Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Một số giải pháp huy động vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.23 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sự tồn tại và phát triển của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh
tế thị trường hiện đại là một tất yếu khách quan do nhu cầu của thị trường rất
đa dạng và phong phú mà các Doanh nghiệp lớn không đáp ứng được. Hơn
nữa, các Doanh nghiệp vừa và nhỏ với đặc điểm nhạy cảm, thích ứng nhanh,
dễ dàng thâm nhập mọi ngõ ngách của thị trường, có vai trò đáng kể trong
việc làm nền kinh tế năng động. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động tiệu thụ
sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam, thu hút vốn và tạo
thêm nhiều việc làm với chi phí thấp.
Ở Việt Nam hiện nay, riêng trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, số
lượng Doanh nghiệp và nhỏ chiếm trên 94%. Năm 1993, các Doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong công nghiệp, vận tải, thương mại dịch vụ đã thu hút trên 3,5
triệu lao động, chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư của các lĩnh vực này, tạo ra 26%
giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp và 54% giá trị công nghiệp
(CN) địa phương, chiếm 78% tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ, số lượng
đóng góp không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Do vậy việc tìm kiếm giải
pháp thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa lớn trong vấn
đề giải quyết kinh tế - xã hội cũng như đối với công nghiệp hoá hiện đại hoá
chiến lược ưu tiên hàng đầu của chính phủ Việt Nam hiện nay.
Các doanh nghiệp này hiện gặp rất khó khăn trong hoạt động kinh doanh
trong đó thiếu vốn đang là một trong những vấn đề khó khăn nhất của các
Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy tỷ trọng cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ vay
trong tổng số tín dụng ngân hàng đã tăng lên năm 1990 là 5%; năm 1993 là
15%; năm 1995 là 50% nhưng nhìn chung các Doanh nghiệp này vẫn thiếu
vốn trầm trọng. Do chưa có thị trường vốn và hệ thống ngân hàng còn yếu
kém cộng thêm sự yếu kém của các Doanh nghiệp này nên nhiều nơi chỉ có
khoảng 60% số Doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được tín dụng ngân hàng
1
(có nơi chỉ 30 - 35%), đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu vốn, đặc biệt là vốn
đầu tư khi thành lập Doanh nghiệp. Phần lớn vốn còn lại được trang trải bằng
vốn tự có và các hình thức huy động phi chính thức. Các nguồn vốn này hiện


chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ. Do đó chưa có giải pháp
cần thiết để huy động, sử dụng một cách an toàn, có hiệu quả.
Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại trường Học viện Ngân Hàng nên
em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp huy động vốn của các Doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay” làm chuyên đề cho môn học.
Đề tài của em gồm 3 chương:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CHO
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm về vốn
Vốn nói chung được hiểu là một khoản tiền ban đầu hay số tài sản tích
lũy thuộc sở hữu cá nhân hay một đơn vị, nó khác với khoản lợi nhuận và thu
nhập phát sinh từ đó. Như vậy, theo nghĩa rộng thì vốn là những tài sản tích
luỹ được đóng vai trò là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Theo quan
niệm đó thì cả tài nguyên, đất đai, lao động, tri thức, tay nghề tinh xảo cũng
được coi là vốn sản xuất. Với quan niệm như vậy nên trong quá trình liên
doanh với nước ngoài, phía Việt Nam góp đất vào kinh doanh cũng được coi
là vốn.
Thiếu vốn cộng với tình trạng vốn giá cao như hiện nay các doanh
nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt là một vấn đề mang tính hai mặt. Một
mặt, nếu xét trong ngắn hạn sẽ là khó khăn đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, nhưng mặt khác, nếu xét trong dài hạn, có lẽ lại là

một “động lực” giúp doanh nghiệp phải có chiến lược phù hợp để cấu trúc lại
nguồn vốn, sử dụng một cách hiệu quả đồng vốn, cơ cấu vốn của mình đảm
bảo hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng phần nào
loại bỏ dần tình trạng đầu cơ. Như vậy có thể nói vốn rất quan trong đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.
Nguồn vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể huy động từ các
nguồn như: vốn tự có, vốn vay từ các tổ chức tín dụng( Ngân hàng thương
mại), huy động từ thị trường chứng khoán, hỗ trợ vốn của nhà nước, vốn đầu
tư từ nước ngoài, vốn chiếm dụng,…
3
Các doanh nghiệp cần xây dựng cấu trúc vốn tối ưu nhằm làm giảm rủi
ro và chi phí vốn. Các trường hợp hiệu quả kinh doanh và giá trị của doanh
nghiệp tăng cao sẽ không thuộc về các doanh nghiệp chỉ biết sử dụng nguồn
vốn tự có. Tùy theo tỷ lệ vốn vay được sử dụng để tạo ra hiệu quả kinh doanh
mà giá trị của doanh nghiệp sẽ tăng lên nhiều hay ít. Do vậy, doanh nghiệp
cần xác định mức tỷ lệ vốn vay nhất định trong cấu trúc vốn của doanh
nghiệp.
Trên thực tế, vẫn có doanh nghiệp nâng mức vốn vay lên trên 50% mà
vẫn đạt được hiệu quả sử dụng vốn như mong đợi. Nhưng từ cấu trúc vốn tối
ưu được xác định ứng với những điều kiện riêng của doanh nghiệp, cấu trúc
vốn mục tiêu thường được các doanh nghiệp duy trì mức tỷ lệ vốn vay trong
độ an toàn mà đa phần doanh nghiệp ứng dụng thấp hơn tỷ lệ vốn sở hữu, có
thể là 60% vốn chủ sở hữu và 40% vốn vay.
1.2. Nhu cầu vốn thực tế và việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Cùng với thủ tục hành chính và đất đai, vấn đề tiếp cận vốn đang là một
trong những rào cản chính cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
hiện nay. Các DNVVN lâu nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận
vốn từ các tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Nguyên nhân chủ yếu là do các DNVVN không đáp ứng đủ điều kiện

