Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.8 KB, 99 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Xu thế toàn cầu hoá đã đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới và Việt Nam
cũng không nằm ngoài quy luật đó. Một minh chứng cho điều đó là vào ngày
7/11/2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại thế giới WTO. Sự kiện đó đã đánh dấu một bước tiến, một sự
chuyển mình rất lớn của tất cả thành viên trong nền kinh tế nói chung và của
ngành Ngân hàng – tài chính nói riêng. Cơ hội thì rất nhiều nhưng thách thức
và khó khăn thì cũng không phải là ít, cạnh tranh ngày càng khốc liệt, rủi ro
tiềm ẩn càng lớn. Trong xu thế này bảo lãnh Ngân hàng ra đời như một tấm
giấy thông hành cho các doanh nghiệp trong các hoạt động của mình, nó như
một công cụ đảm bảo, một thứ dầu bôi trơn giúp cho cỗ máy của nền kinh tế
vận hành có hiệu quả hơn.
Về phía ngành Ngân hàng, bảo lãnh ra đời giúp cho Ngân hàng đa dạng
hoá sản phẩm, đổi mới các loại hình nghiệp vụ, nâng cao năng lực tài chính
chống đỡ rủi ro…
Thế nhưng, thực tế áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh ở các Ngân hàng có sơ
khai, chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu của Ngân hàng. Đồng thời, bảo
lãnh là một nghiệp vụ rất phức tạp, hàm chứa nhiều rủi ro đòi hỏi các Ngân
hàng không ngừng đổi mới công nghệ, đa dạng hóa các loại hình và nâng cao
chất lượng dịch vụ.
Xuất phát từ thực tế đó, sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh
NHNo&PTNT Tây Hà Nội em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng
hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội” làm đề tài cho chuyên
đề tốt nghiệp của mình. Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về chất lượng hoạt động bảo lãnh Ngân hàng.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh tại NHNo&PTNT Tây Hà
Nội


Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, PGS.TS Nguyễn Thị Thu
Thảo, cùng các anh chị nhân viên tại Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội
đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Mong rằng chuyên đề này sẽ đóng góp một phần nào đó cho sự phát
triển của bảo lãnh tại Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội nói riêng và của
toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
NGÂN HÀNG
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng.
1.1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng.
Ngân hàng ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của
nền kinh tế và ngày càng khắng định được vai trò trụ cột của mình. Ngân
hàng là một trong các tổ chức quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là
tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Ngân hàng là
một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất.
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ghi “Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền
này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng.

Hoạt động của Ngân hàng có thể khái quát thành 3 loại cơ bản sau:
Huy động vốn
Hoạt động tạo nguồn vốn cho các NHTM – đóng vai trò quan trọng,
ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của Ngân hàng. Để bắt đầu hoạt động kinh
doanh, chủ Ngân hàng phải có vốn - vốn chủ sở hữu. Đây là loại vốn Ngân
hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị nhà cửa cho Ngân
hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành này rất đa dạng tỳ theo tính
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ Ngân hàng, yêu cầu sự phát triển của
thị trường. Nguồn vốn của Ngân hàng hình thành từ: Vốn chủ sở hữu, vốn nợ:
•Vốn chủ sở hữu: Đầu tiên phải kể đến nguồn hình thành ban đầu: Tuỳ
theo tính chất của mỗi Ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban
đầu là khác nhau: có thể là vốn của Nhà nước, cổ đông đóng góp, các
bên liên doanh đóng góp hoặc là vốn thuộc sở hữu tư nhân. Thứ hai,
nguồn vốn được bổ sung trong quá trình hoạt động: nguồn từ lợi nhuận,
nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm. Thứ ba
là các quỹ: quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư..Thứ
tư, là nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
•Vốn nợ: trong đó nguồn tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên
quan trọng nhất của NHTM: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội; tiền gửi tiết kiệm dân cư; tiền gửi của
các Ngân hàng khác. Để huy động vốn, Ngân hàng cũng có thể vay của
NHNN, vay của tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn…
Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản, quan trọng của Ngân hàng, tạo
thu nhập từ lãi lớn nhất và là hoạt động có rủi ro cao nhất. Các nguồn vốn sau
khi huy động sẽ được Ngân hàng sử dụng vào các mục đích khác nhau. Phần
đầu tiên là dự trữ một phần dưới dạng tiền, phần còn lại được sử dụng vào các

nghiệp vụ sinh lời nhằm tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng để bù đắp chi phí
hoạt động có lãi. Nghiệp vụ tín dụng bao gồm:
•Hoạt động cho vay: Cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng
giá trị từ người sở hữu (NHTM) sang người sử dụng (người vay –
khách hàng) sau một thời gian nhất định quay lại về với lượng giá trị
lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động
cho vay của NHTM rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhau. Việc áp dụng từng loại cho vay tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế
của đối tượng sử dụng vốn tín dụng nhằm sử dụng và quản lý tín dụng
có hiệu quả và phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế
khác nhau của đối tượng tín dụng. Các NHTM cho vay dưới nhiều hình
thức như: Thấu chi, cho vay trực tiếp nhiều lần, cho vay theo hạn mức,
cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp.
•Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của Ngân hàng là rất lớn nên ngoải
việc thực hiện cho vay thị Ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho
khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng
đa dạng và phát triển mạnh mẽ. Ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho
khách hàng thực hiện mua bán chịu hàng hoá trang thiết bị, dự thầu,
phát hành chứng khoán, vay vốn…
•Cho thuê là một giao dịch hợp đồng giữa hai chủ thể - Bên sở hữu tài
sản và bên sử đụg tài sản, trong đó bên chủ sở hữu tài sản – bên cho
thuê chuyển giao tài sản cho bên đi thuê sử dụng trong một thời gian
nhất định và bên sử dụng tài sản phải thanh toán tiền thuê cho bên chủ
sở hữu tài sản. Cho thuê thường được thực hiện dưới hai hình thức: cho
thuê vận hành và cho thuê tài chính.
•Ngoài ra, Ngân hàng còn thực hiện một số nghiệp vụ khác như: dịch
vụ thanh toán, uỷ thác và tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ

bảo hiểm, dịch vụ đại lý…
1.1.2. Bảo lãnh Ngân hàng
1.1.2.1. Lịch sử hình thành.
Khi kinh tế ngày càng phát triển thì kéo theo sự phát triển ngày càng
mạnh mẽ của các giao dịch thương mại. Biểu hiện của sự phát triển mạnh mẽ
này là sự gia tăng về số lượng, giá trị, độ phức tạp, sự cạnh tranh và được mở
rộng trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy mà việc thực hiện các giao dịch này chịu
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tác động rất nhiều các yếu tố như: tỷ giá, lãi suất, lạm phát, sự thay đổi môi
trường kinh tế, thể chế, chính trị…dẫn đến khả năng rủi ro ngày càng tăng.
Đặc biệt là đối với thương mại quốc tế thì khả năng rủi ro ngày càng cao khi
mà các giao dịch có ngăn cách về không gian, thời gian, thể chế chính trị, hệ
thống pháp lý, điều kiện thị trường…Rủi ro có thể phát sinh do các nguyên
nhân chủ quan hoặc khách quan. Ví dụ: khi một bên đối tác không thiện ý, cố
tình vi phạm các điều khoản đã ký kết nhằm mục đích trục lợi cho bản thân
gây tổn thất cho đối tác; cũng có thể xảy ra do các lý do khách quan như sự
biến động về kinh tế, chính trị, sự thay đổi của điều kiện tự nhiên…khiến cho
một bên không có khả năng thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
Đứng trước thực tế này, để phòng tránh và hạn chế tới mức thấp nhất rủi
ro có thể xảy ra người ta có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như quy định
các điều khoản pháp lý để giải quyết tranh chấp, áp dụng các biện pháp đảm
bảo: cầm cố thể chấp để bồi thường hoặc nhờ một bên thứ ba có uy tín, đáng
tin cậy, có chuyên môn và khả năng tài chính đứng ra đảm bảo đền bù cho các
thiệt hại (nếu phát sinh) dưới hình thức bảo hiểm, bảo lãnh hoặc cung cấp một
phương tiện thanh toán thuận tiện và an toàn. Và bảo lãnh ra đời từ đó.
Đơn giản nhất, một cá nhân có thể đứng ra cam kết miễn là người này
có đủ uy tín, khả năng tài chính, sẵn lòng thực hiện các nghĩa vụ của mình và
được các bên tham gia giao dịch đồng ý. Hợp đồng bảo lãnh có thể là một

phần trực thuộc hợp đồng giao dịch và do đó nó có tên là bảo lãnh kèm theo
trách nhiệm bảo lãnh của bên thứ ba, nó có tính phụ thuộc vào hợp đồng gốc.
Tuy nhiên khi các giao dịch thương mại ngày càng phát triển và phức
tạp, đặc biệt là các giao dịch kinh tế có quy mô lớn, phạm vi rộng, giá trị cao,
thì người đứng ra bảo lãnh đòi hỏi phải có một năng lực chuyên môn nhất
định để có thể xem xét cụ thể và hiểu sâu về giao dịch đó, đồng thời người
bảo lãnh thường không muốn liên quan quá nhiều đến hợp đồng gốc, các bên
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tham gia cũng muốn đơn giản hoá quá trình đền bù. Tất cả các điều đó thường
vượt quá khả năng của một cá nhân cụ thể, chỉ có các định chế tài chính lớn
như công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các Ngân hàng mới có đủ khả năng
thực hiện. Trong đó, bảo lãnh Ngân hàng là phát triển nhất. Sở dĩ như thế là
bởi vì Ngân hàng là một tổ chứ có uy tín lớn, có tiềm lực về tài chính rất
mạnh, đồng thời lại có một đội ngũ cán bộ công nhân viên có khả năng phân
tích, đánh giá chuyên nghiệp…nên các NHTM đã có những lợi thế vô cùng
lớn trong việc cung cấp và trở thành nhà bảo lãnh chủ yếu cho các hợp đồng
kinh tế.
Như vậy sự ra đời của bảo lãnh là một tất yếu khách quan, đóng góp
một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế đặc biệt là
trong thương mại quốc tế. Và sự phát triển của hoạt động bảo lãnh gắn chặt
với các NHTM, một tổ chức tài chính có khả năng cung cấp dịch vụ bảo lãnh
tốt nhất.
1.1.2.2. Lịch sử phát triển
Hoạt động bảo lãnh được hình thành từ rất sớm từ thời trung cổ (Hy
Lạp), trong những giao dịch thương mại nhỏ lẻ. Và đến những năm 60 của thế
kỷ XX bảo lãnh xuất hiện đầu tiên ở Mỹ dưới hình thức thư tín dụng dự
phòng (Standby L/C). Và cho đến những năm 70 thì bảo lãnh Ngân hàng mới
được mọi người chú trọng và sử dụng nó như là một công cụ hữu hiệu trong

