Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Giải pháp nng cao ch́t lượng tín dụng t.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.12 KB, 55 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, đất nước
chúng ta đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin
trong nhân dân cũng như nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cùng với những thành
tựu đổi mới của đất nước, hệ thống ngân hàng nước ta đã có những bước tiến
đáng kể trong hoạt động của mình, góp phần tích cực vào việc kìm chế lạm phát,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, hoạt động của ngành vẫn còn nhiều bất cập cả về cơ chế chính
sách và tổ chức hoạt động. Bên cạnh những mặt được, ngành ngân hàng Việt
Nam còn có những tồn tại. Một trong những tồn tại chủ yếu là số nợ khê đọng,
nợ khó đòi còn lớn, làm suy giảm năng lực của hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng
tới sự ổn định của hệ thống ngân hàng cũng như ổn định kinh tế. Chính vì vậy
để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ của ngành, ngay từ đầu năm ngân hàng
Nhà nước cũng như các TCTD đã có biện pháp để đẩy mạnh tăng trưởng tín
dụng, trên cơ sở an toàn và hiệu quả; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức đầu
tư để tạo sự chu chuyển vốn thông suốt, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn của
các TCTD trong năm vừa qua. Trong năm tới đòi hỏi các ngân hàng thương mại
nói chung, ngân hàng TMCP Quân Đội nói riêng đặc biệt chú trọng nâng cao
chất lượng tín dụng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hoạt động tín dụng chưa an toàn và chất lượng tín dụng chưa cao đang là
mối quan tâm không chỉ đối với giới quản lý và điều hành của hệ thống ngân
hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội bởi vì đây là tín hiệu tổng hợp, vừa
phản ánh trình độ hoàn thiện pháp luật theo cơ chế thị trường trong quản lý kinh
tế nói chung và quản lý hoạt động ngân hàng nói riêng, vừa phản ánh sự lớn
mạnh và những mặt còn bất cập trong quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng.
1
Qua quá trình thực tập tại Ngân hàng TMCP Quân Đội em nhận thấy mục
tiêu nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng quân đội chính là một
mục tiêu được các cổ đông, hội đồng quản trị cũng như ban lãnh đạo ngân hàng
luôn quan tâm và đặt ra trong chương trình chiến lược của ngân hàng Quân Đội


từ năm 2004 đến năm 2008. Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp
nâng cao chất lượng tín dụng tại NH TMCP Quân Đội” cho bản chuyên đề của
mình với mong muốn góp phần làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Quân Đội ngày càng có hiệu quả, an toàn, phát triển.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo PGS.TS
Nguyễn Thị Mùi cùng các anh chị tại ngân hàng Quân Đội đã giúp em hoàn
thành đề tài này. Bài chuyên đề của em gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng của NH TMCP Quân Đội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại
NHQĐ
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG:
1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng:
Tín dụng xuất hiện từ khi xã hội có sự phân công lao động xã hội và xuất
hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Khi đó của cải tập trung trong tay một số
người trong khi nhiều người khác có thu nhập thấp không đủ đáp ứng nhu cầu
cần thiết. Vì vây xuất hiện quan hệ cho vay nặng lãi tiền thân của quan hệ tín
dụng.
Ngày nay do sự phát triển và hiện đại hóa của nền kinh tế thị trường đòi
hỏi các quan hệ và các hình thức tín dụng cũng phải phát triển đa dạng và phong
phú phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Trong đó tín dụng ngân hàng là hình
thức chủ yếu nhất, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế rất linh hoạt và
kịp thời.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, hàng hóa và
dich vụ theo nguyên tắc hoàn trả giữa một bên là các đơn vị kinh tế, các tổ chức

xã hội và dân cư. Nó là một nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Quá
trình hình thành quan hệ tín dụng chính là quá trình hình thành các quan hệ vay
mượn lẫn nhau trong xã hội. Đó là mối quan hệ vay mượn có hoàn trả cả gốc và
lãi sau một khoảng thời gian nhất định, là quan hệ chuyển dịch tạm thời quyền
sử dụng vốn, là quyền bình đẳng cả hai bên đều có lợi.
1.1.2 Đặc điểm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là một loại hình tín dụng nên nó có đầy đủ các đặc
điểm của tín dụng cùng với những đặc trưng riêng có của nó:
3
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy tín dụng là sự cung cấp một
lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. ở đây người cho vay tin tưởng người đi vay
sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng
trả được nợ. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế
một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá
mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan
điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Để đảm
bảo thu hồi nợ đúng hạn, người cho vay thường xác định rõ thời gian cho vay,
căn cứ vào quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay, vào tính chất vốn của
người cho vay.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên
tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Vì vốn cho vay của ngân hàng là vốn huy động
của những người tạm thời thừa nên sau một thời gian nhất định ngân hàng phải
trả lại cho người ký thác. Mặt khác, ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi
phí hoạt động như: khấu hao TSCĐ, trả lương cán bộ công nhân viên, ... nên
người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho ngân hàng một khỏan lãi.
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình
thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (động sản vả bất động sản).
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.

- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Về phía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín
dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước... thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi
vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.3 Các loại tín dụng ngân hàng:
4
Trong nền kinh tế thị trường, họat động tín dụng ngân hàng rất đa dạng và
phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có
hiệu quả thì phải tiến hành phân loại tín dụng theo các tiêu thức khác nhau:
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, ...
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng...
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho
vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ
tín dụng.
* Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín
dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến đổi
mới thiết bị, công nghệ, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu
hồi vốn nhanh,...
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, được cung cấp

để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện
vận tải có quy mô lớn, ...
* Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
5
- Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng.
- Cho vay có đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có
tài sản thế chấp hoặc cầm cố , hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
* Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
- Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khê ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Các ngân hàng thương mại thường cho vay gián tiếp theo hình thức chiết khấu
thương mại, mua các phiếu bán hàng chịu của người bán, mua các khỏan nợ của
DN,...
1.1.4 Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Hoạt động tín dụng của ngân hàng đựơc hiểu bao gồm cả nghiệp vụ huy
động vốn và nghiệp vụ cho vay. ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Mọi người được tự do kinh doanh
theo pháp luật, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp đan kết với nhau hình thành
các tổ chức kinh doanh đa dạng. Theo hướng đó nền kinh tế phát triển sẽ kéo
theo nhu cầu sử dụng vốn cũng đa dạng hơn, và chu kỳ tạm thời thừa vốn của
các chủ thể trong nền kinh tế cũng đa dạng hơn. Ngân hàng thương mại lúc đó là
chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Nó đứng ra huy
động các nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế
như: vốn tạm thời đựơc giải phóng ra từ quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm
của các cá nhân trong xã hội. Bằng nguồn vốn huy động được trong nền kinh tế,

thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vốn cho mọi
họat động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình
6
tái sản xuất. Nhờ đó các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến
êasy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. Đáp
ứng mọi nhu cầu của thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng
vững chắc trong cạnh tranh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.5 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường và thực hiện mục tiêu phát
triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, hướng tới hội
nhập kinh tế quốc tế, vai trò của tín dụng ngân hàng cũng ngày một tăng lên:
a. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất phát triển:
Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn trong nền kinh tế,
tín dụng ngân hàng đã thu hút những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội
để đầu tư vào nền kinh tế, từ đó phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế.
Vốn là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều hình thức như vốn tự
có, vốn do ngân sách cấp, vốn vay mượn. Nhưng nguồn vốn chủ yếu và thường
xuyên nhất vẫn là nguồn vốn thông qua kênh tín dụng ngân hàng. Để được sử
dụng nguồn vốn này khách hàng phải trả cho ngân hàng một số tiền lớn hơn số
tiền đã vay sau một thời gian nhất định. Vì vậy, bất kỳ người vay vốn nào cũng
mong muốn mình sản xuất kinh doanh có lãi để trả được nợ cho ngân hàng và có
được một phần lợi nhuận giữ lại sau khi đã bù đắp các khoản chi phí. Để làm ăn
có lãi trong nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi DN phải tạo cho mình một
ưu thế và sức mạnh trong cạnh tranh, sản phẩm đa dạng, cơ cấu sản xuất kinh
doanh phù hợp. Tức là phải cung cấp cho thị trường những sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ tốt hơn, phong phú hơn, tạo điều kiện nâng cao uy tín và mở rộng thị
phần cho mình. Điều này chứng tỏ tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy quá
trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng phát triển.
Ngoài ra, bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi với những ngành kinh tế mũi

nhọn cũng như những ngành kinh tế kém phát triển nhưng lại cần thiết và có lợi
7
cho quốc kế dân sinh, tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy những ngành
kinh tế này phát triển.
b. Tín dụng ngân hàng là công cụ điều hòa lưu thông tiền tệ, kiểm soát
được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, qua đó điều tiết vĩ mô nền kinh
tế:
Do những điểm ưu việt của mình mà tín dụng ngân hàng đóng vai trò
quan trọng, quyết định đến sự ổn định của lưu thông tiền tệ. Qua hoạt động các
DN mở tài khỏan và thanh toán qua ngân hàng ngày càng nhiều, với tính chất
thường xuyên liên tục. Cũng như việc cho vay và thu nợ của ngân hàng gắn liền
với sự vận động của giá trị vật tư hàng hóa trong quá trình sản xuất và lưu
thông, đã tạo ra những tiền đề kinh tế khách quan cho phép nhà nước thông qua
hệ thống ngân hàng sử dụng công cụ lưu thông tín dụng để kiểm soát khối lượng
tiền cũng như chất lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Sự phát triển của
nghiệp vụ tín dụng đi đôi với việc thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu
thông, góp phần ổn định lưu thong tiền tệ. Đây cũng là một nhân tố quan trọng
để kiềm chế lạm phát, giúp nền kinh tế phát triển.
c. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế giúp các đơn vị thực hiện chế độ
hạch toán kinh tế, khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh
doanh:
Trong quá trình hoạt động tín dụng, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất là
phải thu hồi được vốn và có lãi. Do vậy khi sử dụng vốn vay ngân hàng, các đơn
vị vay vốn phải thực hiện đầy đủ các điều khoản đã ghi trong hợp đồng tín dụng,
là đảm bảo trả nợ vay đúng hạn và một số điều khoản khác. Qua đó đòi hỏi đơn
vị vay vốn phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm
chi phí, tăng cường vòng quay vốn... Mỗi chủ thể kinh doanh phải chủ động tìm
kiếm thị trường và thực hiện các biện pháp như: ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật mới, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên, mở
rộng thị trường... Như vậy tín dụng ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy

kinh tế không thể thiếu được trong việc quản lý tài chính, kiểm soát các quá
8
trình sản xuất phân phối sản phẩm xã hội, thực hiện và củng cố chế độ hạch toán
kinh tế trong tất cả các ngành và lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
d. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước
ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện để thắt chặt mối
quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới:
Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước luôn gắn
liền với nền kinh tế thế giới. Một nước không thế phát triển nếu nước đó không
quan hệ với bên ngoài. Trong mối quan hệ kinh tế đó, sự hợp tác bình đẳng hai
bên cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được mở rộng
và phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Đây là nhân tố quan trọng giúp cho quá
trình phát triển kinh tế của mỗi nước đặc biệt là những nước đang phát triển như
Việt Nam. Việc nhận vốn hay chuyển vốn đầu tư đều phải thông qua ngân hàng.
Vì vậy tín dụng ngân hàng trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh
tế các nước với nhau. ở nước ta trong những năm qua, tín dụng ngân hàng đã
góp phần đáng kể vào quá trình hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới.
1.2 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG:
1.2.1 Khái niệm và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân
hàng
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền
và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn
tại, phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng được hình thành và đảm bảo
từ hai phía là ngân hàng và khách hàng. Nghĩa là sau một quá trình chu chuyển
vốn, ngân hàng vừa thu được cả gốc và lãi, còn khách hàng thì làm ăn có hiệu
quả. Bởi vậy, chất lượng hoạt động của ngân hàng không những phụ thuộc vào
bản thân của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp.
Như ta đã nghiên cứu ở trên, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng
trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng

9
không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng cho vay mà còn có ý nghĩa với khách hàng
vay vốn và với toàn bộ nền kinh tế. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín
dụng ngân hàng được xem xét dưới góc nhìn của các chủ thể sau:
a. Đối với các ngân hàng thương mại:
Với tư cách là trung gian tài chính trong nền kinh tế, việc nâng cao chất
lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng tăng cường nguồn vốn của mình. Nếu
chất lượng tín dụng tốt, biểu hiện bằng việc áp dụng linh hoạt và hiệu quả công
tác huy động vốn thì sẽ tạo được nguồn vốn phong phú, đa dạng làm cơ sở cho
việc tạo ra cơ cấu tài sản có phù hợp với cơ cấu tài sản nợ. Bên cạnh đó, chất
lượng tín dụng giúp ngân hàng bảo toàn được vốn của mình bởi vì khi cho vay
có hiệu quả, có khả năng thu hồi cả gốc và lãi, ngân hàng sẽ không phải dùng
nguồn vốn để bù đắp, mà nguồn vốn này phần lớn là của khách hàng. Do vậy,
chất lượng tín dụng tốt là điều kiện để ngân hàng bảo toàn vốn của mình và của
khách hàng gửi tại ngân hàng. Mặt khác, nâng cao chất lượng tín dụng là cơ sở
để ngân hàng tăng cường lợi nhuận cho mình vì phần lớn lợi nhuận thu được
hàng năm của ngân hàng được hình thành từ việc thu lãi từ các khoản tiền cho
vay.
Hơn thế nữa, nâng cao chất lượng tín dụng giúp ngân hàng nâng cao được
nghiệp vụ tín dụng, có thêm nhiều kinh nghiệm, xử lý nhanh các tình huống xảy
ra, có khả năng phán đoán tốt. Từ đó sẽ nâng cao uy tín cho ngân hàng, mở rộng
thị phần và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, đồng thời đảm bảo
quyền lợi cho khách hàng.
b. Đối với các chủ thể vay vốn:
Việc nâng cao chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh hóa các quan hệ
tín dụng giữa khách hàng với ngân hàng, mà ngân hàng lại là đối tác quan trọng
nhất trong các đối tác trong nền kinh tế (vì ngân hàng vừa là người cho vay vừa
là trung gian thanh toán). Hoạt động tín dụng được thực hiện, việc tuân thủ các
nguyên tắc và điều kiện trên cơ sở cả hai bên đều có ý thức thúc đẩy và thắt chặt
mối quan hệ sẽ tạo ra những khoản tín dụng có chất lượng. Từ đó giúp doanh

10
nghiệp thường xuyên được thỏa mãn yêu cầu về vốn để duy trì và mở rộng sản
xuất kinh doanh, được hưởng những tiện ích khác như thủ tục đơn giản, lãi suất
ưu đãi hơn và tránh được các chi phí và các kỷ luật tín dụng làm giảm hiệu quả
kinh doanh.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi khách hàng phải nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tức là người vay vốn phải tạo ra sản phẩm có
chất lượng cao, tiêu thụ được nhiều, bù đắp được chi phí và thu hồi được lợi
nhuận tới mức có thể. Điều này cũng sẽ giúp cho khách hàng có chỗ đứng trên
thị trường. Mặt khác nâng cao chất lượng tín dụng còn là điều kiện để khách
hàng củng cố chế độ hạch toán kế toán theo đúng chế độ hiện hành.
c. Đối với nền kinh tế:
Trước hết ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế, loại
doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng thương mại là cầu
nối giữa người có vốn và người thiếu vốn. Nếu ngân hàng hoạt động có hiệu quả
sẽ làm cho khu vực tài chính được lành mạnh góp phần ổn định tiền tệ và kiềm
chế lạm phát, mặt khác giúp các thành phần kinh tế có đủ vốn để mở rộng sản
xuất từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngược lại, nếu chất lượng tín dụng
không đảm bảo, ngân hàng sẽ không mở rộng được tín dụng, thị trường tín dụng
sẽ bị ngừng trệ và từ đó nền kinh tế cũng bị ngừng trệ và suy thoái.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
1.2.2.1 Nhóm chỉ tiêu định tính:
- Con người: mà cụ thể ở đây là các cán bộ tín dụng. Chất lượng tín dụng
trước hết được đánh giá qua phong cách làm việc của cán bộ tín dụng có hiệu
quả không, đó có phải là những con người ngoài việc phải có một trình độ nhất
định còn có một lòng nhiệt huyết với nghề. Họ phải là những người sáng tạo,
nhanh nhẹn, làm việc không chỉ đảm bảo lợi ích cho ngân hàng mà còn tạo
thuận lợi cho cả khách hàng. Ta có thể đặt ra một số yêu cầu đối với một cán bộ
tín dụng như sau:
11