cho vay. Theo phản ánh của nhiều ngân hàng, để cho doanh nghiệp vay, ngân
hàng phải tìm hiểu tính khả thi của đề nghị như thế nào? cân đối tài chính của
doanh nghiệp có lành mạnh? Đủ tài sản đảm bảo?
Những điều kiện trên thường chỉ có những doanh nghiệp lớn, có uy tín,
thương hiệu mới đáp ứng được. Theo điều tra gần đây của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, chỉ có 1/3 doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng, 1/3 khó tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được. Không ít doanh
nghiệp vừa và nhỏ cho rằng, thủ tục của các ngân hàng đặt ra là “quá sức” đối
4
với họ. Ngay cả khi có chính sách ưu đãi của chính phủ cũng chỉ có 5% - 10%
số doanh nghiệp vừa và nhỏ được vay vốn.
Hiện nay, mức lãi suất trần huy động vốn Ngân hàng Nhà nước quy định
đối với các ngân hàng thương mại là 14% một năm, lãi suất cho vay trong
lĩnh vực kinh doanh là 17% - 18%/năm. Thực tế thì một số ngân hàng thương
mại đã phá rào huy động vốn bằng cách nâng mức lãi suất lên mức từ 15% -
19% một năm tuỳ vào từng thời điểm và số lượng tiền gửi
Việc huy động vốn với lãi suất trần vượt quy định đồng nghĩa với việc
lãi suất cho vay cũng sẽ được nâng lên từ 20% -22% một năm. Một số ngân
hàng còn tự đặt ra nhều loại phí, khiến mức lãi suất thực tế các doanh nghiệp
phải vay có thể lên đến 27%. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến các doanh
nghiệp thực sự cần vay vốn để sản xuất kinh doanh. Với mức lãi suất cao như
vậy, không ít doanh nghiệp không dám vay vốn đầu tư cho sản xuất kinh
doanh.
Theo nghiên cứu của VCCI, có đến 74,47% doanh nghiệp muốn tìm đến
vốn bằng hình thức vay ngân hàng. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng
tiếp cận được nguồn vốn này. Để giải bài toán vốn cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong giai đoạn lạm phát và lãi xuất cao hiện nay thì các doanh nghiệp
phải tự tìm cách cứu mình trước khi cầu cứu đến ngân hàng với phương
châm: “Việc tạo vốn cho sản xuất, kinh doanh không nhất thiết chỉ nhìn duy
nhất vào Ngân hàng Thương mại. Vốn còn được hình thành từ nhiều kênh

khác nhau”.
Lợi dụng sự lệch pha vốn và hữu dụng hoá các nguồn vốn đang hiện
hữu trong nền kinh tế ngoài kênh ngân hàng thương mại cũng khá đa dạng và
rất cần được thể chế hoá và nhận diện để tư vấn cho doanh nghiệp về các
kênh tạo vốn phi truyền thống hoặc không phổ biến ở nước ta. Doanh nghiệp
cũng có thể tìm vốn qua hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu, mua chịu
hàng hoá, đi thuê tài chính hay liên doanh liên kết.
Thị trường chứng khoán được xem là kênh huy động vốn quan trọng của
5
nhiều doanh nghiệp. Với nhiều hình thức khác nhau như gọi vốn từ cổ đông,
chào bán riêng lẻ cho đối tác, công nhân viên chức… Việc phát hành cổ phiếu
đã được nhiều doanh nghiệp ưa chuộng. Cùng với cổ phiếu, phát hành trái
phiếu thời gian vừa qua cũng giúp nhiều doanh nghiệp tìm được một kênh
huy động vốn rất hiệu quả
 Các chiến lược về nhu cầu vốn:
Khi quyết định chọn nguồn vốn nào, doanh nghiệp cần xem xét nhu cầu
lúc đó của mình để tối ưu hóa chi phí vốn.
- Dùng vốn tự có: Đây là nguồn vốn của doanh nghiệp do các chủ sở hữu
đóng góp. Vốn tự có cũng có thể được tạo ra dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Nếu
sử dụng vốn tự có, doanh nghiệp sẽ luôn ở thế chủ động và tránh được các rủi
ro về tỉ giá (nếu vay ngoại tệ) và lãi vay. Tuy nhiên, doanh nghiệp không nên
chỉ dùng vốn tự có mà cầnđa dạng hóa kênh huy động vốn.
- Dùng vốn vay: Một doanh nghiệp tận dụng được nguồn vốn vay tức là
đã tối ưu hóa được chi phí vốn. Nguồn vốn này có thể giúp doanh nghiệp đáp
ứng các nhu cầu vốn trong ngắn hạn và cả dài hạn. Tuy nhiên, khi sử dụng
vốn vay, doanh nghiệp thường bị động, lệ thuộc vào tình hình bên ngoài như
điều kiện vay có thuận lợi hay không. Điều quan trọng hơn là nếu không chú
ý đến cơ cấu vốn và sử dụng vốn không hợp lý, vốn vay sẽ trở thành gánh
nặng đối với doanh nghiệp vay lãi cao nguy cơ vỡ nợ.
- Chiến lược tài chính kết hợp: Đây là chiến lược kết hợp sử dụng cả vốn

vay lẫn vốn tự có. Chiến lược này, là “phù hợp với doanh nghiệp Việt Nam”.
Vấn đề là doanh nghiệp sẽ xem xét khi nào cần đi vay và khi nào nên sử dụng
vốn tự có.
Tìm vốn luôn là bài toán khó, đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhưng nếu xây dựng chiến lược vốn hợp lý, doanh nghiệp sẽ không khó tìm
ra lời giải.
Trước nhu cầu đầu tư phát triển và sức ép cạnh tranh của thị trường, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đều nhận thấy nhu cầu huy động vốn là rất bức
thiết, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có cái nhìn đúng đắn về việc huy
6
động vốn phải xuất phát từ nỗ lực của mình và phải phù hợp với các chuẩn
mực của nguồn vốn đầu tư, cụ thể là tính hiệu quả, tính an toàn và tính hài
hòa giữa vốn chủ và vốn nợ.
Nhiều năm nay các chủ doanh nghiệp đều trông mong vào Nhà Nước hỗ
trợ vốn Ngân hàng Nhà nước vừa chính thức thực hiện giải ngân nguồn tín
dụng 850 tỷ đồng thuộc Dự án tài trợ DN nhỏ và vừa giai đoạn II (SMEFP II)
để cho các DN nhỏ và vừa vay phát triển kinh doanh. Tuy nhiên các doanh
nghiệp có quy mô vốn nhỏ rất khó đạt tiêu chuẩn để tiếp nhận nguồn vốn này.
Thực tế hiện nay UBND TP HCM cũng đã thành lập Quỹ bảo lãnh tín
dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn, với tổng vốn 50 tỷ đồng.
Điều kiện bảo lãnh là doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp, cầm cố tối thiểu
là 30% giá trị khoản vay
Theo thống kê cho thấy hiện nay, chỉ có 32% doanh nghiệp tiếp cận
được nguồn vốn của ngân hàng, trong khi đó, có tới 32% khó tiếp cận, 36%
số doanh nghiệp không có khả năng tiếp cận ngân hàng. Tất nhiên một số
ngành nghề, một số chương trình sản xuất kinh doanh cần có sự hỗ trợ của
Nhà Nước.
Nhưng nếu nhìn dưới góc độ hưởng lợi thì quan hệ vay – cho vay ở đây
không bình dẳng về quyền lợi. Ngân hàng chỉ thu lại khoảng 12%/năm và có
thể mất trắng nếu doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả phải phá sản,