các giao dịch thương mại quốc tế. Và từ đó cho đến nay bảo lãnh Ngân hàng
đã có những bước phát triển vượt bậc, nghiệp vụ bảo lãnh được hầu hết các
quốc gia trên thế giới sử dụng, có sự phát triển đáng kể về số lượng, chất
lượng các loại hình bảo lãnh. Thật không thể phủ nhận rằng: bất kỳ một giao
dịch lớn trên thế giới sẽ không diễn ra nếu thiếu sự hỗ trợ của bảo lãnh. Và
đặc biệt là ngày nay khi nền kinh tế thế giới đang trong xu thế quốc tế hoá,
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
toàn cầu hoá, lượng vốn lưu thông, cà các giao dịch thương mại quốc tế ngày
càng nhiều nên nhu cầu về bảo lãnh ngày càng tăng và cần thiết.
Tại Việt Nam, năm 1994 Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh của thống đốc
NHNN được ban hành đã đánh dấu sự hình thành của nghiệp vụ bảo lãnh. Từ
đó cho đến nay, quy chế đó đã được nhiều lần sửa đổi và bổ sung cho phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng.
Và hiện nay, ở Việt Nam các Ngân hàng đều đang áp dụng Quy chế bảo lãnh
Ngân hàng kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN.
Mặc dù nghiệp vụ bảo lãnh đã có những bước tiến vượt bậc so với khi
mới hình thành, song nhìn chung thì nghiệp vụ bảo lãnh tại nước ta vẫn đang
ở trong giai đoạn sơ khai, chưa phát triển, chưa thực sự được các Ngân hàng
coi trọng, đánh giá đúng như chức năng và vai trò vốn có của nó.
1.1.3. Khái niệm bảo lãnh Ngân hàng và đặc điểm của bảo lãnh
Ngân hàng.
1.1.3.1. Khái niệm
Bảo lãnh là một hợp đồng giữa hai bên, một bên là người phát hành bảo
lãnh, gọi là Người bảo lãnh (guarantor), thông thường là một Ngân hàng và
một bên là Người thụ hưởng bảo lãnh đó (beneficiary). Trong đó bên bảo lãnh
cam kết sẽ bồi hoàn một khoản tiền cho người thụ hưởng trong trường hợp
người được bảo lãnh vi phạm những nghĩa vụ của họ được quy định trong bảo
lãnh.

Theo điều 336, Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có định nghĩa về bảo lãnh như sau:“Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi
là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu
khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ”.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Theo điều 20, Luật các tổ chức tín dụng và Điều 2 trong Quy chế bảo
lãnh Ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày
26/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bảo lãnh Ngân hàng được
định nghĩa như sau: “Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ
chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết
với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng số tiền được trả thay”
Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh Ngân hàng được xem như một loại
hình tài trợ ngoại thương nhằm chống đỡ những tổn thất của người hưởng thj
bảo lãnh do sự vi phạm nghĩa vu của bên đối tác liên quan.
Tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh (bên bảo lãnh)
Ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, các
loại hình ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng thành lập và
hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng (gọi chung là tổ chức tín dụng)
được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng theo các quy định của pháp luật
có liên quan và quy định tại Quy chế này.
Các ngân hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép thực

hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và
các hình thức bảo lãnh khác mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân
nước ngoài.
Tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu theo quy
định của pháp luật về thương phiếu và Quy chế này.
Khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh (bên được bảo lãnh)
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam,
Doanh nghiệp nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn,
Công ty hợp danh, Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội,Doanh nghiệp liên doanh, Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, Doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể, Các tổ chức tín
dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng, Hợp tác xã
và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ Luật Dân sự,
Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và
tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện
các dự án đầu tư tại Việt Nam.
Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước có
quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng.
1.1.3.2. Đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng.
Bảo lãnh Ngân hàng là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc.
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh thường có sự kết hợp giữa ba hợp đồng
độc lập: Hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh, hợp đồng
giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh, hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và
bên bảo lãnh. Do đó một nghiệp vụ bảo lãnh không chỉ đơn thuần là quan hệ
giữa Ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh, mà còn bao hàm cả mối
quan hệ giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh, Ngân hàng bảo
lãnh và người nhận bảo lãnh. Trong đó quan hệ giữa người được bảo lãnh và