+ Có kiến thức cơ bản: nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán
quốc tế, kế toán, pháp luật...
+ Có kiến thức về giao tiếp, bán hàng, chăm sóc khách hàng
+ Là những người nhiệt tình, có trách nhiệm trong công việc
+ Trong kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp luôn đặt lên hàng đầu
+ Luôn nghiêm túc chấp hành quy định của ngân hàng và tìm hiểu
những quy định về tín dụng để áp dụng cho đúng, cho phù hợp và đảm bảo tuân
thủ tuyệt đối.
+ Luôn có lập trường quan điểm độc lập, rõ ràng, các căn cứ lập
luận đưa ra đều phải có cơ sở lý luận tránh tình trạng chung chung, mang nặng
cảm tính.
+ Năng động và nhạy bén trong công việc. Dù ở những vị trí khác
nhau luôn có tinh thần học tập, cầu thị
- Quy trình tín dụng: đây là một chỉ tiêu rất quan trọng, nó trực tiếp quyết
định đến hiệu quả, chất lượng của họat động tín dụng ngân hàng. Căn cứ vào
quy trình tín dụng mà ngân hàng xây dựng ta có thê đã đánh giá được phần nào
chất lượng tín dụng của ngân hàng. Quy trình vừa nhanh gọn nhưng lại hiệu quả
thì đó chính là phản ánh một mô hình tín dụng có chất lượng tốt.
- Công nghệ thông tin: hiện nay hoạt động của ngân hàng không thể tách
rời với công nghệ thông tin. Và hoạt động tín dụng cũng vậy, đó là công cụ hỗ
trợ cho hoạt động tín dụng được nhanh chóng và thuận lợi hơn. Do vậy thông
qua công nghệ mà ngân hàng áp dụng ta có thể đánh giá được chất lượng tín
dụng, phần mềm càng tham gia hỗ trợ cho cán bộ tín dụng trong nhiều công việc
thì càng tạo nhiều điều kiện nâng cao được chất lượng tín dụng.
1.2.2.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng:
a. Các chỉ tiêu pháp quy:
- Theo QĐ 1627 của thống đốc NHNN thì tổng dư nợ cho vay đối với các
đối tượng đặc biệt (như: tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên kiểm toán tại NH;
thanh tra viên thực hiện thanh tra tại ngân hàng. Các cổ đông lớn, kế toán trưởng
12

của NH. Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 điều
77 của Luật các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp
đó) không được vượt quá 5% vốn tự có của NH.
- Cũng theo QĐ 1627 thì tổng dư nợ đối với một khách hàng không vượt
quá 15% vốn tự có của NH.
- Giới hạn dư nợ cho vay của 10 khách hàng lớn nhất không quá 30%
tổng dư nợ.
- Nợ quá hạn trên tổng dư nợ (trừ nợ khoanh) không quá 5% là tốt.
b. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động tín dụng
- Tăng trưởng tín dụng:
Dư nợ kỳ này
Tăng trưởng TD = 100%
Dư nợ kỳ trước- Dư nợ kỳ này
Nó phản ánh tốc độ tăng dư nợ tín dụng của ngân hàng kỳ này so với kỳ
trước, chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ kỳ này ngân hàng đã mở rộng được hoạt
động tín dụng, và nếu nhìn chung thì ta có thể đánh giá là chất lượng tín dụng
của ngân hàng đã được nâng cao.
- Vòng quay vốn tín dụng:
Doanh số thu nợ trong kỳ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ cho vay bình quân trong kỳ
Chỉ số này cho biết tốc độ lưu chuyển của vốn tín dụng là nhanh hay
chậm. Vòng quay vốn tín dụng nhanh thể hiện chất lượng tín dụng tốt, tổng số
thu nợ trong kỳ lớn. Ngược lại thì nó lại thể hiện chất lượng tín dụng không tốt,
thu nợ trong kỳ kém, vốn tín dụng bị đóng băng. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào hai
yếu tố: doanh số thu nợ trong kỳ càng cao kỳ luân chuyển vốn càng nhanh, và
ngược lại dư nợ cho vay bình quân càng nhỏ kỳ luân chuyển vốn càng nhanh.
13
- Hiệu quả một đồng vốn cho vay: đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu
vòng quay vốn tín dụng, nó phản ánh một đồng dư nợ cho vay sẽ tạo ra bao

nhiêu đồng doanh thu.
- Tỷ lệ nợ quá hạn:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng dư nợ cho vay có bao nhiêu đồng là
nợ quá hạn. Chỉ tiêu này phản ánh việc quản lý nợ của ngân hàng, chỉ tiêu này
càng lớn chứng tỏ số nợ quá hạn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ, rủi ro tín
dụng của ngân hàng càng tăng và việc quản lý tín dụng của ngân hàng không
hiệu quả, chất lượng tín dụng không tốt.
Chỉ tiêu này có thể xác định chi tiết theo thời gian quá hạn của khoản nợ:
Nợ quá hạn dưới 180 ngày
Tỷ lệ nợ quá hạn =
dưới 180 ngày Tổng dư nợ
Nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày
Tỷ lệ nợ quá hạn =
khả dụng Tổng dư nợ
Nợ quá hạn trên 360 ngày
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Tổng dư nợ
Nếu tỷ lệ nợ khó đòi càng cao thì ngân hàng không những phải gánh chịu
rủi ro tín dụng lớn mà còn có nguy cơ mất khả năng thanh toán, vì đây là những
khoản nợ khó có khả năng thu hồi, và ngân hàng cũng có nguy cơ mất vốn.
- Hiệu suất sử dụng vốn:
Tổng dư nợ
14
Hiệu suất sử dụng vốn = 100%
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ ngân hàng đã tận dụng được nguồn vốn
huy động được một cách tối đa, không để nguồn vốn đõ bị đọng lại. Hiệu suất sử

