của

ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xun, khơng có
điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Các khách hàng này sử dụng vốn
chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay
mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ
tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử
dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay,
xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và các
điều kiện bảo đảm nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ
khác nhau.

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

18

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

Số lượng cho vay = Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh - Vốn chủ sở
hữu tham gia – Các nguồn vốn khác tham gia
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong
quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và
hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng có thể
thu hồi nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc
thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm

sốt từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
1.2.2.3. Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì.
Đó là số dư tính tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu
cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngân hàng ước lượng các hạn
mức tín dụng đối với các doanh nghiệp căn cứ vào phương án sản xuất kinh
doanh và nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỉ lệ cho vay tối đa trên tổng giá trị
tài sản đảm bảo, khả năng nguồn vốn của ngân hàng.
Trong kì, khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ
khơng được vượt q hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy
định hạn mức cuối kì. Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến
cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm bớt dư nợ cuối kì khơng được vượt
q hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay,
nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

19

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

vay. Sau khi kỉêm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ

phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi
khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí
ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay khơng tách biệt thành các
kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm sốt được hiệu quả của từng lần
vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện ra vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài
chính, hoặc dư nợ lâu khơng giảm sút.
1.2.2.4. Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí,
người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả
thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp
hàng hố và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận
trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn
ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định cho vay nữa
hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình
tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn
doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đốn
dịng ngân quĩ trong thời gian tới.

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp


20

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi
khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được
trích trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn
nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán.
Giá trị những hàng hoá mua vào là đối tượng được ngân hàng tài trợ và thu
nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay
theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của
người vay.
Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp
thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có
quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục cho vay
chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu
vốn kịp thời, vì vậy việc thanh tốn cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
1.3. Chất lượng cho vay ngắn hạn
1.3.1. Quan niệm về chất lượng cho vay ngắn hạn
Quan điểm về chất lượng cho vay cũng như chất lượng cho vay ngắn hạn
trước đây chỉ được giới hạn trong phạm vi an toàn cho vay, phản ánh tổn thất
phát sinh từ những rủi ro cho vay. Chất lượng cho vay ngắn hạn được coi là
cao khi các khoản vay ngắn hạn khơng có tổn thất hoặc có tổn thất nhưng chỉ
trong giới hạn nhất định, và ngược lại khi tổn thất là lớn thì chất lượng cho
vay ngắn hạn được coi là thấp. Chính vì thế, khi nói đến khía cạnh nâng cao
chất lượng ngắn hạn cho vay thì người ta thường nghĩ ngay đến việc giảm
những tổn thất trong quá trình cho vay ngắn hạn.


Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

21

GVHD: ThS. Nguyễn Đức Hiển

Tuy nhiên, những chủ thể tham gia vào trong một món vay phải gồm hai
bên: một bên là bản thân ngân hàng –bên cấp vốn, bên còn lại là khách hàng
vay vốn – bên sử dụng vốn, ngồi ra cịn có cơ quan quản lý Nhà nước. Chính
vì vậy, chất lượng cho vay phải được hiểu rộng hơn chứ khơng chỉ bó hẹp
trong phạm vi xem xét tổn thất từ phía ngân hàng.
Một hoạt động cho vay được coi là có hiệu quả khi nó đáp ứng được các
mục tiêu của cho vay. Mục tiêu của ngân hàng khi cho vay là: một mặt, tài trợ
vốn cho khách hàng một cách có hiệu quả, giúp khách hàng có vốn để thành
lập, duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh; mặt khác, xét cho vay là hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, mục tiêu là thu hồi nợ và có lãi. Hoạt động
cho vay có chất lượng phải đáp ứng được cả hai yêu cầu trên.
Đối với các chủ thể khác nhau thì quan niệm về chất lượng cho vay sẽ
khác nhau. Đối với NHTM, chất lượng cho vay thể hiện qua quy mơ cho vay,
việc đảm bảo các ngun tắc an tồn trong cho vay, việc mang lại thu nhập
thông qua hoạt động cho vay… Cịn đối với doanh nghiệp thì chất lượng cho
vay lại thể hiện qua khả năng đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời và đầy đủ, chi phí
vốn hợp lý, hiệu quả mang lại từ việc sử dụng vốn vay. Đối với cơ quan quản
lý Nhà nước thì chất lượng cho vay được thể hiện trên hiệu quả của tồn bộ

nền kinh tế, tính ổn định của thị trường tài chính và hiệu quả hoạt động của
các doanh nghiệp.
Chất lượng cho vay là một khái niệm vừa mang tính cụ thể vừa mang
tính trừu tượng. Chúng ta có thể sử dụng một số công thức và chỉ số để cụ thể
để lượng hoá chất lượng cho vay, tuy nhiên đối với những mặt khơng thể
lượng hố được thì sẽ sử dụng các chỉ tiêu định tính.

Nguyễn Thị Nga

Lớp TCDN 47A


×