Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch Techcombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.85 KB, 78 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng
ngày càng trở nên gắn bó mật thiết. Hoạt động ngân hàng với rất nhiều dịch vụ đã
phần nào đáp ứng được nhu cầu của xã hội cũng như của khách hàng. Mặt khác, các
ngân hàng thương mại ở nước ta hiện đang trong quá trình hội nhập quốc tế, thực hiện
các cam kết trong khuôn khổ WTO. Bởi vậy, phát triển và đa dạng hóa dịch vụ ngân
hàng trở thành vấn đề tất yếu và cấp bách đối với tất cả các ngân hàng thương mại
trong nước.
Trong các dịch vụ của ngân hàng thì bảo lãnh ngân hàng là một dịch vụ có khả
năng ứng dụng rộng rãi trong các loại giao dịch và là công cụ phòng ngừa rủi ro hữu
hiệu của các ngân hàng. Do đó, bảo lãnh ngân hàng ngày càng đóng một vai trò quan
trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Trong thời gian qua, sự phát triển của nghiệp
vụ bảo lãnh tuy tích cực nhưng vẫn còn chưa tương xứng với vai trò vốn có và tiềm
năng của nó đối với hệ thống ngân hàng và nên kinh tế.
Nhận thức được vấn đề trên, sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam, tôi quyết định chọn đề tài “Nâng cao chất lượng
hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch Techcombank”.
Nội dung đề tài bao gồm các chương sau:
Chương I: Tổng quan về hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng thương mại
Cương II. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch Techcombank
Chương III. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch
Techcombank
Phạm vi của chuyên đề là nghiên cứu hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch
Techcombank. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động, tôi mạnh dạn đề xuất các kiến
nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch.
Để hoàn thành chuyên đề thực tập này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn rất quý báu
và kịp thời của Giáo viên hướng dẫn, Phó Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Thị Bất và các
thày cô trong khao Ngân hàng – Tài chính. Ngoài ra, trong quá trình thực tập, tôi còn
nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ phòng Tư vấn và giải pháp tài chính nói
riêng và cán bộ Sở giao dịch Techcombank nói chung.


Tôi xin chân thành cám ơn và mong tiếp tục nhận được những sự chỉ bảo của các
thày cô và các anh chị trong ngân hàng.
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
1
Chuyªn ®Ò thùc tËp
Chương I: Tổng quan về hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng
thương mại
1.1 Giới thiệu chung về ngân hàng thương mại
1.1.1 Lịch sử hình thành của ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói
chung và từng cộng đồng địa phương nói riêng. Lịch sử hình thành và phát triển của
ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Quá trình
phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình,
sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực phát triển kinh tế. Đối với
quan niệm ngày nay thì ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cung cấp các
khoản vay cho đông đảo người dân bình thường trong xã hội. Tuy nhiên, những ngân
hàng đầu tiên được biết tới trong lịch sử nhân loại là các đề thờ cổ đại với các đối
tượng dịch vụ chính của các ngân hàng nguyên thủy này là các hoàng tộc, vương triều
và một số ít nhà buôn giàu.
Vào khoảng ba nghìn năm trước Công nguyên, hình thức ngân hàng sơ khai đã
được nhiều nhà sử học cho rằng đã hình thành trước khi con người phát minh ra tiền.
Ban đầu, tài sản gửi tại các “ngân hàng” là các loại ngũ cốc, sau đó là gia cầm, nông
sản, rồi đến các loại kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất giữ tài sản.
Đó là các công trình được xây dựng một cách kiên cố, mặc dù bình thường có người
tới hành lễ nhưng xét về tâm linh thì ngay cả những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý
tránh trộm chốn linh thiêng này.
Tại Ai cập và Mesopotamia, vàng được gửi vào các đền thờ, nhưng tài sản quý
giá này lại ngủ yên trong đó, trong khi, ở bên ngoài xã hội, các nhóm thương nhân và
hoàng tộc lại rất cần sử dụng chúng. Các nhà khảo cổ học tìm được những tàn tích
Cho thấy tới đầu thế kỷ 18 trước Công nguyên, tại Babylon, dưới thời trị vì của

Hammurabi, thầy tu trông giữ đền thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn tài sản cất trữ
trong đền. Khái niệm ngân hàng bắt đầu ra đời từ đây.
Điều này cũng xảy ra tương tự với những người giàu – người trước đó đã làm
nghề cho vay nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ để đảm bảo an toàn. Do đó yêu
cầu cất giữ của các lãnh chúa, các nhà buôn… nhiều người làm nghề đổi tiền thực
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
2
Chuyªn ®Ò thùc tËp
hiện luôn cả nghiệp vụ cất giữ hộ. Thực hiện cất giữ hộ làm tăng thu nhập, tăng khả
năng kinh doanh tiền tệ. Việc cất giữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực thực
hiện thanh toán hộ. Thanh toán qua trung gian này làm nảy sinh thanh toán không
dùng tiền mặt, đền lượt nó, những ưu điểm của thanh toán không dùng tiền mặt đã thu
hút thương gia gửi tiền nhiều hơn. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc
vàng), các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền và cho vay
nặng lãi. Họ là những người làm nghề kinh doanh tiền tệ, hay còn gọi là nhà buôn
tiền.
Đầu tiên, những nhà buôn tiền đã dùng vốn tự có để cho vay, nhưng điều đó
không thể kéo dài do lượng vốn ban đầu luôn luôn là hữu hạn. Từ những hoạt động
thực tiễn, họ nhận ra là luôn có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, song tất cả
người gửi tiền không cùng đi rút tiền một lúc, điều này đã tạo ra một lượng dư tương
đối trong két của nhà buôn. Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn tiền có thể sử
dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi
cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền – kẻ cho vay nặng lãi – thành nhà buôn tiền –
ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của khách, tạo nên lợi nhuận lớn lên
các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho
người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác mà ngân hàng huy động được
ngày các nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay.
Bằng sự tăng lên của nhu cầu gửi tiền – vì sự an toàn, vì lợi nhuận – và sự tăng
lên của nhu cầu sử dụng tiền – cho buôn bán và tiêu dùng, những nhà buôn trung gian
này hay theo cách gọi hiện nay là những ngân hàng dần dần có những vị thế thiết yếu