dụng vốn có thể tính tại một thời điểm nhất định hoặc tính bình quân cho cả
năm.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng:
1.2.3.1 Nhóm nhân tố từ phía khách hàng:
Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất tới chất lượng tín dụng, bởi
vì một khoản tín dụng có thu được đủ cả gốc và lãi hay không phụ thuộc chủ
yếu vào khách hàng vay vốn, mf cụ thể là phụ thuộc vào:
- Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn: nếu khách hàng vay vốn
có tiềm lực tài chính mạnh, tức là tỷ trọng vốn tự có trong phương án sản xuất
kinh doanh lớn, khả năng thanh toán cao, vòng quay vốn nhanh, tỷ suất lợi
nhuận cao... chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có khả năng trả nợ
cho ngân hàng đầy đủ và đúng hạn. Với những khách hàng này, ngân hàng yên
tâm hơn khi đầu tư vốn vào đó. Ngược lại, nếu tiềm lực tài chính của khách
hàng yếu, là biểu hiện của tình trạng làm ăn kém hiệu quả, khi đó ngân hàng sẽ
gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ.
- Triển vọng kinh doanh: là khả năng phát triển trong tương lai của khách
hàng. Một doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh sáng sủa, nghĩa là phương án
sản xuất kinh doanh có khả năng đạt hiệu quả cao trong tương lai thì họ sẽ có
thể đảm bảo cho ngân hàng một khoản tín dụng có chất lượng, và ngân hàng có
thể mở rộng đầu tư, một doanh nghiệp mà đang trong tình trạng hoặc có nguy cơ
biến động theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong
trả nợ cũng như trong hoạt động kinh doanh.
- Mức độ đảm bảo tín dụng: là các nguồn mà ngân hàng có thể thu hồi
trong trường hợp khách hàng không trả được đầy đủ các khoản tiền vay và đúng
15
hạn. Nếu như mức độ đảm bảo tín dụng mà cao thì ngân hàng có thể vẫn thu hồi
đủ số tiền cần thu mà không có thiệt hại lớn trong trường hợp khách hàng không
trả được nợ
- Đạo đức kinh doanh của khách hàng: nếu một khách hàng có thiện chí
trong vấn đề vay trả nợ cho ngân hàng thì họ sẽ tìm mọi cách có thể để tìm

nguồn trả nợ cho ngân hàng. Còn nếu không thì khoản tín dụng mà ngân hàng
cung cấp khó hoặc không thể thu hồi được vì lý do chủ quan thuộc về đạo đức
kinh doanh của khách hàng.
- Năng lực quản lý của ban lãnh đạo và trình độ tay nghề của người lao
động có ảnh hưởng lớn tới khoản tín dụng. Khi mà năng lực, trình độ của người
lãnh đạo còn hạn chế, thiếu năng động trong kinh doanh, không kịp thay đổi
mục tiêu chiến lược khi môi trường kinh doanh thay đổi. Hơn nữa nếu đội ngũ
nhân viên thiếu hiểu biết, không có kinh nghiệm, thiếu kỷ luật thì sẽ dẫn đến
tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và ảnh hưởng đến chất lượng của khoản
vay.
1.2.3.2 Nhóm nhân tố từ phía ngân hàng
- Chính sách tín dụng và các cơ chế quản lý tín dụng của ngân hàng càng
phù hợp chặt chẽ và có hiệu quả, thì càng tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng
làm tốt các công vịêc và có thể tạo ra các khoản tín dụng có chất lượng.
- Năng lực cán bộ quản lý và đội ngũ cán bộ tín dụng: con người luôn là
nhân tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành công hay thất bại của một
khoản tín dụng. Xã hội càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao
để đáp ứng kịp thời, có hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín
dụng. Việc tuyển chọn cán bộ tín dụng có đạo đức nghề nghiệp tốt và giỏi về
chuyên môn sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa, hạn chế những sai phạm
có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng
- Các yếu tố khác: ngoài các yếu tố nêu trên thì trong ngân hàng còn có
những nhân tố khác ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng như việc xây dựng một
quy trình tín dụng có hợp lý hay không, việc chấp hành các chế độ, thể lệ của
16
ngành về giới hạn cho vay và bảo lãnh, quy định về tài sản đảm bảo... Việc kiểm
tra, kiểm soát với khách hàng vay vốn và trong nội bọ ngân hàng có thường
xuyên và chặt chẽ hay không...
1.2.3.3 Nhóm nhân tố khác:
- Nhóm nhân tố liên quan đến cơ chế, pháp lý: Pháp luật là bộ phận không