người nhận bảo lãnh là quạn hệ thương mại – là mối quan hệ gốc, là cơ sở để
phát sinh nghiệp vụ bảo lãnh. Ngoài ra, nếu nghiệp vụ bảo lãnh còn xuất hiện
thêm các bên khác nữa như Ngân hàng xác nhận bảo lãnh, Ngân hàng thông
báo …thì còn xuất hiện thêm mối quan hệ giữa Ngân hàng xác nhận, Ngân
hàng thông báo và Ngân hàng bảo lãnh.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tuỳ vào từng mối quan hệ phát sinh giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo
lãnh mà nghĩa vụ đó có thể là nghĩa vụ trả nợ, hoàn trả các khoản ứng trước,
thanh toán,đóng thuế, cung ứng hàng hoá, dịch vụ, nghĩa vụ bảo hành sản
phẩm…Xuất phát từ hợp đồng cơ sở, nhằm đảm bảo quyền lợi và hạn chế rủi
ro cho người thụ hưởng thì Ngân hàng sẽ phát hành bảo lãnh theo yêu cầu của
người được bảo lãnh. Quan hệ giữa bên được bảo lãnh và Ngân hàng bảo lãnh
là quan hệ giữa Ngân hàng cấp tín dụng và khách hàng nhận tín dụng. Quan
hệ giưa Ngân hàng bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh là mối quan được đảm bảo
bằng uy tín và khả năng tài chính của Ngân hàng.
Tóm lại, hoạt động bảo lãnh hình thành khi có sự thoả thuận thống nhất
của ít nhất ba chủ thể: Ngân hàng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận
bảo lãnh, được thể hiện cụ thể qua ba hợp đồng có liên quan. Ba hợp đồng
này tuy có sự độc lập nhưng vẫn có tác động qua lại với nhau.
Bảo lãnh Ngân hàng có tính độc lập so với hợp đồng
Mặc dù bảo lãnh Ngân hàng là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc nhưng
quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong các mối quan hệ đó là độc lập
tương đối. Trong một nghiệp vụ bảo lãnh thường có ba hợp đồng độc lập.
Thứ nhất hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo
lãnh.
Thứ hai, hợp đồng giữa người yêu cầu bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh,
cụ thể là đơn xin bảo lãnh đã được duyệt.
Thứ ba, hợp đồng giữa Ngân hàng bảo lãnh và người thụ hưởng – thư

bảo lãnh.
Tính độc lập của bảo lãnh Ngân hàng chính là sự độc lập về mặt pháp
lý giữa: Ngân hàng với người nhận bảo lãnh, Ngân hàng với người được bảo
lãnh. Hay chính là sự độc lập của bảo lãnh Ngân hàng, thư xin bảo lãnh với
hợp đồng gốc. Cụ thể như sau:
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
•Trong mối quan hệ giữa Ngân hàng bảo lãnh và người nhận bảo lãnh,
Ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi người thụ
hưởng xuất trình đầy đủ các bằng chứng hợp pháp chứng minh sự vi
phạm của người được bảo lãnh. Ngân hàng không thể dùng bất cứ lý do
gì thuộc về mối quan hệ giữa họ và người được bảo lãnh để trì hoãn
thanh toán. Hay thư bảo lãnh có tính độc lập với đơn xin bảo lãnh.
•Trong mối quan hệ giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng:
ngay khi có những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cơ sở sẽ không
ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng bảo lãnh khi người thụ
hưởng xuất trình đầy đủ các bằng chứng hợp pháp chứng minh sự vi
phạm của người được bảo lãnh. Ngân hàng bảo lãnh không có quyền
ngừng thanh toán.
•Trong mối quan hệ giữa Ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh:
cho dù người được bảo lãnh phá sản hoặc mất khả năng chi trả hoặc có
những tranh chấp với bên nhận bảo lãnh phát sinh từ hợp đồng cơ sở
không ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng bảo lãnh.
Quyền của Ngân hàng bảo lãnh là được trích từ tài khoản của người
được bảo lãnh hoặc quyền được đòi hoàn trả từ người được bảo lãnh
khi Ngân hàng trích từ tài khoản của Ngân hàng. Còn nghĩa vụ của
người được bảo lãnh cũng được xác định rất rõ: uỷ quyền đầy đủ cho
Ngân hàng bảo lãnh trích từ tài khoản của mình thanh toán cho người
thụ hưởng, hoặc hoàn trả cho Ngân hàng số tiền đã thanh toán trước.

Người được bảo lãnh sẽ hoàn tiền theo nguyên tắc “thanh toán trước,
khiếu kiện sau”. Người được bảo lãnh có quyền khiếu nại nếu thấy không
công bằng. Toà án sẽ xem xét và quyết định, lúc này người được bảo lãnh
mới có cơ hội được bù đắp những tổn thất do sự lạm dụng của bên thụ hưởng.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tuy nhiên tính độc lập này chỉ mang tính tương đối. Tuỳ theo điều kiện
bảo lãnh, tính độc lập này có thể rất cao hoặc rất thấp. Nếu bảo lãnh quy định
phải có kèm theo quyết định của trọng tài hay toà án, hoặc chứng thực của cơ
quan độc lập thì tính độc lập của bảo lãnh sẽ bị suy giảm.
Bảo lãnh Ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng của Ngân hàng.
Thực chất, bảo lãnh Ngân hàng là một hình thức tài trợ bằng uy tín.
Ngân hàng dùng uy tín của mình cam kết thanh toán cho người thụ hưởng.
Khi ra quyết định bảo lãnh, Ngân hàng phát hành bảo lãnh không phải xuất
tiền ngay, nên không ảnh hưởng tới bảng cân đối tài sản của Ngân hàng. Vì
vậy hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng được theo dõi ngoại bảng. Tuy nhiên,
khi rủi ro xảy ra, Ngân hàng phải thực hiện thanh toán thay cho khách hàng
thì sẽ ảnh hưởng tới bảng cân đối tài sản của Ngân hàng. Khoản này được xếp
vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng và cấu thành nợ quá hạn.
Bảo lãnh Ngân hàng được tiến hành trên cơ sở chứng từ
Bảo lãnh là cam kết bằng văn bản, được tiến hành trên cơ sở chứng từ.
Chỉ cần người nhận bảo lãnh xuất trình đầy đủ chứng từ đầy đủ theo nội dung
của thư bảo lãnh thì Ngân hàng bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Đồng thời Ngân hàng bảo lãnh có quyền trích từ tài khoản của người được
bảo lãnh hoặc có quyền truy đòi người được bảo lãnh cũng căn cứ vào chứng
từ trong hợp đồng bảo lãnh.
1.1.4. Chức năng của bảo lãnh Ngân hàng.
1.1.4.1. Chức năng bảo đảm
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh Ngân hàng. Bảo lãnh

Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng đối với người thụ hưởng một khoản bồi
hoàn tài chính cho những thiệt hại xảy ra khi người được bảo lãnh vi phạm
hợp đồng. Nếu người được bảo lãnh không hoàn trả lại khoản tiền cho Ngân
hàng bảo lãnh thì Ngân hàng phải chịu rủi ro tín dụng. Với chức năng bảo
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đảm của bảo lãnh đã tạo điều kiện cho các giao dịch thương mại phát triển,
đặc biệt là trong thương mại quốc tế.
Trên thực tế, số các bảo lãnh bị người thụ hưởng yêu cầu thanh toán là
rất ít (khoảng 1% theo một thống kê của Ngân hàng Hoa Kỳ vào năm 1998).
Như vậy bảo lãnh Ngân hàng là một công cụ bảo đảm hơn là một công cụ
thanh toán.
1.1.4.2. Bảo lãnh là một công cụ đôn đốc thực hiện hợp đồng
Sở dĩ, bảo lãnh Ngân hàng có chức năng này vì nó đã tạo ra được mối
liên kết trách nhiệm tài chính rang buộc giữa các bên. Trong đó, trách nhiệm
tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của Ngân hàng là thứ
cấp.
Đối với người được bảo lãnh: trong suốt thời gian hiệu lực của hợp
đồng, người thụ hưởng có quyền yêu cầu Ngân hàng phát hành thanh toán bảo
lãnh nếu như người được bảo lãnh vi phạm, trách nhiệm này trước hết thuộc
về người được bảo lãnh. Nếu người được bảo lãnh không có khả năng thanh
toán hoặc chây ỳ, cố tình không thanh toán thì sẽ bị hạ thấp xếp hạng tín dụng
và gặp nhiều khó khăn hơn khi xin cấp bảo lãnh và các khoản tín dụng khác
sau này. Người được bảo lãnh sẽ luôn cảm thấy áp lực bồi hoàn bảo lãnh vì
vậy bảo lãnh có vai trò đốc thúc người được bảo lãnh hoàn tất hợp đồng đã ký
kết.
Đối với Ngân hàng bảo lãnh: trách nhiệm về tài chính thuộc về khách
hàng, nhưng khi khách hàng không thực hiện khả năng thanh toán cho người
thụ hưởng thì trách nhiệm này thuộc về Ngân hàng - rủi ro mà Ngân hàng gặp

phải - cấu thành nợ quá trong bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng. Vì vậy,
đòi hỏi Ngân hàng phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực
hiện hợp đồng.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với người thụ hưởng: nếu bên được bảo lãnh vi phạm các điều
khoản trong hợp đồng và đã tiến hành bồi thường cho người thụ hưởng nhưng
người thụ hưởng vẫn có thể sẽ gặp khó khăn như: tạm thời ngừng sản xuất
kinh doanh hoặc có thể vi phạm hợp đồng với bên thứ ba…
1.1.4.3. Bảo lãnh được dùng như công cụ tài trợ.
Thông qua bảo lãnh người được bảo lãnh có thể được vay vốn, được
ứng trước, được cung cấp hàng hoá dịch vụ trước…Trong các hợp đồng xây
dựng, nhà thầu sẽ nhận được tiền sau khi bàn giao công trình. Các công trình
xây dựng thường yêu cầu khối lượng vốn lớn, thời gian thực hiện dài nên các
chủ thầu thường không có đủ tiền hoàn thành công trình. Nhà thầu thường
nhận được các khoản tạm ứng trước cho từng công đoạn từ nhà đầu tư với
điều kiện có một bảo lãnh ngân hàng cam kết sẽ hoàn trả số tiền ứng trước đó.
Do đó, bảo lãnh cũng được coi như là một công cụ tài trợ.
1.1.4.4. Bảo lãnh được dung như một công cụ đánh giá, hạn chế rủi
ro
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các giao dịch thương mại không
chỉ diễn ra trong phạm vi một nước mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế. Do
sự cách biệt về vị trí địa lý, phong tục tập quán thì việc tìm hiểu các thông tin
về đối tác rất khó khăn. Nếu như Ngân hàng phục vụ đối tác mà không sẵn
sàng phát hành một bảo lãnh thì đó không phải là một đối tác đáng tin cậy. Vì
vậy, cam kết bảo lãnh của Ngân hàng được sử dụng như một công cụ đánh
giá, hạn chế rủi ro và lựa chọn đối tác.
1.1.5. Vai trò của bảo lãnh Ngân hàng.
1.1.5.1. Đối với Ngân hàng.