trong nền kinh tế xưa đến nay.
1.1.2 Sự phát triển của ngành ngân hàng thương mại và các dịch vụ ngân
hàng
Ngày nay, khái niệm ngân hàng thương mại xuất hiện thường xuyên và phổ biến
trong xã hội nói chung và kinh tế nói chung. Ngân hàng thương mại là TCTD thể hiện
nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng
thương mại là cầu nối giữa cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhà rỗi và bơm vào nơi
khan hiếm. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một
hàng hóa đặc biệt, đó là “tiền”, trả lãi suất huy động thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và
phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của các ngân hàng thương mại
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
3
Chuyªn ®Ò thùc tËp
Hình thức ngân hàng đầu tiên thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ yếu là
những người giàu có: quan lại, địa chủ…nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Nhiều
chủ ngân hàng lớn còn mở rộng cho vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần nhu
cầu chi tiêu cho chiến tranh. Loại hình cho vay chủ yếu là thấu chi – tức là khách
hàng được quyền chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng, một hình thức cho vay có
nhiều rủi ro. Do lợi nhuận từ cho vay rất lớn, rất nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng lợi
thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền
gửi khống để cho vay. Tình hình này đã đẩy nhiều ngân hàng tớ tình trạng mất khả
năng thanh toán và phá sản.
Sự đổ vỡ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng
xấu tớ hoạt động buôn bán. Hơn nữa, lãi suất cao nên các nhà buôn không thể sử dụng
nguồn vay này. Trước tình hình đó, nhiều nhà buôn góp vốn thành lập ngân hàng, với
chức năng chủ yếu là tài trợ ngắn hạn (tài trợ cho tài sản lưu động), và thanh toán hộ,
gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Ngân hàng này được gọi
là ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại thực hiện các nghiệp vụ truyền
thống của ngân hàng như huy động tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho ho vay. Tuy
nhiên điểm khác biệt giữa ngân hàng thương mại và thợ vàng hay các nhà thờ trước

đó là hình thức chiếu khấu thương phiếu. Đây là khoản cho vay ngắn hạn, dựa trên
quá trình luân chuyển của hàng hóa với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận tạo được do
sử dụng tiền vay.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động của ngân hàng đã có
những bước tiến rất nhanh. Trước hết đó là sự đa dạng trong loại hình ngân hàng và
hoạt động ngân hàng. Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn
trong ngân hàng dần dẫn tới hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng vai trò
quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra ngân hàng sở hữu Nhà nước;
các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh trong những năm
cuối thế kỷ 20. Nhiều nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng thương
mại từ chỗ chi cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho
vay để đầu tư vào bất động sản. Nhiều ngân hàng cũng mở rộng cho vay tiêu dùng,
kinh doanh chứng khoán, cho thuê…Các hình thức huy động cũng ngày càng thêm
phong phú. Các loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu
cầu khách hàng. Bên cạnh các hình thức tiền gửi, các ngân hàng cũng đã mở rộng các
hình thức cho vay như vay ngân hàng trung ương, vay các ngân hàng khác. Công
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
4
Chuyªn ®Ò thùc tËp
nghệ ngân hàng đang góp phần thay đổi các hoạt động cơ bản của ngân hàng. Thanh
toán điện tử đang dần dần thay thế tiền giấy và dịch vụ ngân hàng 24 giờ, dịch vụ
ngân hàng tại nhà đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho cộng đồng.
Quá trình phát triển của ngân hàng không chỉ làm gia tăng số lượng của các ngân
hàng nói chung mà còn làm tăng quy mô của mỗi ngân hàng nói riêng. Tích tụ và tập
trung vốn đã tạo ra các tập đoàn tài chính, ngân hàng cực lớn với số vốn hàng chục tỷ
đô la Mỹ, tổng tài sản hàng trăm tỷ đô la Mỹ có đủ sức tài trợ cho những ngành công
nghiệp và dịch vụ mũi nhọn toàn cầu.
Quá trình phát triển của ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng
chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa chúng. Các hoạt động ngân hàng
Xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang thúc đẩy hình thành các hiệp hội, các tổ

chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra các chính sách chung, hoặc tương thích để
kiểm soát chung, để kết nối và tạo sự thống nhất chung trong điều hành và vận hành
hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Lịch sử phát triển của các ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều khủng hoảng và
hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và thế giới gây tổn thất rất lớn cho
nền kinh tế và mất ổn định chính trị. Có thể nói, các vụ sụp đổ ngân hàng cũng là một
khâu tất yếu trong quá trình phát triển của ngân hàng. Các nhà quản lý đã và đang
không ngừng cải tiến chính sách quản lý để hạn chế sự sụp đổ và mở đường cho sự
phát triển của ngành ngân hàng.
* Các dịch vụ của ngân hàng
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Sự thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác
định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và đáp ứng nhu cầu đó một cách có
hiệu quả
Mua bán ngoại tệ. Một trong những dịch vụ đầu tiên của ngân hàng được thực
hiện là mua bán (trao đổi) ngoại tệ với khách hàng: đáp ứng nhu cầu mua (bán) ngoại
tệ này của khách hàng để đổi lấy ngoại tệ khác và hưởng phí dịch vụ.
Nhận tiền gửi. Cho vay được cho là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng
phải tìm cách cách thức đa dạng để tạo ra nguồn vốn để thực hiện hoạt động cho vay
này, hay huy động được tiền. Một trong những nguồn đầu tiên và quan trọng nhất là
khoản tiền gửi thanh toán thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
5
Chuyªn ®Ò thùc tËp
vụ nhận tiền gửi để cất giữ hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn hoặc khi
có yêu cầu. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành cho được các khoản tiền gửi từ các
đối thủ cạnh tranh, các ngân hàng đã trả lãi cho các khoản tiền gửi như là phần thưởng
cho khách hàng, về việc sẵn sang hy sinh yêu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép
ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi
suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các

khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với chủ tàu ở Địa Trung Hải, với lãi suất
gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm. Như vậy khi cung cấp dịch vụ tiền gửi, khách
hàng thu phí gián tiếp thông qua thu nhập các hoạt động sử dụng tiền gửi đó.
Cho vay. Bản chất của hoạt động cho vay là ngân hàng cung cấp cho khách hàng
một lượng vốn nhất định trong thời kỳ nhất định để đáp ứng nhu cầu của khách hàng
với cam kết trả nợ từ khách hàng và ngược lại, ngân hàng được hưởng một lượng lãi
suất tương ứng tính trên số vốn cho vay. Hiện nay, có rất nhiều loại hình sản phẩm
cho vay mà ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các khách hàng trong nền
kinh tế phức tạp này, nhưng chung quy lại ta có thể chia ra làm 3 loại cơ bản đó là:
cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ dự án.
Cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu tiên, các ngân hàng đã biết chiết khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các
khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó, ngân hàng cho vay trực tiếp
đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dữ trữ nhằm mở
rộng sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng. Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng không tích cực
cho vay đối với cá nhân và hộ cá nhân, bởi vì họ tin rằng, các khoản vay tiêu dùng rủi
ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh
trong cho vay đã hướng các ngân hàng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các
ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở lên phổ biến và trở thành mộ trong những
loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
Tài trợ cho dự án. Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân
hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung và dài hạn: tài trợ xây dựng
nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư
vào đất.
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
6
Chuyªn ®Ò thùc tËp
Bảo quản tài sản hộ. Đây là dịch vụ từ xa xưa của các ngân hàng – từ thủa sơ