thể thiếu được của một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, và nó
cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại. Một hành lang pháp lý chặt chẽ, đồng bộ, thiết thực sẽ là môi
trường tốt để các hoạt động của ngân hàng nói riêng, của toàn bộ nền kinh tế nói
chung phát triển. Và nó đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng của những khoản tín
dụng của các ngân hàng thương mại, vì hoạt động này có liên quan tới nhiều yếu
tố khác nhau trong nền kinh tế.
- Nhóm nhân tố liên quan đến môi trường kinh tế, xã hội:
Điều kiện kinh tế của khu vực mà ngân hàng phục vụ ảnh hưởng lớn tới
chất lượng tín dụng. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
khoản tín dụng có chất lượng cao, còn nền kinh tế không ổn định thì các yếu tố
lạm phát, khủng hoảng sẽ làm cho khả năng tín dụng và khả năng trả nợ biến
động lớn làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu nợ khi cho vay của ngân hàng.
Ngoài ra điều kiện tự nhiên cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng,
nhất là những ngân hàng có quan hệ tín dụng với các lĩnh vực có liên quan đến
tự nhiên như nông nghiệp, giao thông vận tải. Khi điều kiện tự nhiên thuận lợi là
cơ hội để khách hàng có thể sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Trái lại khi các
thảm họa tự nhiên xảy ra như thiên tai, hạn hán, lũ lụt xảy ra khách hàng có thể
bị mất hết vốn và không còn khả năng trả nợ cho ngân hàng nữa.
1.2.4 Quản lý chất lượng tín dụng ngân hàng:
1.2.4.1 Sự cần thiết phải quản lý chất lượng tín dụng ngân hàng:
Quản lý chất lượng tín dụng là quá trình cán bộ tín dụng kiểm tra các yếu
tố có liên quan đến khoản vốn cho vay từ khi nhận được hồ sơ xin vay cho đến
17
khi tất toán tài khoản vay, với mục đích đảm bảo sự an toàn của vốn vay đồng
thời giúp các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả. Mặt khác, việc thực hiện
tốt công tác này có ý nghĩa rất lớn đối với không chỉ ngân hàng mà còn đối với
nền kinh tế. Nó đảm bảo nhu cầu vốn cho nền kinh tế, thực hiện vai trò của ngân
hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Còn với đơn vị vay vốn, đó là một
yếu tố quan trọng bắt buộc họ phải làm ăn có lãi, có những thay đổi trong quá

trình hoạt động sao cho có lợi nhất.
1.2.4.2 Yêu cầu của quản lý chất lượng tín dụng
Việc kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên từ trước khi cho vay, khi
cho vay và sau khi cho vay.
Kiểm tra trước khi cho vay:
Là công việc đầu tiên và quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả của
khoản cho vay của ngân hàng. Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải nộp đầy đủ
hồ sơ xin vay vốn. Bộ hồ sơ này bao gồm:
+ Quyết định thành lập doanh nghiệp
+ Điều lệ họat động của doanh nghiệp (nếu có)
+ Quyết định bổ nhiệm thủ trưởng, kế toán trưởng
+ Báo cáo cân đối tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh, thuyết minh báo
cáo tài chính năm trước, quý trước.
+ Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm, quý
+ Phương án sản xuất kinh doanh, kế họach vay vốn, đơn xin vay vốn
+ Các hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh doanh về mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ.
Quá trình kiểm tra hồ sơ phải đánh giá được:
+ Sự cần thiết của dự án đầu tư: xem xét việc đầu tư của dự án có phù hợp
với đặc điểm tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay
không, có phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước hay không?
+ Điều kiện và khả năng thực thi của dự án: đầu tư dự án là quá trình biến
các khả năng tiềm ẩn thành hiện thực hoặc tạo ra các điều kiện tối ưu phục vụ
18
cho quá trình họat động sản xuất kinh doanh. Vì vậy việc đánh giá các điều kiện
và khả năng thực thi của dự án phải được tiến hành một cách chi tiết, toàn diện
trong quá trình thực hiện như: máy móc thiết bị cần cho dự án, nguyên vật liệu
sản xuất kinh doanh, nhân côn, khả năng tổ chức, triển khai thực hiện...
+ Hiệu quả kinh tế của dự án: là một chỉ tiêu tổng hợp và quan trọng nhất
để quyết định có đầu tư hay không. Kết quả cuối cùng của một dự án đầu tư phải

là hiệu quả kinh tế, nó là điều kiện quyết định đến khả năng thu hồi vốn và lãi
của ngân hàng.
Trên cơ sở đó ngân hàng mới quyết định cho vay hay không
* Trong khi cho vay: cần phải thẩm định kịp thời, chính xác kế hoạch,
phương án vay vốn của doanh nghịêp khi cho vay:
+ Đối chiếu với những quy định hiện hành để đưa ra lời nhận xét và
hướng giải quyết khi cho vay
+ Đưa ra quyết định đúng đắn, kịp thời khi cho vay
* Sau khi cho vay: sau khi phát tiền vay từ 5 đến 10 ngày, cán bộ tín
dụng, người trực tiếp quản lý món vay, phải trực tiếp đến tận đơn vị vay vốn để
kiểm tra việc sử dụng vốn có đúng mục đích hay không; kịp thời nắm bắt tình
hình, phát hiện những vướng mắc, khó khăn để có biện pháp xử lý kịp thời. Mặt
khác phải thường xuyên kiểm tra các đảm bảo nợ vay, khả năng hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, theo dõi các khế ước nợ, đôn đốc doanh nghiệp trả nợ
gốc và lãi đúng với các điều khoản trong hợp đồng tín dụng.
Trong quá trình kiểm tra, cán bộ tín dụng báo cáo kịp thời tình hình thực
tế cho trưởng phòng và giám đốc biết. Khi doanh nghiệp vay vốn không thực
hiện đúng như hợp đồng đã ký kết thì phải lập biên bản và đề xuất biện pháp
giải quyết. Biện pháp này có thể là không tiếp tục cho vay, thu hồi nợ trước hạn,
chuyển sang nợ quá hạn hoặc là khởi kiện đến cơ quan có thẩm quyền.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
2.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI:
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của NH TMCP Quân Đội
Ngân hàng TMCP QĐ được thành lập năm 1994 và chính thức đi vào
hoạt động ngày 4/11/1994 theo giấy phép số 0054/NH-GP của NHNN VN với
số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng. Thị trường truyền thống của NH là các doanh
nghiệp (DN) vừa và nhỏ trong đó chủ yếu là các DN Quân Đội. Cùng với quá