Bảo lãnh làm tăng thu nhập cho Ngân hàng:
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại, ngày càng
phát triển và đem lại một khoản thu lớn cho Ngân hàng từ phí. Ngân hàng
được hưởng hoa hồng tính theo tỷ lệ % trên doanh số bảo lãnh.
Đồng thời, muốn được bảo lãnh Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng
ký quỹ tại Ngân hàng trong thời gian bảo lãnh. Khoản tiền ký quỹ này khá lớn,
ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn đầu vào này để cho vay, thu lãi.
Bảo lãnh góp phần tăng cường uy tín, nâng cao vị thế, mở rộng quan
hệ với khách hàng.
Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, thì Ngân hàng sẽ ngày càng tăng cường
mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng truyền thống, đồng thời có cơ hội tiếp
xúc với khách hàng mới, nâng cao uy tín và vị thế trong nước cũng như thị
trường quốc tế.
Bảo lãnh góp phần làm đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, giảm thiểu rủi
ro cho Ngân hàng.
Thông qua việc cung cấp nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng Ngân
hàng sẽ có điều kiện cung cấp cho khách hàng nhiều dịch vụ Ngân hàng đồng
bộ phù hợp (chi vay vốn lưu động để thực hiện hợp đồng, cung cấp dịch vụ
thanh toán trong nước và quốc tế…) qua đó góp phần đa dạng hóa dịch vụ
Ngân hàng.
Bảo lãnh ngày càng phát triển sẽ làm tăng thu nhập từ hoạt động dịch
vụ, tránh việc phụ thuộc quá nhiều vào hoạt động cho vay, qua đó hạn chế rủi
ro cho Ngân hàng. Đây cũng là xu hướng phát triển của các Ngân hàng trong
tương lai.
1.1.5.2. Đối với khách hàng.
Bên được bảo lãnh.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C

16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nhờ có bảo lãnh ngân hàng sẽ giúp cho bên được bảo lãnh nhanh
chóng tiếp cận được với nguồn vốn rẻ, hiệu quả, thúc đẩy, mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Bảo lãnh ngân hàng sẽ giúp cho các doanh nghiệp tăng uy tín, các giao
dịch được đảm bảo hơn, nên việc tìm kiếm các đối tác sẽ dễ dàng hơn.
Bên nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh Ngân hàng sẽ giúp cho doanh nghiệp hạn chế được rủi ro,
đảm bảo lợi ích kinh tế, giảm thiểu thiệt hại do sự vi phạm hợp đồng của đối
tác.
Bảo lãnh giúp cho bên nhận bảo lãnh tiết kiệm được thời gian, chi phí
trong việc tìm kiếm đối tác.
1.1.5.3. Đối với nền kinh tế
Bảo lãnh ngân hàng góp phần tăng thu nhập cho xã hội, tạo công ăn
việc làm, ổn định xã hội góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Với chức năng tài trợ, bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện cho chủ đầu tư
thực hiện vay vốn trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho
đầu tư, phát triển. Bảo lãnh ngân hàng sẽ đảm bảo cho việc hoàn trả vốn vay
và như thế bên có nhu cầu vay sẽ có cơ hội có được nguồn vốn phù hợp với
nhu cầu của mình. Đồng thời, bảo lãnh ngân hàng do các Ngân hàng có uy tín
phát hành, đóng vai trò là phương tiện bảo đảm cho món vay có hiệu quả hơn
so với cầm cố thế chấp. Nhờ có khoản vốn vay này, doanh nghiệp có thể đầu
tư đổi mới trang thiết bị, xây dựng các dự án có tính khả thi và đem lại hiệu
quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm, góp phần phát triển kinh tế.
Bảo lãnh ngân hàng giúp định hướng phát triển kinh tế.
Thông qua chính sách bảo lãnh, điều kiện bảo lãnh, Ngân hàng Nhà
nước, Chính phủ có thể hạn chế một bộ phận đối tượng khách hàng này, đồng
thời cũng có thể mở rộng cho đối tượng khách hàng khác.Qua đó, nó có tác
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C

17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dụng định hướng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn hay làm dịch chuyển
cơ cấu kinh tế đi đúng hướng.
Bảo lãnh góp phần làm hạn chế lượng tiền mặt đưa vào lưu thông.
Bảo lãnh là một công cụ tiện ích được sử dụng rộng rãi để tài trợ cho
các giao dịch kinh tế. Trong giao dịch kinh tế, nếu không tin tưởng thì sẽ yêu
cầu ký quỹ và lượng tiền mặt đưa vào lưu thông sẽ rất lớn.
1.1.6. Các loại bảo lãnh
Nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng rất đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu
của các chủ thể trong nền kinh tế. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau, nghiệp
vụ bảo lãnh của Ngân hàng được chia thành rất nhiều loại khác nhau. Sau đây
là một số tiêu thức phân loại nghiệp vụ bảo lãnh cơ bản nhất:
1.1.6.1. Căn cứ vào mục đích bảo lãnh
Căn cứ vào mục đích bảo lãnh thì có thể phân ra thành các loại bảo lãnh sau:
Bảo lãnh vay vốn
Bảo lãnh vay vốn là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát
hành cho bên nhận bảo lãnh, về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong
trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế khi nhiều tổ chức tín dụng cho vay đòi hỏi
phải có đảm bảo bằng hàng hoá, chứng khoán, bất động sản, hoặc bảo lãnh
của người thứ ba…Hoặc khi doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, Nhà nước có
nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu ra thị trường trong nước cũng
như ngoài nước, song do uy tín của người phát hành không cao, việc phát
hành sẽ rất khó khăn. Để giải quyết những khó khăn đó thì bảo lãnh vay vốn
ra đời. Bảo lãnh vay vốn sẽ tạo được sự tin tưởng cho người cho vay (người
nhân bảo lãnh) về khả năng chi trả của người đi vay (người được bảo lãnh).
Từ đó tạo điều kiện cho người đi vay vay được vốn. Loại bảo lãnh này được
sử dụng khá phổ biến trong và ngoài nước.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C