khai, các ngân hàng đã cất giữ các loại tài sản từ vàng, tiền đến các loại giấy tờ quan
trọng hay tài sản quý khác trong két của mình (vì vậy còn được gọi là dịch vụ cho
thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc
những giấy tờ quan trọng khác của khách với nguyên tắc an toàn, bí mật và thuận tiện.
Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ giấy tờ có giá
cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ…
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Bên cạnh nhu cầu
cất giữ, khách hàng gửi tiền vào ngân hàng còn có nhu cầu thanh toán cho các giao
dịch của mình. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền
mặt, tức là người gửi tiền không cần đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy
trả tiền cho khách, khách mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các ưu thế của
thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí)
đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho cả khách hàng
lẫn khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng
được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi
tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công
nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, Ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/c
đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ…Nền kinh tế “tiền nhựa” –
với sự lên ngôi của thẻ thanh toán các loại thay cho tiền giấy và tiền xu – ngày càng
phổ biến trên thế giới vì sự tiện lợi của nó.
Quản lý ngân quỹ. Sự mở rộng phạm vi và quy mô của các ngân hàng đưa lại
cho ngân hàng nhiều khách hàng doanh nghiệp và nhiều cá nhân để mở tài khoản và
giữ tiền cho họ. Điều này qua thời gian ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với
nhiều loại khách hàng khác nhau dẫn tới họ có khả năng và kinh nghiệm trong việc
quản lý thu ngân và những ngân hàng này chấp nhận cung cấp dịch vụ quản lý ngân
quỹ cho khách hàng. Trong đó ngân hàng được phép quản lý việc thu và chi cho một
đơn vị kinh doanh, tiền hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng
khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn, cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh
toán các khoản đến hạn khác.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Một trong những điểm khác biệt của

ngân hàng so với các doanh nghiệp thông thường là họ kinh doanh tiền tệ nên khả
năng huy động và cho vay với khối lượng của mình, họ đã trở thành trọng tâm chú ý
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
7
Chuyªn ®Ò thùc tËp
của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không
đáp ứng đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân
hàng. Chính phủ có một lợi thế hơn so với các đơn vị và cá thể khác khi vay vốn ngân
hàng vì họ có một vị thế và khả năng trả nợ cao hơn hẳn. Ngày nay, Chính phủ giành
quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy
phép thành lập với điều kiện là họ cam kết thực hiện mức độ nào đó với chính sách
của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính
phủ theo một tỉ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
Vào đầu năm 2008, Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành 20.300 tỷ đồng tín
phiếu bắt buộc kỳ hạn 364 ngày, lãi suất 7,80%; hình thức phát hành là ghi sổ. Giá trị
tín phiếu được phân bổ cho từng TCTD theo quy mô, tỷ tọng vốn huy động bằng
đồng Việt Nam của từng TCTD nhằm mục đích kiềm chế lạm phát trong tình hình
ảnh hưởng của nền kinh tế Việt Nam từ sự khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới
Bảo lãnh. Do sự phát triển của thương mại quốc tế, các giao dịch xuyên quốc gia
ngày càng phổ biến, điều này làm nảy sinh việc thanh toán quốc tế nhưng vấn đề giữa
các cá thể này là sự tin tưởng lẫn nhau giữa các đối tác về việc chuyển hàng và
chuyển tiền. Mặt khác, sự tăng lên của các giao dịch trong nước cũng xảy ra các sự
thiếu tin tưởng một cách tương đối. Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một
khách hàng rất lớn do nắm giữa tiền gửi của khách hàng nên khách hàng có đủ uy tín
trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày
càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của
mình mua chịu hàng hóa, trang thiết bị, phát hành chứng khoán và vay vốn của các
TCTD khác…
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (leasing). Sự tự do thương mại đã tạo ra ratá
nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào nền kinh tế và ngày càng đóng góp vai

trò quan trọng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong vấn đề máy móc,
thiết bị để phục sản xuất, kinh doanh do không đủ vốn. Nhiều nhà sản xuất máy móc,
thiết bị đã bán các thiết bị này cho các ngân hàng và thông qua ngân hàng cho các
doanh nghiệp cho thuê các sản phẩm này để sử dụng trong một thời gian nhất định với
phí thỏa thuận trước, đến cuối kỳ thuê hoặc sau một thời gian nhất định hoặc trả tới
hơn 70% đến 100% giá trị tài sản cho thuê thì doanh nghiệp được phép mua lại thiết
bị với giá được thỏa thuận trước. Do vậy cho thuê của ngân hàng cùng có nhiều điểm
giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
8
Chuyªn ®Ò thùc tËp
Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn. Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính nên
nên có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh
nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ
ủy thác phát triển cả sang ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy
thác đầu tư… Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong di
chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tái sản, bảo quản
các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài
chính. Ngân hàng sẵn sang tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua
bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Nhiều ngân hàng đang có
tham vọng cung cấp các dịch vụ tài chính một cách hoàn chỉnh nhằm thỏa mãn mọi
nhu cầu của khách hàng. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới các ngân
hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội
mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một số trường hợp để tiện
hoạt động hay pháp luật không cho phép như ở Việt Nam thì các ngân hàng tổ chức ra
công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi
giới
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm. Trong những thập kỷ gần đây, các ngân hàng
dần nhận ra vai trò của bảo hiểm trong đời sống kinh tế xã hội và xúc tiến việc bán

bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo cho việc hoàn trả trong trường hợp khách
hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức bảo hiểm con, ngân hàng
cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí…
đưa ra lợi ích kép cho các khách hàng của mình.
Cung cấp các dịch vụ đại lý. Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không
thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường
ngân hàng lớn) cung cấp các dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong
đồng tài trợ…
Nói chung, các dịch vụ của ngân hàng ngày càng đa dạng và phức tạp đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của thị trường tài chính cũng như nền kinh tế. Điều này vừa
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
9
Chuyªn ®Ò thùc tËp
tạo ra được lợi nhuận lớn cho bản thân ngân hàng cũng như là chất xúc tác thiết yếu
để cho các hoạt động của nền kinh tế được tiến hành một cách trơn tru.
1.1.3 Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Trong quá khứ, nhiều người tin rằng, ngân hàng đóng một vai trò rất nhỏ trong
nền kinh tế - nhận tiền gửi và cho vay – thì hiện nay, trên thực tế những dịch vụ của
ngân hàng đã và đang cung cấp như được phân tích ở trên thì ngân hàng đã phải thực
hiện nhiều vai trò mới có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Các ngân hàng thương mại huy động vốn chủ yếu dưới các dạng: tiền gửi thanh
toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn. Vốn huy động dùng để cho vay thương
mại, cho vay tiêu dùng, cho vay bất động sản và để mua chứng khoán chính phủ, trái
phiếu của chính quyền địa phượng và từ cơ sở những hoạt động này cung cấp thêm
các dịch vụ tài chính khác cho các các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Ngân
hàng thương mại dù ở quốc gia nào cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn nhất,
cũng là trung gian tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất. Với
vị trí quan trọng đó, Ngân hàng thương mại có những vai trò khác nhau trong nền