trình phát triển kinh tế của đất nước, với đường lối chính sách đúng đắn, NH
TMCP QĐ đã gặt hái được nhiều thành công, không chỉ đáp ứng nhu cầu của thị
trường truyền thống mà còn phục vụ có hiệu quả tất cả các thành phần kinh tế.
Qua 10 năm phát triển NH TMCP QĐ đã đạt được nhiều bước tiến vượt bậc trên
tất cả các lĩnh vực và là ngân hàng luôn được NHNN xếp hạng A với số điểm từ
92-98 điểm/100 điểm.
Mức vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng, đến 30/10/2004 NH đã tăng vốn
điều lệ lên 330 tỷ và vốn chủ sở hữu là 398,4 tỷ, tăng 19,9 lần so với năm 1994
góp phần tăng năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Với các hình thức sản phẩm dịch vụ huy động vốn đa dạng phong phú,
đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng, lượng huy động vốn từ dân cư của NH ngày
càng tăng, lượng huy động vốn trên thị trường liên NH ngày càng giảm. Cơ cấu
và loại hình cho vay của NH cũng ngày càng đa dạng. Lợi nhuận trước thuế (đã
trích lập rủi ro) năm 2003 của NH TMCP QĐ là 72,46 tỷ, tăng 17,15% so với
năm 2002. Riêng 10 tháng đầu năm 2004, mức lợi nhuận trước thuế của NH là
91,208 tỷ, hoàn thành xuất sắc (vượt gần 10%) kế hoạch đã được Đại hội đồng
cổ đông thông qua. Dự kiến cuối năm 2004 lợi nhuận trước thuế của NH là 103
tỷ, tăng 42,14% so với năm 2003.
20
Với định hướng không chỉ khai thác thị trường truyền thống mà còn mở
rộng ra một số thị trường trọng điểm khác, từ chỗ chỉ có một trụ sở chính khi
thành lập tính đến ngày 1/11/2004 mạng lưới của NH TMCP Quân Đội đã phát
triển lên 15 chi nhánh và phòng giao dịch, 2 công ty trực thuộc là Công ty chứng
khoán Thăng Long (TSC) và Công ty quản lý nợ & khai thác tài sản (MBAMC).
Mạng lưới các Ngân hàng đại lý cũng được NH mở rộng ra trên khắp châu lục
với hơn 300 ngân hàng trên 70 quốc gia.
Ngoài việc mở rộng mạng lưới hoạt động, NH TMCP QĐ còn tham gia
góp vốn vào nhiều công ty, đồng thời tích cực xây dựng mối quan hệ với các đối
tác chiến lược. Số cổ đông của NH từ chỗ chỉ có 4 cổ đông khi thành lập tính
đến 31/10/1004 tổng số cổ đông là 674 cổ đông, trong đó cổ đông thể nhân nắm

giữ 47,15% vốn điều lệ, cổ đông pháp nhân nắm giữ 52,85%, cổ tức bình quân
của các cổ đông đạt 15-20%/năm.
Về phát triển nguồn nhân lực: khi thành lập số cán bộ nhân viên của ngân
hàng chỉ 25 người thì tính đến 1/11/2004 số đó đã tăng 12 lần, với tổng số là 302
người. Trong đó 80% tốt nghiệp các trường đại học trong và ngoài nước thuộc
nhiều chuyên ngành, được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ, ngoại ngữ và vi tính
đóng góp một phần quan trọng trong sự phát triển của NH TMCP Quân Đội.
2.1.2 Các hoạt động của ngân hàng TMCP Quân Đội
Với phương châm luôn mang lại những sản phẩm dịch vụ tiện ích đáp ứng
tốt nhất nhu cầu khách hàng, NH Quân Đội đã không ngừng nâng cao chất
lượng những sản phẩm dịch vụ hiện có cũng như nghiên cứu và phát triển các
sản phẩm dịch vụ mới. Một số hoạt động của NH bao gồm:
- Huy động vốn từ các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư: các sản phẩm
huy động vốn của ngân hàng rất đa dạng gồm tiết kiệm và tài khoản tiền gửi cá
nhân và doanh nghiệp. Ngoài ra NH QĐ còn nhận vốn ủy thác đầu tư của các tổ
chức và cá nhân trong và ngoài nước.
21
- Họat động tín dụng- bảo lãnh: NH cung cấp cho khách hàng một dòng
sản phẩm tín dụng rất đa dạng và phong phú bao gồm: cho vay vốn ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn bằng đồng VN và ngoại tệ phục vụ sản xuất kinh doanh,
dịch vụ tài trợ, đồng tài trợ cho các dự án,... Dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng
gồm bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu,...
- Thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu: với mạng lưới gần 300 ngân
hàng đại lý ở gần 70 nước trên toàn thế giới, NH TMCP QĐ cung cấp một cách
nhanh chóng và an toàn cho các khách hàng những sản phẩm dịch vụ theo tiêu
chuẩn quốc tế.
- Thẻ ngân hàng: nhằm nâng cao hơn nữa dịch vụ tiện ích cho khách
hàng, năm 2004 ngân hàng đã triển khai dịch vụ thẻ ATM Active plus cho khách
hàng. Thẻ mang lại cho khách hàng những tính năng ưu việt hơn hẳn những sản
phẩm thẻ của các ngân hàng khác như cung cấp cho chủ thẻ dịch vụ bảo hiểm cá