18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo lãnh thanh toán hay bảo lãnh trả chậm
Bảo lãnh thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng
phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng
trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
Thực chất loại bảo lãnh này ra đời trên cơ sở quan hệ tín dụng thương
mại, người bán chấp nhận cho người mua trả tiền hàng hoá theo những kỳ hạn
nợ cụ thể. Để bảo vệ mình trước những rủi ro không thanh toán, hoặc thanh
toán không đầy đủ, đúng hạn của người mua, người bán có thể yêu cầu một
bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng. Bảo lãnh này thường được dùng trong
các hợp đồng mua bán hàng hoá thiết bị trả chậm. Đây là loại hình bảo lãnh
rất phổ biến ở các nước đang phát triển.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín
dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ
các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết.
Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ
trong hợp đồng, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây
dựng thiết kế…Nếu khách hàng không thực hiện đúng, đầy đủ những nghĩa
vụ ghi trong hợp đồng như: giao hàng không đúng hạn, không đủ về số lượng,
không đảm bảo về chất lượng…thì người thụ hưởng bảo lãnh có quyền yêu
cầu Ngân hàng bảo lãnh thanh toán bảo lãnh. Giá trị tối đa của bảo lãnh tương
đương với mức bồi thường (10% - 15% giá trị hợp đồng). Thông thường hiệu
lực của loại bảo lãnh này kết thúc khi người được bảo lãnh hoàn thành nghĩa
vụ cung ứng hàng hóa của họ.
Bảo lãnh hoàn thanh toán
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C

19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo lãnh hoàn thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín
dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền
ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh.
Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải
hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền
ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng
trước cho bên nhận bảo lãnh.
Bằng việc cam kết sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho người mua, người
hưởng dịch vụ khi người bán, người cung cấp dịch vụ không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng các điều khoản ghi trong hợp đồng sẽ tạo ra sự tin
tưởng cho người mua - người hưởng dịch vụ; đồng thời cũng giúp cho người
cung ứng tránh được những khó khăn tạm thời về tài chính.
Giá trị của bảo lãnh hoàn thanh toán thường tương đương với số tìên
khách hàng đã ứng trước (kể cả tiền lãi và phạt nếu có)
Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh dự thầu là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát
hành cho bên mời thầu để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách
hàng.Trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không
nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Thông thường đối với những hợp đồng lớn, đặc biệt là những hợp đồng
xây dựng thiết kế hay cung cấp thiết bị thì người chủ công trình thường lựa
chọn đối tác thi công qua đấu thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là bù đắp
những thiệt hại về thời gian và chi phí cho người tổ chức đấu thầu khi người
dự thầu rút lui, không ký hợp đồng hay thay đổi ý định khi trúng thầu…Nếu
người dự thầu đã trúng thầu nhưng không ký hợp đồng thì người thụ hưởng sẽ
rút tiền thanh toán từ bảo lãnh để trang trải những chi phí, những thiệt hại của
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C

20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tổ chức đấu thầu do chậm trễ tiến độ thi công hay chi phí để tổ chức một cuộc
đấu thầu khác. Chủ công trình sẽ yêu cầu những người tham gia đấu thầu phải
cung cấp một bảo lãnh Ngân hàng gọi là bảo lãnh dự thầu, thường có giá trị từ
1% đến 5% trị giá hợp đồng đấu thầu. Bảo lãnh dự thầu không có hiệu lực
thanh toán khi người được bảo lãnh không trúng thầu. Thư bảo lãnh của
những người dự thầu mà không trúng thầu cũng sẽ tự động hết hiệu lực với
điều kiện người dự thầu không rút lui khỏi cuộc đấu thầu trước khi đơn thầu
của họ hết hiệu lực.
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm” là một bảo lãnh ngân hàng do
tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực
hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết
với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không
thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với
bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận
bảo lãnh , tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Giá trị hợp đồng bảo lãnh thường thấp hơn rất nhiều so với bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, thường từ 2% - 5% giá trị hợp đồng.
1.1.6.2. Căn cứ vào phương thức phát hành.
Căn cứ vào phương thức phát hành thì bảo lãnh được chia ra thành các
loại sau:
Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp là loại hình bảo lãnh theo đó Ngân hàng phát hành
bảo lãnh chịu trách nhiệm bảo lãnh trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Sau khi
Ngân hàng bồi thường cho người thụ hưởng, Ngân hàng bảo lãnh có thể trực
tiếp đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
21

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thông thường bảo lãnh trực tiếp thường có 3 bên tham gia: người được
bảo lãnh, người nhận bảo lãnh, Ngân hàng phát hành bảo lãnh. Riêng đối với
trường hợp người nhận bảo lãnh là người nước ngoài thì cần có thêm Ngân
hàng thông báo ở cùng nước với người nhận bảo lãnh. Ngân hàng này sẽ xác
nhận và chuyển giao số tiền, thông tin từ bên nhận bảo lãnh cho Ngân hàng
phát hành và ngược lại. Ngân hàng này hoàn toàn không có nghĩa vụ phải
thanh toán nếu có sự khiếu kiện bảo lãnh diễn ra.
Người được bảo lãnh sẽ phải ký quỹ, cầm cố thế chấp tài sản theo yêu
cầu của Ngân hàng phát hành. Tình hình tài chính, khả năng thực hiện, hoàn
tất hợp đông của người được bảo lãnh sẽ được Ngân hàng phát hành xem như
một yếu tố quan trọng, quyết định cho sự đồng ý bảo lãnh của Ngân hàng.
Sơ đồ 1.1: Bảo lãnh trực tiếp
(1) Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh kí kết hợp đồng có sở
(2) Người được bảo lãnh yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình phát hành bảo
lãnh cho người nhận bảo lãnh với những điều kiện và điều khoản quy
định trong hợp đồng cơ sở, đồng thời cam kết bồi hoàn cho Ngân hàng
phát hành.
(3) Ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh trực tiếp cho người nhận
bảo lãnh mà không cần vai trò của Ngân hàng thông báo.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
22
Ngân hàng phát
hành
Ngân hàng
thông báo
Người nhận bảo
lãnh
Người được bảo
lãnh