ngược lại nếu doanh nghiệp kinh doanh thành công thì những người chủ sẽ
được hưởng lợi rất lớn. Do đó NH cần phải có những yêu cầu bảo đảm cho
nguồn tín dụng của mình, đó là bên cạnh phương án kinh doanh tốt, DN cần
có vốn chủ sở hữu đầu tư vào tối thiểu 30%, và có thể cần thêm tài sản thế
chấp. Rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không đáp ứng được yêu cầu này vì
thế hiện nay nguồn vốn của ngân hàng khá dồi dào và rất muốn cho doanh
nghiệp vay đầu tư những rất ít doanh nghiệp thỏa mãn được tiêu chuẩn của
Ngân hàng.
Hiện nay có rất nhiều Quỹ đầu tư Việt Nam và nước ngoài đang tìm
7
kiếm các doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng để tham gia đầu tư với số vốn
lên đến vài trăm triệu USD. Tuy nhiên để có thể thu hút nguồn vốn này,
doanh nghiệp cần phải tích cực chuyển đổi phương thức điều hành theo
hướng hiện đại. Cụ thể doanh nghiệp cần phải đạt các tiêu chuẩn sau:
• Doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả hoặc có phương án tốt để
phát triển mạnh mẽ
• Doanh nghiệp cần có hệ thống kế toán minh bạch.
• Doanh nghiệp phải có hệ thống quản trị công ty hiệu quả và phân
quyền rõ ràng, đồng thời sẵn sàng tái cấu trúc bộ máy quản lý để nâng cao
năng lực quản trị.Thông thường Quỹ Đầu tư sẽ tư vấn giúp doanh nghiệp cải
tiến bộ máy quản lý, cấu trúc tài chính và họach định chiến lược kinh doanh.
Tuy nhiên nếu doanh nghiệp có thể chủ động thuê chuyên gia hoặc đơn vị tư
vấn độc lập để hỗ trợ, điều đó có thể giúp Doanh nghiệp bán cổ phần được giá
hơn cho Quỹ Đầu Tư.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
8
2.1. Khái quát chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1.1. Khái niệm

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về các đối tượng, các chủ thể kinh
doanh được coi là Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khái niệm Doanh nghiệp có tư
cách pháp nhân, gọi tắt là Doanh nghiệp với yêu cầu chứng minh tính pháp lý
của mình là sự đăng ký với cơ quan Nhà nước được sử dụng trong định nghĩa
sau đây về khu vực Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Định nghĩa Doanh nghiệp vừa và nhỏ: Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam là các chủ thể sản xuất kinh doanh được thành lập theo các quy định của
pháp luật có quy mô về vốn hoặc và số lao động phù hợp với quy định của
chính phủ.
Công văn số 681 /CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh
nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn
kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa
VND và USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây
dựng một bức tranh chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phục
vụ cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép
phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vì vậy, tiếp theo đó Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và
vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc
lập, đó đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không
quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Các doanh nghiệp cực nhỏ được quy định là có từ 1 đến 9 nhân công, doanh
nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là doanh nghiệp nhỏ.
Quy mô
khu vực
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Tổng nguồn vốn Số lao động Tổng nguồn vốn Số lao động
Nông lâm, thủy
sản
20 tỷ đồng trở
xuống

Trên 10-200
người
Trên 20-100 tỷ
đồng
Trên 200-300
người
9
Công nghiệp và
xây dựng
20 tỷ đồng trở
xuống
Trên 10-200
người
Trên 20-100 tỷ
đồng
Trên 200-300
người
Thương mại và
dịch vụ
10 tỷ đồng trở
xuống
Trên 10-50
người
Trên 10-50 tỷ
đồng
Trên 50-100
người
(Nguồn: Nghị định Chính phủ số 56/2009/ NĐ- CP)
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung nhiều ở khu vực chế biến, gia
công và dịch vụ , tức là gần với người tiêu dùng hơn. Trong đó cụ thể là:

- Là vệ tinh, chế biến bộ phận chi tiết cho các doanh nghiệp lớn với tư
cách là tham gia vào các sản phẩm đầu tư.
- Thực hiện các dịch vụ đa dạng và phong phú trong nền kinh tế như các
dịch vụ trong quá trình phân phối và thương mại hóa, dịch vụ sinh hoạt và
giải trí, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ.
- Trực tiếp tham gia chế biến các sản phẩm cho người tiêu dùng cuối
cùng với tư cách là hà sản xuất toàn bộ.
Quy mô hoạt động: Do cấu trúc và quy mô sản xuất, kinh doanh nhỏ bé,
phạm vi hoạt động hẹp cho nên doanh nghiệp nhỏ và vừa rất linh và nhạy bén
trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tùy theo diễn biến của thị trường
nhất là khi thị trường có biến động lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thực
hiện dễ dàng việc thay đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh thậm chí là cả
địa điểm kinh doanh được. Trong điều kiện không thuận lợi, các doanh
nghiệp này có thể chuyển dịch từ nganhg này sang nghành khác, từ lĩnh vực
này sang lĩnh vực khác.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn chiếm tỷ lệ cao và có xu
hướng gia tăng rõ rệt: Doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2006 chiếm 97,2% và
tăng lên 97,4% trong năm 2007, đặc biệt năm 2009 tỷ lệ này đã tăng lên đến
98% tổng số các doanh nghiệp khu vực nhà nước, khu vực ngoài quốc doanh
và khu vực vốn đầu tư nước ngoài (Nguồn: Tổng cục thống kê).
2.1.2. Vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí rất quan trọng và ngày càng tăng đối
với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo đánh giá của các chuyên viên
kinh tế ở các nước Nics, Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 81 - 98%,
10
thu hút số lượng lao động từ 40 - 70%, tạo ra giá trị tăng từ 22 - 55%, xuất
khẩu trực tiếp 15 - 66%.
Ở Việt Nam, trong báo cáo tại hội nghị TW khoá VII, đồng chí Tổng bí
thư Đỗ Mười đã nhấn mạnh “Phát triển các loại hình quy mô Doanh nghiệp
vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít. Suất sinh lời cao, thời gian