nhân, khách hàng có thể thực hiện giao dịch tại tất cả những điểm chấp nhận thẻ
củaNH QĐ và hệ thống ATM của VCB trên toàn quốc.
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ: là lĩnh vực khá mạnh của NH. Với đội
ngũ cán bộ chuyên nghiệp và hệ thống hỗ trợ hiện đại, NH TMCP QĐ có thể
đáp ứng tốt nhu cầu ngoại tệ của khách hàng với mức giá cả cạnh tranh hợp lý,
với thủ tục nhanh chóng thuận tiện. Ngoài ra, NH còn có thể tư vấn cho khách
hàng để quản lý, phòng ngừa rủi ro và các hình thức kinh doanh phù hợp có lợi.
- Các dịch vụ khác: ngoài các sản phẩm trên, NH Quân Đội còn cung cấp
cho khách hàng nhiều dịch vụ khác như: dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ ngân
quỹ, chi trả lương hộ doanh nghiệp, chuyển tiền nhanh trong nước,...
2.2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG Ở NGÂN HÀNG TMCP
QUÂN ĐỘI
2.2.1 Hoạt động tín dụng của NH TMCP Quân Đội
2.2.1.1 Tình hình huy động vốn
22
Ngân hàng thương mại là mộ doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động trên lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ. Trong các hoạt động thì công tác tín dụng là một mảng
chủ yếu của ngân hàng, trong đó có cả hoạt động huy động vốn. Có thể nói,
quán triệt tư tưởng huy động vốn của Đảng và Nhà nước để phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế của đất nước, ngân hàng đã huy động vốn bằng nhiều hình
thức khác nhau như: tiền gửi của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế quốc
doanh và ngoài quốc doanh, tập thể. Ngân hàng đã đưa ra các cách thức khác
nhau như đa dạng các thời hạn và khung lãi suất với mục đích thu hút được
nhiều nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Với tinh thần, thái
độ tận tụy phục vụ khách hàng, đảm bảo vui lòng khách đến vừa lòng khách đi,
giải quyết thủ tục thuận lợi nhanh chóng, khách hàng gửi tiền vào và rút ra dễ
dàng, hạn chế tối đa những sai sót nhầm lẫn về mặt nghiệp vụ để đảm bảo ngày
càng có tín nhiệm với khách hàng từ đó ngân hàng đã tạo thế chủ động đi vay và
cho vay. Vì vậy trong những năm qua, công tác huy động vốn đã đạt được
những kết quả khả quan:

Bảng 1: Cơ cấu vốn huy động tại Ngân hàng Quân Đội:
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2001 2002 2003
- Vốn huy động 2548,97 3118,81 3485
+ Từ tổ chức kinh tế 1682,32 2089,6 2439,5
+ Từ dân cư 866,65 1029,21 1045,5
- Tốc độ tăng trưởng vốn huy
động
115% 122% 112%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo kiểm toán của NH TMCP Quân
Đội qua các năm)
Kết quả nêu trên cho thấy hoạt động kinh doanh của NH đã có bước tăng
trưởng ổn định, hoàn thành tốt kế hoạch hàng năm và đang có những biến
chuyển mạnh mẽ, đặc biệt năm 2003. Cụ thể:
23
Bình quân huy động vốn năm 2002 tăng so với năm 2001 và năm 2003
tăng so với năm 2002. Tỷ trọng vốn huy động của ngân hàng từ các tổ chức kinh
tế cao hơn tiền gửi dân cư. Tuy nhiên, bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ,
tăng cường chính sách khách hàng, tình hình tài chính lành mạnh cùng với uy tín
ngày càng tăng nên lượng vốn huy động từ dân cư của NH Quân Đội trong
những năm gần đây tăng nhanh mặc dù lãi suất huy động vốn không phải ở mức
cao nhất trong các ngân hàng cổ phần. Đây là một trong những nguồn vốn rẻ,
giúp ngân hàng giảm được chi phí huy động, có điều kiện cạnh tranh về mặt lãi
suất cho vay với các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh. Bên cạnh
việc huy động vốn rẻ, ngân hàng còn chú trọng nguồn vốn có thời hạn dài bằng
cách huy động với lãi suất linh hoạt và có nhiều kỳ hạn hợp lý để ngân hàng có
nguồn vốn ổn định phục vụ khách hàng, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của
khách hàng.
2.2.1.2 Tình hình sử dụng vốn
Hiện nay, nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các

NHTM Việt Nam nói chung, và của NH Quân Đội nói riêng. Doanh thu và lợi
nhuận từ họat động này mang lại luôn chiếm tỷ lệ cao, trên 80%. Đây sẽ là mảng
họat động rất được ngân hàng chú trọng đầu tư cả về thị trường sản phẩm và
chất lượng kinh doanh, ngân hàng luôn thực hiện cho vay với 3 mục tiêu cơ bản:
hiệu quả, an toàn và phát triển.
Nhờ làm tốt công tác huy động vốn, ngân hàng đã tích cực nhanh chóng
đa dạng hóa các mặt nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng trong đó trọng
tâm là công tác tín dụng. Với mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng, thủ tục
nhanh gọn, thẩm định đúng quy trình tín dụng của ngân hàng, đáp ứng vốn kịp
thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống, đầu tư và phát triển.
Chấp hành nghiêm túc cơ chế tín dụng trong đó coi trọng chất lượng tín dụng là
nhiệm vụ hàng đầu. Vì vậy, mặc dù tốc độ tăng trưởng dư nợ hàng năm của NH
Quân Đội không cao nhưng nhờ có chất lượng tín dụng tốt, quy trình quy chế
24
chặt chẽ, nên tỷ lệ nợ quá hạn luôn ở mức thấp, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận và
hiệu quả kinh doanh.
25

×