(1)
(2)
(3)
(3a)
(3b)
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh mà trong đó, Ngân hàng bảo lãnh đã
phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của Ngân hàng trung gian phục vụ cho người
được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng.
Bảo lãnh gián tiếp thường có 4 bên tham gia: Ngân hàng phát hành bảo
lãnh, Ngân hàng trung gian, người được bảo lãnh, người nhận bảo lãnh. Trong
một số trường hợp cũng có thể xuất hiện vai trò của Ngân hàng thông báo.
Trong đó, Ngân hàng trung gian không có bất cứ một mối quan hệ nào với
người nhận bảo lãnh. Người được bảo lãnh không phải bồi hoàn trực tiếp cho
Ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính Ngân hàng trung gian chịu trách
nhiệm bồi hoàn.
Sơ đồ 1.2: Bảo lãnh gián tiếp
(1) Người mua và người bán ký kết hợp đồng cơ sở
(2) Khách hàng yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình (Ngân hàng trung gian)
ra chỉ thị cho Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh (Ngân hàng phát
hành).
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
23
Ngân hàng phát
hành
Ngân hàng thông
báo
Ngân hàng
trung gian

Người được bảo
lãnh
Người nhận bảo
lãnh
(1)
(2)
(3)
(4)
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
(3) Ngân hàng trung gian chỉ thị cho Ngân hàng thứ hai phát hành bảo
lãnh và cam kết bồi hoàn cho Ngân hàng phát hành nếu Ngân hàng
phát hành thanh toán bảo lãnh bằng một văn bản bảo lãnh đối ứng.
(4) Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh được xác nhận
Bảo lãnh được xác nhận là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng
(bên xác nhận bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo
khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng được xác nhận bảo
lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh) đối với khách hàng. Trường hợp bên được
xác nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của
mình đã cam kết với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên được xác nhận bảo lãnh.
Trong bảo lãnh xác nhận gồm có ngưòi được bảo lãnh, người nhận bảo
lãnh, Ngân hàng phát hành, Ngân hàng xác nhận. Trách nhiệm thanh toán trực
tiếp cho người thụ hưởng sẽ thuộc về Ngân hàng xác nhận. Hình thức này
được áp dụng khi người nhận bảo lãnh không tin tưởng vào khả năng tài
chính của Ngân hàng bảo lãnh. Nhưng hình thức này không phổ biến vì thông
thường người ta thường thực hiện nghiệp vụ tái bảo lãnh nếu không tin tưởng
vào khả năng tài chính của Ngân hàng bảo lãnh.
Sơ đồ 1.3.Bảo lãnh được xác nhận
(1) Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở

(2) Người được bảo lãnh yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình phát hành
bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh.
Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
24
(4)
Ngân hàng phát hành Ngân hàng xác nhận
Người nhận bảo lãnhNgười được bảo lãnh
(1)
(2)
(3)
(5)
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
(3) Ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh.
(4) Ngân hàng phát hành dể nghị Ngân hàng xác nhận phát hành thư
xác nhận bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh.
(5) Ngân hàng xác nhận phát hành thư xác nhận cho người thụ hưởng
và cam kết bồi hoàn.
Đồng bảo lãnh
Đồng bảo lãnh là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một
nghĩa vụ của khách hàng thông qua một tổ chức tín dụng làm đầu mối.
Thông thường trong đồng bảo lãnh gồm có: người được bảo lãnh,
người nhận bảo lãnh, Ngân hàng phát hành (Ngân hàng đầu mối), và các
Ngân hàng khác. Ngân hàng đầu mối thường là Ngân hàng có uy tín và có
kinh nghiệm. Ngân hàng này sẽ đứng ra làm đại diện phát hành bảo lãnh cho
toàn bộ số tiền bảo lãnh từ người được bảo lãnh và chia lại cho các Ngân hàng
thành viên theo tỷ lệ. Các Ngân hàng còn lại hưởng phí bảo lãnh cam kết
chịu trách nhiệm theo tỷ lệ đóng góp của mình bằng những bảo lãnh đối ứng.
Khi Ngân hàng đầu mối thanh toán cho người thụ hưởng thì cơ quyền truy đòi
các Ngân hàng thành viên đồng bảo lãnh mà họ đã cam kết bảo lãnh đối ứng.
Sơ đồ 1.4. Đồng bảo lãnh.

Trương Thị Dịu Lớp: Ngân hàng 46C
25
Ngân hàng
phát hành
Ngân hàng
thông báo
Người được
bảo lãnh
Người thụ
hưởng
Ngân hàng 1
Ngân hàng 2
Ngân hàng 3
Ngân hàng 4
(1)
(2)
(3)
(4)

×