thu hồi vốn nhanh theo phương châm lấy ngắn nuôi dài”. Thực tế cho thấy
nền kinh tế Việt Nam còn kém phát triển, chủ yếu là sản xuất nhỏ, nên Doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số Doanh nghiệp có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn,
làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Điều đó được thể hiện qua các số liệu dưới đây.
Bảng 1: Vai trò Doanh nghiệp vừa và nhỏ qua kết quả điều tra của
nhóm nghiên cứu
Vai trò Tỷ lệ ý kiến %
Góp phần tăng trưởng kinh tế 51,7
Tạo việc làm, thu hút vốn, tăng thu nhập 88,5
Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn 83,9
Để phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh 63,2
- Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế:
Năm 1993, giá trị sản lượng công nghiệp do Doanh nghiệp vừa và nhỏ
tạo ra là 5315 tỷ đồng, chiếm 25% giá trị tổng sản lượng toàn ngành và 54%
giá trị công nghiệp địa phương. Tổng giá trị bán lẻ hàng hoá dịch vụ đạt
29000 tỷ đồng, bằng 78% tổng mức bán lẻ. Trong vận tải Doanh nghiệp vừa
và nhỏ chiếm 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá. Trong nhiều ngành nghề
như gỗ xẻ, chiếu cói, giầy dép Doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất 100%
sản phẩm.
- Thu hút việc làm:
11
Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công nghiệp, thương mại, dịch vụ thu
hút 3,5 triệu lao động. Riêng trong công nghiệp, các Doanh nghiệp này thu
hút 50% tổng số lao động, chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong
các Doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 740 ngàn đồng chỉ bằng 3% Doanh
nghiệp lớn.
- Thu hút vốn:
Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ rất dễ tiếp xúc trực tiếp các nguồn vốn,

người cho vay, gây được niềm tin để huy động vốn hoặc chính người có tiền
đứng ra đầu tư kinh doanh.
- Làm nền kinh tế năng động có hiệu quả hơn:
Do số lượng các Doanh nghiệp này tăng lên một cách nhanh chóng và
đặc điểm là gọn nhẹ vì vậy có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ, chuyển
hướng kinh doanh một cách nhanh chóng.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập của người
dân, nhất là ở các vùng nông thôn thành thị.
2.1.3. Thực trạng các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn hiện nay.
Trong những năm gần đây Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phát triển
tự phát khá nhanh, chiếm tỉ trọng gần 90% trong tổng số Doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế. Theo số liệu thống kê nước ta có 26000 Doanh
nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và gần 6000
Doanh nghiệp và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chiếm tỷ trọng 25%,
Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chiếm vị trí quan trọng.
Tuy nhiên, cơ chế cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và tình hình
khủng hoảng tài chính, kinh tế của các nước trong khu vực cũng như trên thế
giới đã có tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới các Doanh nghiệp và làm cho
các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta bộc lộ những mặt hạn chế và gặp
không ít các khó khăn, cụ thể là:
a. Việc đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất sản phẩm vật chất không bằng
12
đầu tư vào các hoạt động kinh doanh, thương mại, dịch vụ của Doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Đây là mặt tồn tại trong thực trạng phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ,
hạn chế phần nào vai trò của loại hình Doanh nghiệp này trong phát triển kinh
tế. Điều đó còn phản ánh sự bất cập của chính sách vĩ mô, thiếu một chiến
lược phát triển kinh tế lâu dài. Mặt khác do tình trạng hàng biên giới, hàng đã
qua sử dụng, hàng nhập lậu tràn ngập trên thị trường với giá rẻ cũng là rào
cản việc thu hút các nhà đầu tư trong nước.

b. Trình độ công nghệ, trang thiết bị, máy móc vừa cũ, vừa lạc hậu lại
không đồng bộ đã hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp
và và nhỏ nước ta.
c. Lực lượng công nhân kỹ thuật và lao động lành nghề được đào tạo còn
quá ít, hạn chế cả trình độ hiểu biết lại biến động, nên việc quản lý và sử dụng
lao động vô cùng khó khăn, cộng với đội ngũ cán bộ thiếu kỹ năng quản lý
dẫn đến hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp vừa và nhỏ không cao, năng
suất lao động thấp, thu nhập không ổn định.
d. Các chính sách vĩ mô, vi mô nhằm hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ
còn hạn chế, nặng về hình thức, thiếu hướng dẫn cụ thể như chính sách đối
với Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, chính sách vay vốn tín dụng
với lãi suất ưu đãi nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, các hệ thống
thông tin, các dịch vụ tư vấn về mặt hàng, thị trường, công nghệ, thiết bị, luật
pháp, thông lệ quốc tế về kinh doanh không đáp ứng được các nhu cầu của
các Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
e. Những khó khăn phiền toái đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ xung
quanh các thủ tục hải quan, thuế, nhà đất vẫn còn là nỗi lo lắng, băn khoăn
của các Doanh nghiệp.
f. Cuối cùng là tình trạng thiếu vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đây là vấn đề đáng lo ngại nhất. Nếu như vốn lưu động của các Doanh nghiệp
13
vừa và nhỏ chỉ đạt 20% so với nhu cầu thì vốn đăng ký của nhiều Doanh
nghiệp vừa và nhỏ chỉ vẻn vẹn có 17 tỷ đồng. Đa số các Doanh nghiệp hiện
không có đủ điều kiện thế chấp theo yêu cầu của ngân hàng để vay vốn, tỷ
trọng vốn vay ngân hàng của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm 20%
nhu cầu vốn hoạt động.
Nhìn chung các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đều dựa vào nguồn vốn tự có
là chính hoặc huy động từ nhân thân, bạn bè Việc các Doanh nghiệp vừa và
nhỏ không sử dụng được nguồn vốn tín dụng là hạn chế lớn nhất đối với sự
phát triển của loại hình Doanh nghiệp này.