kinh tế như:
Vai trò trung gian tài chính. Đây là vai trò đầu tiên và quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại – một tổ chức trung gian với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm
thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các
cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt về chi tiêu tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu
tư vượt quá thu nhập (có thể xảy ra do nguyên nhân độ trễ về thời gian hay độ lớn của
thu nhập so với chi tiêu) nên họ là những người cần hỗ trợ về vốn; và (2) các cá nhân
và tổ chức thặng dư về chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi
tiêu cho hàng hóa, dịch vụ (vẫn là nguyên nhân về độ trễ về thời gian và độ lớn của
chi tiêu so với thu nhập) và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Cả hai nhóm đối tượng này
luôn tồn tại song song và hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ
chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) để đáp ứng điều kiện có lợi cho cả hai bên.
Như vậy, gia tăng thu nhập là động lực để hai nhóm này có mối quan hệ tài chính với
nhau. Tuy nhiên, có một vấn đề lớn xảy ra đó là sự khó khăn trong việc tiếp cận nhóm
(1) với nhóm (2) và ngược lại do sự mất cân đối về thông tin, quy mô, thời gian,
không gian… Do chuyên môn hóa, trung gian tài chính có thể đáp ứng được nhu cầu
của cả hai nhóm bằng một mặt bằng vay về và cho vay đi để tạo ra một thị trường cho
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
10
Chuyªn ®Ò thùc tËp
tiền di chuyển và đưa ra một mặt bằng lãi suất cho cả người vay và đi vay. Các ngân
hàng sẽ đi vay từ nhóm (2) với một lãi suất và cho nhóm (1) vay lại với một lãi suất
cao hơn. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó sử dụng các kỹ thuật
nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch – điều khó có thể tìm
thấy được ở giao dịch trực tiếp hai nhóm
Vai trò thanh toán. Vai trò này có hai ý nghĩa đó là tạo ra phương tiện thanh
toán và trung gian thanh toán
Tạo phương tiện thanh toán. Tiền là có một chức năng quan trọng đó là làm
phương tiện thanh toán. Bản thân các ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện
các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện

trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây
chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.
Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ
thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp
nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở
rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công
chúng.
Vai trò này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ.
Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo
tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Vai trò trung gian thanh toán: Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ
quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa,
dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các
khác thu khác theo lệnh của họ.
Việc ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa
rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với khả năng này, các ngân hàng thương mại
cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi,
ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,… Tùy theo nhu cầu, khách
hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể
kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
11
Chuyªn ®Ò thùc tËp
thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực
hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi
phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này mô hình chung đã thúc
đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tố độ lưu chuyển vốn, từ đó góp
phần phát triển kinh tế. Đồng thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền
mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản,…Ngân hàng thương mại thu phí thanh
toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư
có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng.
1.2 . Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về nghiệp vụ bảo lãnh
Trước khi tiếp cận khái niệm bảo lãnh trong ngân hàng, chúng ta hãy tìm hiểu về
bảo lãnh nói chung và khái niệm bảo lãnh một số lĩnh vực khác. Bảo lãnh là một thuật
ngữ được sử dụng từ lâu đời. Trong xã hội phong kiến, những người dân dã biết nhờ
đến những người có tiền hoặc có quyền lực để đảm bảo cho tù nhân trong thời gian
chịu án hay cha mẹ bảo lãnh cho con Sau đó bảo lãnh được mở rộng dần sang các
lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội như các hợp đồng kinh tế, thuê mướn…Bảo
lãnh cần thiết khi hai bên tham gia vào một mối quan hệ kinh tế, chính trị hay xã hội
còn chưa tín nhiệm nhau. Uy tín và lời hứa của bên này chưa đủ tin cậy đối với bên
kia nhưng bên kia cũng không đủ khả năng về thời gian; Chi phí và kỹ thuật nghiệp
vụ để đánh giá về bên kia. Lúc đó sự xuất hiện của bên thứ 3 có đủ độ tin cậy đối với
cả hai bên thực hiện bảo lãnh sẽ là cầu nối giữa hai bên, đưa họ đến một quan điểm
thống nhất. Nguyên nhân sâu xa của những hoạt động bảo lãnh này là tạo sự an tâm
cho người sử dụng sản phẩm dịch vụ mà ít cần lo lắng đến rủi ro hoặc nếu có xảy ra
rủi ro thì cũng sẽ được bù đắp một cách xứng đáng mà mức bù đắp đã được thoả
thuận trước giữa các bên liên quan.
Từ các điểm trên, ta thấy rõ hai đặc tính cơ bản của bảo lãnh:
+ Trong hoạt động bảo lãnh luôn có ba bên tham gia: Người thụ hưởng bảo lãnh;
Người đề nghị bảo lãnh và người chấp nhận bảo lãnh.
+ Trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ trước tiên thuộc về người đề nghị bảo lãnh.
Người chấp nhận bảo lãnh chỉ thực hiện các nghĩa vụ đó trong trường hợp người đề
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
12
Chuyªn ®Ò thùc tËp
nghị bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình.

Riêng bảo lãnh ngân hàng bắt đầu được sử dụng rộng rãi từ đầu thập niên 70. Sự
phát triển nhanh chóng của các nước giàu tài nguyên giàu mở ở Trung Đông trong
thời gian này đã tạo điều kiện cho họ mở rộng quan hệ ngoại thương với các nước
trên thế giới, tham gia ký kết nhiều hợp đồng có giá trị lớn với các đối tác ở Phương
Tây về những dự án lớn như nâng cấp cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi, các dự
án công, nông nghiệp và quốc phòng … Do đó, có thể nói đây là khu vực khơi mào
cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thỏa thuận với bên yêu cầu bảo lãnh,
được quy định cụ thể tại thư bảo lãnh của ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng có một số đặc tính hết sức quan trọng trong đó có một đặc
tính đó là tính độc lập với hợp đồng kinh tế. Mặc dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng
là bồi thường cho người hưởng thụ những mất mát không đáng có từ việc hợp đồng
không được thực thiện đúng nhưng hành động thanh toán cho một bảo lãnh chỉ được
căn cứ vào các điều kiện và điều khoản trong thư bảo lãnh chứ không phải từ hợp
đồng kinh tế. Như vậy, một khi các điều khoản và điều kiện của thư bảo lãnh được
đáp ứng thì về mặt pháp lý, người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán tiền mà
không nhất thiết phải minh chứng các sai phạm của người được bảo lãnh mà chỉ cần
cung cấp chứng từ như yêu cầu của bảo lãnh.
Tuy nhiên, tính độc lập này của bảo lãnh là phụ thuộc vào chính các điều kiện
của bảo lãnh. Giả sử như bảo lãnh yêu cầu việc thanh toán là theo văn bản yêu cầu
của người hưởng thụ thì người hưởng thụ có quyền yêu cầu thanh toán mà không cần
điều kiện nào khác, ngân hàng phát hành phải thanh toán và người được không ảnh sẽ
Có trách nhiệm bồi hoàn lại cho ngân hàng phát hành. Mặt khác, bảo lãnh có thể yêu
cầu một chứng từ như: Phán quyết của tòa án, một quyết định của trọng tài, văn bản
của bên thứ ba xác nhận sự vi phạm của người được bảo lãnh hay văn bản của người
được bảo lãnh hay văn bản của người được bảo lãnh thừa nhận sự vi phạm của mình
thì tính độc lập của bảo lãnh giảm đi ít nhiều.
Tính độc lập còn thể hiện ở trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành.

Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành với
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
13
Chuyªn ®Ò thùc tËp
người được bảo lãnh. Nếu như chứng từ hoàn toàn phù hợp thì ngân hàng không thể
từ chối thanh toán vì bất cứ lý do gì nảy sinh trong quan hệ giữa họ và người được
bảo lãnh, những lý do như: người được bảo lãnh phá sản, người được bảo lãnh vẫn
còn nợ ngân hàng…
Trong pháp luật dân sự nước ta khái niệm bảo lãnh được nêu trong điều 366 Bộ
luật Dân sự: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền ( gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa
vụ( gọi là người được bảo lãnh), nếu khi đến hạn mà người được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ ”.
* Khái niệm bảo lãnh ngân hàng: Theo điều 2 trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng
(ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-Ngân hàng Nhà nước ngày 26
Tháng 6 năm 2006 của Thống đốc NHNN):
“ÔBảo lãnh ngân hàng”: Là cam kết bằng văn bản của TCTD (bên bảo lãnh) với
bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho
TCTD số tiền đã được trả thay.
1.2.2 Phân loại bảo lãnh
1.2.2.1 Phân loại theo mục đích
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Đây là một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát
hành cho bên nhận bảo lãnh đảm bảo việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ cho
khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã kỹ kết. Trong trường hợp khách
hàng không thực hiện đúng và đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, TCTD thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Đây là loại bảo lãnh được dùng phổ biến nhất và có thể không phải yêu cầu một
loại bảo lãnh nào khác ngoài nó trong quá trình mua bán hàng hóa hoặc dự thầy xây

dựng.
Số tiền trong thư bảo lãnh có giá trị dao động từ 5% - 15% giá trị hợp đồng gốc.
Trong trường hợp đặc biệt trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắm số tiền này có
thể lớn hơn 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp thuận.
Số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ hợp đồng. Thời hạn trong thư bảo lãnh
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
14
Chuyªn ®Ò thùc tËp
được kéo dài đến kho hoàn thành hợp đồng như hàng hóa đã giao xong, máy móc
thiết bị được vận hành, công trình được đưa vào sử dụng; sau đó chuyển sang giai
đoạn bảo hành.
Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với bên mới thầu đảm bảo nghĩa vụ
tham gia dự thầu của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm
quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì
TCTD thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Thực chất mục đích bảo lãnh dự thầu là bảo
đảm việc người dự thầu không rút lui, không ký hợp đồng hoặc thay đổi ý định khi đã
trúng thầu.
Trong trường hợp nhà thầu trúng thầu thì có thể ngân hàng cung cấp tiếp các dịch
vụ bảo lãnh tiếp theo như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền đặt cọc. Bảo
lãnh dự thầu hoàn thành nghĩa vụ của mình và sẽ không bị đòi tiền khi các nhà thầu
khác trúng thầu. Đôi khi trong thư bảo lãnh dự thầu còn có thể quy định rằng nó phải
được trả lại nhà thầu khi họ không thắng thầu. Các loại hình bảo lãnh dự thầu chủ yếu
bao gồm bảo lãnh dự thầu xây lắp và bảo lãnh dự thầu cung cấp máy móc, thiết bị,
hàng hóa
Bảo lãnh thanh toán được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị hàng hóa
trả chạm. Quan hệ giữa người bán và người mua thực chất là quan hệ tín dụng thương
mại, theo đó người mua chấp nhận trả tiền hàng hóa theo kỳ hạn nợ cụ thể. Trong
trường hợp người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đủ số tiền theo hợp
đồng thì ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả thay cho người mua như đã cam kết.
Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm theo hợp đồng (bảo lãnh bảo hành)

được sử dụng như trong lĩnh vực xây lắp để bảo hành cho các công trình hoặc các hợp
đồng thiết bị toàn bộ để bảo hành chất lượng máy móc thiết bị. Ngân hàng phát hành
cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng với các khoản thỏa thuận
về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong
trường hợp khách hàng bị phạt do không thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp
đồng về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký với bên nhận bảo lãnh mà không
nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, TCTD thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh đã cam kết.
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
15
Chuyªn ®Ò thùc tËp
Loại hình bảo lãnh này có hiệu lực trong thời gian bảo hành sản phẩm và cũng
thường được áp dụng với đảm bảo chất lượng công trình; máy móc thiết bị và hàng
hóa.
Bảo lãnh hoàn lại thanh toán (bảo lãnh tiền ứng trước) la do TCTD phát hành
cho bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách
hàng theo hợp đồng đã ký với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi
phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả số tiền cung ứng trước cho
bên nhận bảo lãnh thì TCTD sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh hoàn trả vay vốn là cam kết của ngân hàng sẽ trả nợ vay thay (cả gốc
và lãi) nếu bên được bảo lãnh không trả đúng hạn hoặc không trả đủ nợ vay cho một
TCTD khác.
Việc bảo lãnh này nói chung khá phức tạp, số tiền bảo lãnh thường lớn do vậy rủi
ro ho ngân hàng phát hành là rất cao. Ngân hàng phải thẩm định tính khả thi của dự án
(cả về mặt tài chính lẫn mặt kỹ thuật), tài sản đảm bảo và tư cách người vay để quyết
định bảo lãnh bở ngân hàng sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trả tiền khi người vay
không có khả năng hoàn trả các khoản nợ đến hạn.
1.2.2.2 Phân loại theo phương thức phát hành
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh chịu trách
nhiệm phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của bên được bảo lãnh, bên được

bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng bảo lãnh.
Bảo lãnh trực tiếp thông thường có 3 bên tham gia: ngân hàng bảo lãnh, bên được
bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh ở nước ngoài,
có thể xuất hiện một ngân hàng cùng quốc gia với bên nhận bảo lãnh đóng vai trò là
ngân hàng thông báo.
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành
bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian (ngân hàng chỉ thị) phục vụ cho
bên được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Bên được
bảo lãnh không phải bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng bảo lãnh mà chính ngân hàng
trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn.
Trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất 4 bên tham gia: ngân hàng bảo lãnh, ngân hàng
chỉ thị, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
16
Chuyªn ®Ò thùc tËp
chủ yếu trong trường hợp bên nhận bảo lãnh là người nước ngoài và ngân hàng phát
hành bảo lãnh ở ngay tại quốc gia của bên nhận bảo lãnh, do vậy quyền lợi của bên
nhận bảo lãnh được bảo vệ chắc chắn hơn.
Đồng bảo lãnh. Trường hợp những hợp đồng có giá trị lớn, để phù hợp với
những quy định về bảo lãnh đồng thời để san sẻ rủi ro, các ngân hàng có thể thực
hiện đồng bảo lãnh. Đồng bảo lãnh là loại bảo lãnh trong đó nhiều ngân hàng cùng
tham gia cấp một hợp đồng bảo lãnh thông qua một ngân hàng làm đầu mối. Các
ngân hàng còn lại là các ngân hàng thành viên.
Nếu nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh, ngân hàng đầu mối sẽ đứng ra bồi thường, sau đó
có quyền đòi bồi hoàn từ các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ tham gia của họ trong
bảo lãnh đối ứng được ký kết giữa các ngân hàng. Sau đó, các ngân hàng thành viên
sẽ tiến hành truy đòi bên được bảo lãnh.
1.2.2.3 Phân loại theo hình thức sử dụng
Bảo lãnh có điều kiện là loại hình bảo lãnh mà hành động thanh toán chỉ được
thực hiện khi người thụ hưởng xuất trình các chứng từ hoặc các tài liệu được quy định