2.2. Thực trạng huy động vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai
đoạn hiện nay
2.2.1. Vai trò của vốn trong các Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là công cụ góp phần khai thác toàn diện mọi
nguồn lực kinh tế, đặc biệt là những loại nguồn lực tiềm tàng sẵn có với khả
năng có hạn ở mỗi người, mỗi miền Tổ quốc. Các loại doanh nghiệp này nếu
được phát triển, chắc chắn sẽ có tác dụng to lớn trong việc giải quyết mối
quan hệ mà quốc gia nao đó trên thế giới cũng phải quan tâm chú ý đến đó là
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, kiềm chế lạm phát.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế.
Họ là khối doanh nghiệp làm ra của cải và tạo ra rất nhiều công ăn, việc làm
cho người lao động. Do vậy, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hoạt
động và phát triển đòi hỏi nguồn vốn lớn đáp ứng quá trình sản xuất, kinh
doanh, đảm bảo khả năng thanh toán.
Thực tế trong thời gian vừa qua khi Chính phủ thực hiện chính sách “thắt
chặt tiền tệ” cộng với bão giá của tất cả các mặt hàng đầu vào, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ và siêu nhỏ liên tiếp gặp những khó khăn trong việc huy
động vốn đáp ứng hoạt động sản xuất- kinh doanh.Vì thế hiện nay, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa rất cần được nhà nước quan tâm hỗ trợ về vốn cho các DN
14
nhằm giúp họ đầu tư và sản xuất trở lại.
 Các nguồn vốn của một doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Quy mô vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ theo kết quả điều tra toàn bộ
doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê năm 2008 cho thấy có khoảng 85%
tổng số doanh nghiệp có số vốn dưới 10 tỷ đồng( trong đó 78% dưới 5 tỷ).
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều
so với doanh nghiệp lớn cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
Nguồn vốn của các doanh nghiệp thường là vốn có nguồn gốc xuất phát
từ tiền tiết kiệm của gia đình và bắt nguồn từ lượng tiền nhàn rỗi. Do tính chất
nhỏ lẻ , dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách và yêu cầu số lượng vốn ban

đầu không nhiều cho nên các doanh nghiệp nhỏ thu hút các nguồn vốn nhỏ,
nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh tạo sản
phẩm và dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh nghiệp nhỏ còn dễ dàng sử dụng
được đồng tiền đang phân tán và nằm im, do đó đẩy nhanh được việc hình
thành vốn.
- Vốn chủ sở hữu:
Là loại vốn thường được tạo ra từ nguồn vốn riêng của các doanh nghiệp
chủ vốn đóng góp của các cổ đông, bạn bè, họ hàng… Nguồn vốn này chiếm
khoảng 5- 10% vốn luân chuyển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thực tế ta thấy hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường sử dụng
phần lớn nguồn vốn này vào việc kinh doanh chiếm khoảng 47,2% trên tổng
số vốn toàn doanh nghiệp.
Theo thống kê thì tỷ lệ vay vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ từ vốn chủ
sở hữu ở Hà Nội là 45,6%, Hải Phòng là 46,7%, Quảng Ninh là 49,3% chiếm
tỷ lệ lớn trong số vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hầu hết các chủ kinh doanh mới đều thích sử dụng vốn của mình thay vì
vay các ngân hàng hoặc tổ chức tài chính khác, cá nhân khác.
Vốn chủ sở hữu của chủ doanh nghiệp là toàn bộ số tiền mà doanh
15
nghiệp đang có. "Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp" là vốn đóng góp của các
cổ đông hay của người chủ duy nhất, số vốn này không gây ra chi phí cho
doanh nghiệp. Thực tế hiện nay, nguồn vốn chủ sở hữu thấp của doanh nghiệp
vừa và nhỏ hầu như không đáp ứng được đủ điều kiện để tham gia vào quá
trình hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, họ phải huy động vốn chủ yếu
từ nhiều nguồn: vay ngân hàng và của bản thân chủ doanh nghiệp, gia đình,
bạn bè, nước ngoài.
- Huy động vốn từ thị trường chứng khoán:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như không đủ điều kiện niêm yết trên thị
trường tập trung hiện nay nên họ không có khả năng tiếp cận thị trường này.
Theo kết quả thăm dò về khả năng tham gia thị trường chứng khoán của

doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ủy Ban chứng khoán Nhà nước mới đây cho
thấy hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều muốn huy động vốn qua thị
trường chứng khoán.
- Vốn vay:
Ngoài phần vốn tự có của doanh nghiệp (vốn góp) thì nguồn vốn vay có
vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nó có thể đáp ứng các nhu cầu về vốn trong ngắn hạn hoặc dài hạn,
có thể huy động được số vốn lớn, tức thời. Tuy nhiên, sử dụng vốn vay phải
hết sức chú ý đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, kế hoạch sử dụng vốn phải
đảm bảo hợp lý, đúng mục đích; quản lý tốt quỹ tiền mặt, kỳ trả nợ và kỳ thu
tiền, kế hoạch sản xuất kinh doanh phải được lập bám sát thực tế nếu không
vốn vay sẽ trở thành một gánh nặng đối với doanh nghiệp.
- Vốn chiếm dụng:
Vốn chiếm dụng của nhà cung cấp (Tín dụng thương mại): Đây cũng là
một nguồn vốn tương đối quan trọng trong doanh nghiệp. Nguồn vốn này
xuất phát từ việc doanh nghiệp chiếm dụng tiền hàng của nhà cung cấp (trả
chậm), việc chiếm dụng này có thể phải trả phí (lãi) hoặc không phải trả phí
16
nhưng lại đáp ứng được việc doanh nghiệp có nguyên vật liệu, điện, nước,
để sản xuất kinh doanh mà chỉ phải bỏ ra ngay lập tức một số tiền ít hơn số
tiền đáng lẽ phải bỏ ra ngay lập tức để có được số nguyên vật liệu, điện, máy
móc, để tiến hành sản xuất.
Như vậy, doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ tiền mặt của mình cho mục
đích khác. Tuy nhiên, sử dụng nguồn vốn này cần lưu ý: không nên chiếm
dụng quá nhiều hoặc quá lâu một khoản nợ nào đó vì nó sẽ ảnh hưởng đến uy
tín của doanh nghiệp với đối tác, với thị trường hoặc kiện tụng pháp luật, tốt
nhất nên có sự thoả thuận về việc chiếm dụng vốn.
- Nguồn vốn khác:
Nguồn vốn khác: ví dụ lợi nhuận để lại, lương cán bộ công nhân viên
chậm thanh toán, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, nguồn vốn nhàn rỗi của

nhân viên,
2.2.2. Tính tất yếu phải huy động vốn cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thực tế hiện nay việc huy động vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đang là vấn đề khó khăn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn chịu nhiều
thiệt thòi trong quá trình huy động vốn.
Với quy mô nhỏ, các doanh nghiệp thường lâm vào tình trạng thiếu vốn,
trong khi đó nhu cầu sử dụng vốn lại luôn là sự cần thiết của các doanh
nghiệp cho việc sản xuất và thay đổi công nghệ để có thể tiếp tục kinh doanh
trên thị trường của nền kinh tế thị trường thời mở cửa như hiện nay, Nhu
chúng ta đã biết việc tiếp cận vốn vay là một trong những thách thức lớn của
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này cũng xuất phát bởi nhiều nguyên nhân.
Trong bài viết này em xin đề cập đến hai nguyên nhân đó là nguyên nhân
khách quan và chủ quan dưới góc độ nhìn nhận của các Ngân hàng và của
chính những doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay của nước ta.
 Nguyên nhân:
 Nguyên nhân khách quan:
17
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ mở cửa và phát triển
điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội mở ra và
cạnh tranh trên thị trường . Thế nhưng nền kinh tế nước ta vẫn không phải là
nền kinh tế ổn định, tác động đầu tiên cho vấn đề vốn của doanh nghiệp là
lạm phát.
Việc lạm phát có xu hướng tăng hàng năm, đồng tiền mất giá khiến cho
công việc quản lý của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, sản xuất, là vì
vừa và nhỏ, cho nên rất khó để bù đắp được vốn bỏ ra, đồng tiền của kỳ trước
giá trị hơn đồng tiền của kỳ sau khiến cho việc bỏ ra một khoản lớn hơn để
mua đồ dùng, công cụ, nguyên vật liệu và rồi kỳ sau mang ra bán và không
thu được vốn ban đầu.
Nguồn vốn cung ứng nó khá nhỏ so với cơ cấu doanh nghiệp, điều này
từ chính sách cho ồ ạt mở cửa doanh nghiệp đãn đến việc các doanh nghiệp

mở ra không có vốn hoặc số vốn quá nhỏ. Việc ngân hàng chỉ đáp ứng được
phần nào của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
 Nguyên nhân chủ quan:
Doanh nghiệp nhỏ phải chịu mức lãi suất vay cao hơn mặt bằng chung
nhưng lại không có quyền mặc cả, kể cả khi có cơ chế lãi suất thỏa thuận.
Tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vốn dĩ rất khó với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, nay trong điều kiện nguồn tín dụng của các ngân hàng nhỏ giọt thì điều
kiện vay càng khó hơn. Trong đó, cơ chế cho vay thỏa thuận mới được áp
dụng càng làm khó doanh nghiệp khi ngân hàng áp mức lãi suất quá sức chịu
đựng của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu do hạn chế
về khả năng mở rộng sản xuất, hạn chế về đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng
thị trường, hạn chế về khả năng tiếp cận nguồn lực đất đai và các nguồn vốn,
hạn chế khả năng tiếp cận thông tin.
Những hạn chế này không thể thay đổi được nếu doanh nghiệp thiếu
18
vốn. Bởi vậy, doanh nghiệp nào cũng cần chủ động tạo ra nguồn vốn ngắn
hạn đảm bảo hoạt động trơn tru, tạo ra nguồn vốn dài hạn để mở rộng sản
xuất kinh doanh, tái cấu trúc hoạt động của mình. Tuy nhiên, trong thực tế
việc huy động vốn của doanh nghiệp không dễ dàng.
Hiện nay dòng tiền của các Ngân hàng vẫn chảy vào các doanh nghiệp
lớn là chủ yếu và các tập đoàn hay công ty có thứ hạng trên thị trường cho dù
95% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 25% GDP,
trong đó 26000 doanh nghiệp vừa và nhỏ làm về Thương mại, 6000 doanh
nghiệp trực tiếp sản xuất. Thế nhưng, thị trường mở cửa khiến cho doanh
nghiệp mở ra ồ ạt với quy mô nhỏ không thể tạo niềm tin cho nhà đầu tư,
Ngân hàng thương mại, nhiều doanh nghiệp chỉ có vốn đăng ký hợp pháp
dưới 5 triệu VNĐ đã được chính thức thành lập, nhiều khi chỉ là tự hộ gia
đình kinh doanh phát triển lên, nhiều doanh nghiệp chỉ lập ra như một “công
ty ma” rất khó có tính thuyết phục.

Đứng dưới góc độ nhìn nhận như thế Ngân hàng đã gây ra khó khăn cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ khó có thể cạnh tranh ngay cả việc vay vốn.
Điều này gây bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất nhiều.
Bên cạnh đó gây e ngại cho Ngân hàng hay nhà đầu tư đó là thông tin
của doanh nghiệp. Những số liệu thường không sẵn có cho từng doanh
nghiệp, kể cả số liệu ngành và số liệu doanh nghiệp. Những doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam, thường có thời gian hoạt động dưới 10 năm, tức là những
doanh nghiệp này thường vẫn là những doanh nghiệp mới, nhiều khi không cả
biết đến tên, hay ngành nghề sản xuất của họ. Những thông tin mà doanh
nghiệp cung cấp rất khó tin cậy, thường thì không chính xác.
 Các phương thức huy động vốn
Huy động vốn bao gồm huy động vốn ngắn hạn và huy động vốn dài
hạn. Huy động vốn bao gồm nhiều khâu công việc từ việc xác định số lượng
vốn cần huy động là bao nhiêu và cơ cấu các loại vốn huy động từ các cách
19
thức khác nhau thế nào, đặc biệt là đối với huy động vốn dài hạn thì phương
án huy động vốn đòi hỏi chất lượng rất cao, tính minh bạch, cụ thể và chi tiết
là điều bắt buộc phải đáp ứng.
Xét cho cùng, trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp thì ngoài vốn chủ sở
hữu, các nguồn vốn huy động được chính là những khoản vốn vay từ các
nguồn khác nhau và được gọi dưới các hình thức khác nhau. Với đặc trưng
được phép khấu trừ các chi phí vay khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, lợi
ích cơ bản khi doanh nghiệp tài trợ vốn bằng nợ vay chính là tạo ra lá chắn
thuế cho doanh nghiệp.
- Huy động vốn ngắn hạn: Là để đáp ứng nhu cầu tài trợ ngắn hạn của doanh
nghiệp bao gồm nhu cầu tài trợ thường xuyên và nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời
vụ. Trong đó, nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên phát sinh từ sự chênh
lệch nhau về thời gian và quy mô giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra của
doanh nghiệp. Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ do đặc điểm thời vụ của hoạt
động sản xuất kinh doanh khiến nhu cầu vốn ngắn hạn tăng đột biến.