trước kèm theo thư bảo lãnh. Các yêu cầu chứng từ xuất ra ở mỗi bảo lãnh là khác
nhau, ví dụ có thể là thư tín dụng dự phòng, xác nhận của một cơ quan có thẩm
quyền, quyết định của trọng tài về việc vi phạm của người được bảo lãnh.
Bảo lãnh này giúp cho người được bảo lãnh tránh được việc gian lận, lạm dụng
chứng từ hàng hóa hoặc đòi hỏi không trung thực từ phía người được hưởng thụ
nhưng ngược lại, lại gây khó khăn cho người thụ hưởng đó là sự phức tạp, chậm trễ
trong việc bồi thường khi có yêu cầu, đôi khi làm ảnh hưởng tới lợi ích của người
hưởng thụ.
Bảo lãnh vô điều kiện là loại hình bảo lãnh mà việc thanh toán sẽ được thực hiện
ngay lập tức khi ngân hàng bảo lãnh nhận được thông báo yêu cầu đầu tiên bằng văn
bản của người hưởng thụ, thông báo rằng người được bảo lãnh đã vi phạm hợp đồng.
Ngân hàng phải chấp nhận coi yêu cầu này như mệnh lệnh thanh toán thông thường
mà không được đòi hỏi bất cứ chứng từ có liên quan nào.
Ngược với bảo lãnh có điều kiện thì bảo lãnh vô điều kiện có ưu điểm đối với
người hưởng thụ nhưng lại gây bất lợi cho người được bảo lãnh. Loại hình bảo lãnh
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
17
Chuyªn ®Ò thùc tËp
này thường được áp dụng cho các đối tượng đã có mối quan hệ làm ăn thân quen, có
sự tin tưởng nhất định.
1.2.3 Các yếu tố trong bảo lãnh ngân hàng
Trong một bảo lãnh ngân hàng thì có rất nhiều yếu tố mà chúng ta cần phải quan
tâm đến. Hiện nay các nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng trên thế giới thực hiện
theo quy ước thống nhất do phòng thương mại quốc tế (International Chamber of
Commerce – ICC) ban hành, ICC đã ban hành các ấn phẩm chủ yếu như sau:
- Các quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo ấn bản số 325 xuất bản năm 1978. Nội
dung chủ yếu của văn bản này quy định cụ thể về nội dung quyền hạn và trách nhiệm
của các bên khi tham gia một trong ba loại hình bảo lãnh: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán.
- Các quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo ấn phẩm số 458 xuất bản năm 1992. Nội

dung chủ yếu quy định cụ thể về bảo lãnh theo yêu cầu và các điều kiện để đảm bảo
quyền lợi các bên.
- Ấn phẩm số 510 do ICC ban hành nhằm cụ thể hóa các nội dung và điều kiện
bảo lãnh theo yêu cầu.
Mặc dù Phòng thương mại quốc tế đưa ra các quy tắc này phục vụ lĩnh vực chủ
yếu là thương mại quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu song bảo lãnh ngân hàng theo tiêu
chuẩn quốc tế nói chung thường tuân theo quy tắc này.
Ở Việt Nam sau quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 quy định về nghiệp vụ bảo
lãnh ngân hàng năm 2000 thì năm 2006, ngân hàng nhà nước lại đưa ra quy định
26/2006/QĐ-NHNN về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng mới, sau đó đến năm 2010
Phần tiếp sau đây sẽ được trình bày một số yếu tố liên quan đến bảo lãnh ngân
hàng trong quy định 26/2006/QĐ-NHNN của ngân hàng nhà nước (sau đây gọi là quy
định 26) bao gồm phạm vi bảo lãnh, giới hạn bảo lãnh, điều kiện bảo lãnh, phí bảo
lãnh, tài sản đảm bảo, hợp đồng bảo lãnh và một vài điểm về quy trình bảo lãnh.
* Phạm vi bảo lãnh
Tại điều 6 của quy định 26 có nêu rõ bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một
phần hoặc toàn bộ các nghĩa vụ sau đây: Nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí
Khác có liên quan đến khoản vay; nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hóa, máy
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
18
Chuyªn ®Ò thùc tËp
móc, thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện các dự án hoặc phương án
Đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh hoặc dịch vụ đời sống; Nghĩa vụ thanh toán
các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước;Nghĩa vụ của khách
hàng khi tham gia dự thầu;
• Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia quan hệ hợp đồng với bên nhận bảo
lãnh, như thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm, nhận và hoàn trả
tiền ứng trước;
• Các nghĩa vụ hợp pháp khác do các bên thỏa thuận.
Giới hạn bảo lãnh

Giới hạn bảo lãnh quy định về quy mô của một khoản hay một số khoản bảo lãnh đối
với khách hàng phải có giới hạn để đảm bảo an toàn thanh khoản cho các bên ngân
hàng tham gia hoạt động bảo lãnh. Trong điều 7 của quy định 26 có đề cập rõ ràng là
tổng số dư bảo lãnh của TCTD đối với một khách hàng không được vượt quá 15%
(mười lăm phần trăm) vốn tự có của TCTD. Tổng số dư bảo lãnh của chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân
hàng nước ngoài.
Trong đó số dư bảo lãnh của TCTD cho một khách hàng ở trên bao gồm tổng số
dư bảo lãnh và các cam kết phát hành theo hình thức tín dụng chứng từ, ngoại trừ hình
thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng ký quỹ đủ hoặc được cho vay 100%
giá trị thanh toán.
Điều kiện bảo lãnh
Đối với các ngân hàng thì điều kiện để chấp nhận bảo lãnh cho một khách hàng
cũng phải tuân theo quy định về cấp tín dụng cho một khách hàng của ngân hàng đó
để đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn. Quy định 26 cũng đưa ra các tiêu chuẩn chung
nhất để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn an toàn này được tuân thủ một cách nhất định.
Theo đó, TCTD xem xét và quyết định bảo lãnh khi khách hàng có đủ các điều kiện
sau:
• Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định
của pháp luật;
• Mục đích đề nghị TCTD bảo lãnh là hợp pháp;
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
19
Chuyªn ®Ò thùc tËp
• Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được TCTD bảo lãnh trong thời
hạn cam kết;
• Trường hợp khách hàng là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thì ngoài các điều
kiện nêu trên phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam
Phí bảo lãnh
Đây là một trong những điểm quan trọng nhất và các ngân hàng quan tâm nhất.