Nguồn vốn ngắn hạn của doanh nghiệp về nguyên tắc là dùng để tài trợ
cho việc đầu tư vào tài sản lưu động, thường bao gồm tiền giao dịch, các
khoản phải thu và tồn kho. Các nguồn vốn tài trợ ngắn hạn thường bao gồm
các khoản nợ phải trả người bán; các khoản ứng trước người mua; Thuế và
các khoản phải nộp nhà nước; các khoản phải trả công nhân viên; các khoản
phải trả khác; và vay ngắn hạn từ ngân hàng. Trên thực tế, doanh nghiệp cần
tận dụng mọi nguồn vốn ngắn hạn nói trên, nếu vẫn thiếu hụt thì doanh
nghiệp mới phải sử dụng tới nguồn vốn vay ngắn hạn của ngân hàng.
- Huy động vốn dài hạn: Là để đáp ứng nhu cầu tài trợ cho các dự án đầu tư
hay tài trợ cho những kế hoạch kinh doanh dài hạn hoặc đầu tư vào tài sản lưu
động thường xuyên bị thiếu hụt.
Vốn dài hạn của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ dưới dạng cổ phần
thường, nguồn vốn vay dài hạn và nguồn vốn cổ phần ưu đãi. Nguồn vốn chủ
20
sở hữu gồm vốn do chủ sở hữu đóng góp hình thành hoặc phần lợi nhuận
được chia thuộc quyền của chủ sở hữu nhưng chưa phân chia mà giữ lại để tái
đầu tư.
Vốn chủ sở hữu được phản ánh bằng cổ phiếu là cổ phần thường, giá trị
thặng dư vốn và lợi nhuận giữ lại. Còn nguồn vốn cổ phần ưu đãi cũng là vốn
chủ sở hữu tuy nhiên còn có tính chất của nợ vì được chia cổ tức và tài sản
trước các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường. Kênh phát hành thêm cổ phần
mới trên thị trường chứng khoán là một phương thức huy động vốn rất quan
trọng của nhiều doanh nghiệp.
Nguồn vốn vay dài hạn theo thông lệ là nguồn vốn doanh nghiệp có thể
huy động được dưới hình thức nợ vay có thời hạn từ một năm trở lên. Nguồn
vốn vay bao gồm nguồn vay nợ ngân hàng và nợ huy động qua thị trường vốn
dưới hình thức phát hành trái phiếu.
Vay nợ ngân hàng có thể có thế chấp tài sản ứng với số vốn đi vay, cũng
có thể thế chấp bằng chính tài sản mà ngân hàng tài trợ cho vay để trang bị
(điển hình là trường hợp thuê mua tài sản là máy móc thiết bị) hay dựa vào

tính hiệu quả của dự án sản xuất kinh doanh có nhu cầu vay vốn và tính khả
thi của phương án trả nợ. Mỗi ngân hàng đều có những chuẩn mực, tiêu chí
riêng để xem xét đánh giá phương án vay của doanh nghiệp
 Một số lưu ý trong quá trình lựa chọn phương thức huy động vốn
Về kênh đi vay: Vay ngân hàng cũng gồm nhiều loại vay, phát hành trái
phiếu cũng gồm nhiều loại như trái phiếu thông thường, trái phiếu chuyển đổi,
trái phiếu có kèm quyền chọn bán, kèm điều khoản mua lại, trái phiếu có lãi
suất thả nổi,… Như vậy, ngoài năng lực vốn tự có, doanh nghiệp có nhiều
kênh và nhiều sản phẩm huy động vốn nhưng cũng chính vì sự phức tạp này
mà gây bối rối cho nhà đầu tư. Lựa chọn nguồn nào phụ thuộc vào chi phí huy
động vốn và những thuận lợi hoặc bất lợi của việc huy động đó, cũng như phụ
thuộc vào dòng tiền doanh nghiệp có thể sử dụng để hoàn trả chi phí huy
21
động vốn (tiền gốc hay mệnh giá khoản vay, lãi suất và cách thức trả lãi, thời
hạn khoản vay, các điều khoản phụ…).
Về kênh huy động vốn chủ sở hữu: chi phí sử dụng vốn cổ phần được xác
định thông qua các mô hình xác định suất sinh lời yêu cầu của chủ sở hữu, chi
phí sử dụng nợ là lãi suất vay của các tổ chức tài chính trung gian hoặc là lợi
suất đáo hạn mà doanh nghiệp phải trả cho nhà đầu tư nếu phát hành trái
phiếu. Tuy nhiên, nguồn vốn chi phí thấp không phải lúc nào cũng được chọn
vì còn tùy thuộc vào khả năng thương lượng để có nguồn vốn và những tác
động của nguồn vốn đó (thuận lợi hay bất lợi).
Lựa chọn phương thức huy động vốn bằng vay nợ hay huy động thêm
vốn chủ sở hữu cần hiểu rõ lợi thế cũng như bất lợi của từng phương thức.
Đối với vay nợ, ưu điểm của phương thức này là được khấu trừ thuế, có thể
tận dụng lợi thế đòn bẩy tài chính để gia tăng lợi nhuận cho cổ đông nhưng
bắt buộc phải trả vốn gốc và lãi, gây ra áp lực tài chính, làm gia tăng rủi ro tài
chính và xấu đi hệ số nợ của doanh nghiệp
Đối với phương thức sử dụng cổ phần ưu đãi có lợi thế là không phải trả
vốn gốc, có thể tùy chọn trả hoặc không trả cổ tức nhưng cổ tức không được

khấu trừ thuế và khó huy động được với khối lượng lớn. Đối với phương thức
huy động bằng phát hành cổ phần thường thì tuy không phải trả vốn gốc,
không bị áp lực trả cổ tức nhưng không được khấu trừ thuế đồng thời còn bị
phân chia phiếu bầu và chịu tác động đến quản trị công ty với các cổ đông
mới.
 Một số vấn đề về thực tế huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Việt Nam
Lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ, dù trong nền kinh tế nào, việc huy động
vốn dù là huy động từ việc phát hành cổ phiếu hay từ vay nợ bằng rất nhiều
hình thức khác cũng cần phải cân nhắc kỹ ưu điểm, nhược điểm thuộc về bản
chất của từng phương thức mà sử dụng. Tuy nhiên, với mỗi một điều kiện
22
kinh tế khác nhau, những yếu tố vĩ mô cũng là những nhân tố quan trọng chi
phối phương thức huy động vốn của doanh nghiệp ở từng thời kỳ.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển với xuất phát điểm
thấp nên có những đặc thù về phía doanh nghiệp cũng như về phía các định
chế tài chính, ngân hàng chi phối phương thức huy động vốn của các doanh
nghiệp, kể cả huy động vốn vay từ ngân hàng hay huy động vốn từ thị trường
vốn, và các kênh huy động vốn khác.
Đối với những nhu cầu vốn ngắn hạn: Các doanh nghiệp nhỏ đang lạm
dụng những nguồn tín dụng phi chính thức từ người thân, từ nhân viên nội bộ
doanh nghiệp, thậm chí nhiều doanh nghiệp chiếm dụng vốn của bạn hàng với
ý nghĩ rằng lượng vốn chiếm dụng này là “miễn phí” nhưng chưa hề tính toán
chi phí thực của vốn chiếm dụng được khi tính toán số tiền phải trả nếu thanh
toán ngay cho bạn hàng hoặc số tiền trả chậm để chiếm dụng.
Sự thiếu minh bạch khi huy động vốn nội bộ hay vay nợ người thân
trong nhiều trường hợp đã khiến mục tiêu vay nợ của doanh nghiệp không đạt
được. Thậm chí nhiều doanh nghiệp không huy động được nguồn vốn dài hạn
đã đi vay ngắn hạn để tài trợ cho mục tiêu dài hạn khiến cho mức chi phí tăng
cao mà nhiều trường hợp mục tiêu tài trợ cũng bị đổ bể.

Về nguồn vốn vay từ hệ thống ngân hàng: hiện nay đây vẫn là kênh tín
dụng được coi là rất khó tiếp cận đối với các DN. Ngân hàng đáp ứng được
phần vốn còn rất nhỏ so với nhu cầu vay ngân hàng của doanh nghiệp. Đặc
biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì các số liệu điều tra cho thấy
nhu cầu vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp loại này mới chỉ được đáp
ứng khoảng 1/3. Theo tính toán từ các cuộc điều tra khả năng tiếp cận tín
dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2005-2006 thì tỷ trọng doanh
nghiệp vừa và nhỏ tư nhân được các ngân hàng cho vay vốn chỉ chiếm 62,5%
tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa
23
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa lại không đáp ứng được yêu
cầu của ngân hàng về giá trị tài sản thế chấp cho khoản vay (còn thấp), tính
minh bạch của các số liệu tài chính – kế toán hoặc nếu đáp ứng được thì
không đủ tiêu chuẩn xét cho vay do tính hiệu quả của dự án xin vay thấp hoặc
thực tế thì có hiệu quả nhưng do doanh nghiệp thường hạ lợi nhuận để trốn
thuế thu nhập doanh nghiệp nên hồ sơ tài chính xin vay không đủ tiêu chuẩn.
Còn không ít doanh nghiệp lập phương án sản xuất kinh doanh làm hồ sơ
vay vốn còn mang tính đối phó, kế hoạch trả nợ chưa rõ ràng, nên không đủ
tiêu chuẩn cho vay theo yêu cầu của ngân hàng. Một vấn đề khác là nhiều khi
năng lực phân tích hiệu quả dự án cho vay của cán bộ ngân hàng trong nhiều
trường hợp còn chưa theo kịp thực tế doanh nghiệp nên sự đánh giá chưa xác
thực khiến doanh nghiệp khó tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Các cuộc điều
tra cũng chỉ ra rằng 50% doanh nghiệp nhỏ và vừa ít hoặc không tin tưởng
vào cán bộ tín dụng, nhiều doanh nghiệp cho rằng cán bộ tín dụng chưa quan
tâm đúng mức đến doanh nghiệp.
Do đó, để cải thiện tình hình, chỉ tiêu “quan hệ nghiệp vụ” giữa cán bộ
tín dụng và doanh nghiệp cần được cải thiện vượt bậc. Về phía doanh nghiệp
cần chủ động hơn trong việc đáp ứng yêu cầu của ngân hàng về tính minh
bạch trong quản trị tài chính, tính hiệu quả trong phương án sản xuất kinh
doanh và sự rõ ràng trong kế hoạch trả nợ. Về phía ngân hàng cũng nên làm

rõ việc cho vay không chỉ dựa trên tài sản thế chấp mà cần mở rộng hạn mức
cho vay tín chấp khi doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt, có uy tín trong
thanh toán vốn vay, có phương án sản xuất kinh doanh và phương án trả nợ
đáp ứng tiêu chuẩn cho vay của ngân hàng.
Về nguồn vốn từ hình thức tín dụng thuê tài chính: khả năng tiếp cận tín
dụng của doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2006 thì nguyên nhân không sử dụng
hình thức thuê tài chính chủ yếu do thiếu hiểu biết về hình thức này còn
doanh nghiệp có hiểu biết về hình thức này thì e ngại thủ tục và mức phí cao.
24
Mặt khác, thế mạnh của các tổ chức cho thuê tài chính là ngoài nguồn vốn sẵn
sàng cung ứng thì phải có am hiểu sâu sắc về nghiệp vụ (lĩnh vực kinh doanh
của các DN nhắm tới) và chủ động về nguồn cung ứng máy móc thiết bị về
lĩnh vực đó.
Tuy nhiên, các tổ chức thuê mua tài chính ở Việt Nam theo nhiều chuyên
gia còn thiếu tính chuyên nghiệp. Bới vậy, hình thức tín dụng này trong nhiều
năm qua không phát triển như kỳ vọng. Điều nay chỉ có thể thay đổi khi các
tổ chức cho thuê tài chính tự nâng cao năng lực và phát triển phương thức
kinh doanh hiệu quả hơn, tăng cường tiếp cận doanh nghiệp, gắn với nhu cầu
thực tế của doanh nghiệp. Nhà nước có thể có những hỗ trợ về chính sách đối
với loại hình hoạt động kinh doanh này cũng như cân nhắc hỗ trợ khuyến
khích cho các DN sử dụng hình thức tín dụng thuê mua tài chính thông qua
chính sách khấu hao máy móc thiết bị thuê mua tài chính…
Về nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dành cho các ngành nghề,
lĩnh vực cần khuyến khích thì khả năng tiếp cận của các DN lớn tốt hơn hẳn
so với các DN nhỏ và vừa. Việc sử dụng bảo lãnh tín dụng của các ngân hàng
cũng trong tình trạng tương tự.
Về nguồn vốn huy động từ thị trường tài chính qua kênh phát hành cổ
phiếu hoặc trái phiếu thì trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô còn chứa đựng
nhiều nhân tố bất ổn, thị trường chứng khoán thiếu sôi động và sụt giảm kéo
dài, phương thức huy động vốn này vẫn rất hạn chế trong giai đoạn từ 2008

tới nay, khác hẳn với thực tế huy động vốn qua kênh thị trường chứng khoán
rất thành công của năm 2007 (thậm chí trong giai đoạn 2006-2007 thì phần
giá trị thặng dư thu lại từ việc phát hành cổ phiếu mới của nhiều DN đạt giá
trị rất lớn).
Thực tế này chỉ có thể được cải thiện khi các giải pháp ổn định kinh tế vĩ
mô phát huy hiệu quả, nền kinh tế trong nước và thế giới bước sang giai đoạn
phát triển mới. Khi ấy thị trường chứng khoán mới có nền tảng để phục hồi và
25

×