Thường thì mỗi ngân hàng có một biểu phí công khai các dịch vụ nói chung và bảo
lãnh nói riêng để các khách hàng tham khảo và tiện tính toán. Đôi khi phí này có thể
thay đổi tùy thuộc vào sự thỏa thuận của ngân hàng và khách hàng, điều này phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như mối quan hệ khách hàng – ngân hàng, chất lương và giá
trị hợp đồng hay tiềm năng phát triển của giao dịch.
Mức phí được tính căn cứ theo tháng hay hoặc theo năm tùy thuộc vào thời gian
tồn tại của hợp đồng bảo lãnh.
Các phương thức đảm bảo
Căn cứ vào khả năng sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính và uy tín của khách
hàng, ngân hàng và khách hàng sẽ thỏa thuận áp dụng hoặc không áp dụng các biện
pháp đảm bảo cho bảo lãnh. Các hình thức đảm bảo sẽ bao gồm ký quỹ, cầm cố tài
sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba và các biện pháp an toàn khách theo quy
định của pháp luật
• Ký quỹ. Mỗi khách hàng có mối quan hệ với ngân hàng sẽ có 3 tài khoản: tài
khoản tiền gửi thanh toán – tiền gửi của khách hàng nhằm mục đích thanh toán
thông thường, là tài khoản cơ bản cần thiết phải có; tài khoản giải ngân – chủ
yếu sử dụng cho hoạt động cho vay, chuyển tiền vào tài khoản này để khách
hàng sử dụng nhưng có sự kiểm soát của ngân hàng; tài khoản ký quỹ - sử
dụng cho các mục đích cho vay, bảo lãnh và một số hình thức tài trợ khác. Các
ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ - gửi tiền vào tài khoản ký quỹ để
đảm bảo an toàn – là điều kiện cần để ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho khách
hàng. Tỷ lệ ký quỹ có thể dao động từ 2% đến 100% giá trị hợp đồng.
• Tài sản thế chấp là các bất động sản có khả năng chuyển nhượng dễ dàng,
phải có chứng nhận quyền sở hữu (bản gốc) ,có chứng nhận của cơ quan
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
20
Chuyªn ®Ò thùc tËp
công chứng Nhà nước.
• Tài sản cầm cố là các tài sản có giá trị như vàng, đá quý, trái phiếu , tín
phiếu… với vàng , đá quý phải được kiểm định của ngân hàng bảo lãnh

hoặc cơ quan chuyên môn do ngân hàng chỉ định, doanh nghiệp tự đóng gói
có sự chứng kiến của ngân hàng trước khi giao cho ngân hàng bảo lãnh.Với
trái phiếu và tín phiếu… phải đảm bảo còn thời hạn thanh toán, do tổ chức
có tín nhiệm phát hành, có thể chuyển nhượng dễ dàng và thuộc quyền sở
hữu của bên được bảo lãnh.
Hợp đồng cấp bảo lãnh
Sau khi ngân hàng xác nhận được tư cách khách hàng và thẩm định được kế
hoạch kinh doanh của khách hàng khả thi thì hai bên thống nhất các điều khoản liên
quan và tiến tới ký kết hợp đồng cấp bảo lãnh. Hợp đồng cấp bảo lãnh do bên bảo
lãnh, khách hàng và các bên liên quan (nếu có) thỏa thuận bao gồm các nội dung sau
đây:
• Tên, địa chỉ của bên bảo lãnh, khách hàng và thời gian ký hợp đồng;
• Số tiền, thời hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh;
• Mục đích bảo lãnh;
• Điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
• Hình thức bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với TCTD bảo lãnh, giá
trị tài sản làm bảo đảm;
• Quyền và nghĩa vụ của các bên;
• Quy định về hoàn trả của khách hàng sau khi TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh;
• Quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh;
• Chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của các bên;
• Những thỏa thuận khác.
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
21
Chuyªn ®Ò thùc tËp
Hợp đồng cấp bảo lãnh có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ nếu các bên liên
quan thỏa thuận. Hợp đồng phải được các bên xác nhận và lưu giữ các bản có giá trị
như nhau để đảm bảo tranh chấp sau này
1.2.4 Rủi ro trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng

Mọi rủi ro của doanh nghiệp được bảo lãnh là rủi ro của ngân hàng:
Nguyên nhân gây ra rủi ro trong kinh doanh rất đa dạng. Ngoài những rủi ro chung
như thiên tai, hỏa hoạn còn có những nguyên nhân như thiếu thông tin, lạm phát, các
chính sách không ổn định trong đó đặc biệt là chính sách thuế, tình hình chính trị
không ổn định
Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng đã khẳng định bảo lãnh cam kết của
ngân hàng chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh nếu bên được bảo
lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ đã thỏa thuận với bên yêu cầu bảo
lãnh.
Như vậy có thể kết luận rằng mọi rủi ro của các doanh nghiệp được bảo lãnh dẫn
tới doanh nghiệp này có thể không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với bên yêu cầu bảo
lãnh cũng sẽ là rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng:
Trong bảo lãnh ngân hàng có loại bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay. Tuy không
phát tiền vay nhưng về thực chất mức độ trách nhiệm, nghĩa vụ ngân hàng trong
nghiệp vụ này cũng tương đương như nghiệp vụ tín dụng. Hoạt động bảo lãnh bảo
đảm hoàn trả vốn vay đặt ngân hàng trước cùng một rủi ro như rủi ro của các món cho
vay trực tiếp. Rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất trong kinh doanh của ngân hàng
thương mại. Nguyên nhân của rủi ro này là người vay cố tình dây dưa không trả nợ
hoặc không có khả năng trả nợ. Người vay tạm thời có khó khăn về ngân quỹ hoặc do
kinh doanh không có hiệu quả hoặc bị rủi ro.
Rủi ro về lãi suất:
Rủi ro về lãi suất trong bảo lãnh ngân hàng được thể hiện dưới nhiều dạng: trong
nền kinh tế thị trường lãi suất huy động vốn luôn biến động trong khi mức phí bảo
lãnh đã được xác định cố định trong suốt thời gian hiệu lực của bảo lãnh dẫn tới có
khả năng rủi ro lãi suất trong trường hợp lãi suất bình quân đầu vào tăng.
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
22
Chuyªn ®Ò thùc tËp
Rủi ro hối đoái :

Tỷ giá hối đoái là quan hệ về giá trị giữa hai đồng tiền, hay nó là giá cả của đơn vị
tiền tệ này được thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ khác. Tỷ giá luôn biến động nên
ngoài các rủi ro thông thường, bảo lãnh bằng ngoại tệ còn có rủi ro hối đoái.
Rủi ro mất khả năng thanh toán :
Căn cứ vào tỷ lệ trích quỹ bảo lãnh là 5% giá trị bảo lãnh, nếu rủi ro thực tế lớn
hơn 5% giá trị bảo lãnh thì khả năng thanh toán trong nghiệp vụ bảo lãnh sẽ không
bảo đảm, gây tác động xấu đối với khả năng thanh toán chung của ngân hàng. Ngược
lại khi khả năng thanh toán chung của ngân hàng không đảm bảo khả năng thanh toán
trong bảo lãnh cũng bị ảnh hưởng.
1.2.5 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng
Hiện nay, bảo lãnh ngân hàng đang dần phát triển và đóng một vai trò không thể
thiếu trong các giao dịch, đặc biệt là những thương vụ lớn có giá trị về mặt tài chính
và phức tạp về mặt kỹ thuật hay có đối tác nước ngoài. Bảo lãnh không chỉ hỗ trợ cho
không chỉ các hợp đồng thương mại mà cả các hợp đồng phi thương mại. Bảo lãnh
ngân hàng ngày càng không chỉ đóng vai trò lớn trong sự phát triển của ngân hàng mà
còn có vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh
tế nói chung.
Vai trò đối với doanh nghiệp
- Với bên hưởng bảo lãnh: Trong nền kinh tế thị trường, các cơ hội đến
và đi với các doanh nghiệp rất nhanh bắt buộc họ phải nắm bắt lấy một
cách nhanh chóng nếu muốn đứng vững trong sự cạnh tranh khốc liệt.
Bảo lãnh ngân hàng giúp các doanh nghiệp này nắm bắt thời cơ kinh
doanh nhưng với sự yên tâm nhất định khi ký kết hợp đồng. Mặt khác,
bảo lãnh giúp các doanh nghiệp nhìn nhận bạn hàng một cách chính xác
hơn, giảm thiểu rủi ro trong tương lai. Hơn nữa, nếu rủi ro có xảy ra thì
bên hưởng bảo lãnh vẫn nhận được sự đền bù do thiệt hại đối tác gây ra
và có thể dễ dàng tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Với bên được bảo lãnh: Bảo lãnh giúp cho bên được bảo lãnh có thể có
được những hợp đồng ngay cả khi họ chưa đủ uy tín với bên đối tác.
Mặt khác, hoạt động đôn đốc kiểm tra của ngân hàng cũng thúc đẩy các

Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
23
Chuyªn ®Ò thùc tËp
doanh nghiệp này có trách nhiệm hơn với hợp đồng đã ký của mình.
Vai trò đối với ngân hàng: Điểm có thể thấy rõ lợi ích của bảo lãnh đó là ngân
hàng có thể thu phí từ hoạt động này. Phí bảo lãnh đóng góp không nhỏ vào lợi nhuận
của ngân hàng và tỷ lệ này không ngừng tăng lên. Một ưu điểm khác ngoài đem lại
thu nhập cho ngân hàng đó là bảo lãnh cũng đóng góp không nhỏ vào việc mở rộng
quan hệ của ngân hàng đối với khách hàng cả về lượng và chất. Ngoài ra, bảo lãnh
ngân hàng làm đa dạng hóa dịch vụ của ngân hàng, giảm thiểu rủi ro và giảm sự phục
thuộc thu nhập vào các lĩnh vực chủ yếu như tín dụng
Bảo lãnh còn nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng trên thị
trường, đặc biệt là thị trường quốc tế từ đó ngân hàng tạo được thế mạnh, uy tín giúp
gia tăng khách hàng và lợi nhuận.
Vai trò đối với nền kinh tế
Sự tồn tại khách quan của bảo lãnh ngân hàng đáp ứng nhu cầu phát triển của nền
kinh tế và ngày càng đóng góp vai trò to lớn.
Hoạt động bảo lãnh ngân hàng có vai trò như chất xúc tác điều hòa và xúc tiến các
quan hệ hợp đồng trong nền kinh tế như làm các bên yên tâm tham gia ký kết hợp
đồng và có trách nhiệm với nghĩa vụ của mình. Bảo lãnh thúc đẩy các ngành kinh tế
trong nước phát triển do có các mối quan hệ với các đối tác lớn mạnh trên thế giới từ
đó tăng cường mối quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia.
Mặt khác, bảo lãnh ngân hàng đảm bảo sự lành mạnh hơn khi thực hiện hợp đồng
từ đó đảm bảo các bên thực hiện đúng hợp đồng và giảm thiểu rủi ro ho các doanh
nghiệp nói riêng và cho cả nên kinh tế nói chung.
1.2.6 Quy trình bảo lãnh ngân hàng nói chung
Một quy trình chung của bảo lãnh ngân hàng có thể được trình bày như sau
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
24
Chuyªn ®Ò thùc tËp

(a) Khách hàng ký các hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, xây dựng, hay vay vốn
… Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh ngân hàng
(1) Khách hàng làm đơn xin bảo lãnh ngân hàng gửi ngân hàng ghi rõ số tiền, điều
kiện bảo lãnh. Ngân hàng sẽ thực hiện phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa
khách hàng và bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba nếu cần. Qua đó, ngân
hàng xác định rủi ro và các biện pháp phòng ngừa.
Nếu đồng ý, ngân hàng và khách hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư
bảo lãnh. Nội dung hợp đồng bảo lãnh tương tự như đã trình bày ở phần trên
(2) Ngân hàng (hoặc khách hàng) thông báo về thư bảo lãnh cho bên thứ ba;
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể thực hiện bảo lãnh dưới hình thức mở thư tín
dụng hoặc ký hối phiếu nhận nợ. Lựa chọn hình thức nào là tùy thuộc chủ yếu vào
yêu cầu của bên thứ ba. Để hạn chế rủi ro, bên thứ ba có thể yêu cầu đích danh ngân
hàng bảo lãnh và hình thức bảo lãnh. Phát hành thư bảo lãnh có thể áp dụng dưới hình
thức mở thư tín dụng (bảo lãnh mở L/C trả chậm). Độ an toàn của hình thức này rất
cao do tính pháp lý quốc tế của L/C. Bảo lãnh vay vốn (thường vay của các TCTD
nước ngoài) được thực hiện dưới hình thức ký phát hối phiếu: thư bảo lãnh kèm theo
hối phiếu trả tiền đã được ngân hàng ký với ngày trả tiền đúng vào ngày khách hàng
phải trả cho bên thứ ba.
(3) Theo như đã thỏa thuận với khách hàng và bên thứ ba: ngân hàng thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh với bên thứ ba nếu nghĩa vụ đó xảy ra;
(4) Theo như hợp đồng bảo lãnh đã ký, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải thực hiện
Ph¹m ViÖt Anh – CQ490056
Ngân hàng (bên bảo lãnh)
Khách hàng của ngân
hàng (bên được bảo lãnh)
Người thứ ba (bên
hưởng thụ bảo lãnh)
(a)
(1)
(3)

(2)
(4)
25

×