Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 64 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Lời mở đầu.
Vấn đề quyền con người là một vấn đề lớn của toàn nhân loại. Chính vì
lẽ đó mà cộng đồng quốc tế nói chung và mỗi quốc gia nói riêng cần có
những quy định và những cam kết về quyền con người. Để thực hiện đầy đủ
các cam kết này, các quốc gia đều phải tăng cường việc tổ chức và bảo đảm
việc thực hiện quyền con người một cách quy củ. Bên cạnh đó cần chú trọng
việc giáo dục cho các tổ chức và đặc biệt là các cá nhân hiểu rõ và tích cực
thực hiện quyền con người.
“Văn hóa quyền con người có được sức mạnh lớn nhất từ những mong
muốn và hiểu biết của mỗi cá nhân. Trách nhiệm bảo vệ quyền con người là
thuộc về các Nhà nước. Nhưng chính những hiểu biết, tôn trọng và mong
muốn về quyền con người của mỗi cá nhân là điều mang lại kết cấu và sức
bật hàng ngày cho quyền con người.”
Sérgio Vieira De Mello
( Cao ủy quyền con người Liên Hợp Quốc, 2003).
Là thành viên tích cực của các công ước quốc tế về quyền con người,
Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực để thực hiện các cam kết của mình. Trong
những năm qua, việc tổ chức truyên truyền về quyền con người ở Việt Nam
cũng đã dần khởi sắc. Tuy vậy, vấn đề quyền con người ở Việt Nam hiện nay
vẫn còn nhiều rối ren. Công tác quản lý việc bảo đảm thực hiện quyền con
người diễn ra lỏng lẻo và chưa sâu xát.
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản
và thực tiễn quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra
những hướng giải quyết cụ thể nhằm đưa vấn đề quyền con người ở Việt Nam
lên một tầm cao mới, tốt đẹp và hiệu quả hơn.
1
1. Lý do chọn đề tài.
Trong xã hội hiện đại, khi khái niệm quyền con người được nhận thức
như một giá trị chung của nhân loại thì cùng với đó, hầu như tất cả các quốc


gia đều đã dần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc bảo đảm và
bảo vệ quyền con người. Nếu như hoạt động quản lý dân cư là nội dung quan
trọng hàng đầu trong tổng thể hoạt xã hội dân chủ thì việc bảo đảm và bảo vệ
quyền con người, với các lợi ích, giá trị tiềm tàng của nó, được coi là mắt
khâu nằm ở vị trí trung tâm của hoạt động xây dựng xã hội.
Bảo đảm và bảo vệ quyền con người là hoạt động áp dụng pháp luật
trong việc quản lý, ghi nhận và xử lý các hành vi xâm phạm quyền con người
của các chủ thể quản lý xã hội và đặc biệt là của các cơ quan chuyên trách
trên Thế giới cũng như trong hệ thống quản lý của các quốc gia, đây chính là
vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đối với chính quyền các
cấp, bảo đảm và bảo vệ quyền con người được khẳng định là nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về nhân quyền,
trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình,
đồng thời góp phần xây dựng các chính sách kinh tế, xã hội, an ninh quốc
phòng và dân số, Ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, vấn đề quyền con
người đã được Liên Hiệp Quốc cũng như các cơ quan có thẩm quyền khẳng
định và tổ chức lại trong các Công ước, đạo luật, bộ luật, Đặc biệt tại các
bản Hiến pháp, nhân quyền được khẳng định là quyền cơ bản nhất của con
người. Tại Việt Nam, ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, thuật ngữ
“quyền con người” đã chính thức được hợp pháp hóa trong Tuyên ngôn độc
lập năm 1945 và Hiến pháp 1946. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986), công cuộc đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam lại một lần nữa làm
thay đổi nhận thức về vấn đề bảo vệ quyền con người. Hiến pháp năm 1992
được ban hành, sửa đổi, bổ sung một số điều đã khẳng định cơ sở pháp lý
vững chắc cho việc bảo đảm quyền con người trong mọi lĩnh vực với sự giám
2
sát chặt chẽ của lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân. Sự nghiệp bảo vệ
quyền con người đã trở thành ý chí thống nhất của toàn Đảng, toàn dân.
Trên tinh thần đó, trong thời gian qua các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền của Trung ương cũng như các địa phương đã thực hiện rất hiệu quả

công tác bảo đảm và bảo vệ quyền con người, áp dụng pháp luật về các vấn
đề liên quan tới nhân quyền của các nhà quản lý, các nhà làm luật cũng như
của người dân đã dần đi vào nề nếp, đúng pháp luật. Tuy nhiên Việt Nam vẫn
là một quốc gia chủ yếu sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh doanh, thương
mại, dịc vụ còn chưa phát triển mạnh. Đồng thời, lãnh thổ Việt Nam tập trung
nhiều thành phần dân cư, trình độ dân trí không đồng đều nên công tác tuyên
truyền giáo dục ý thức pháp luật nhất là pháp luật về việc bảo đảm và bảo vệ
quyền con người còn gặp nhiều khó khăn… Chính vì vậy, khái niệm về nhân
quyền ở Việt Nam vẫn còn mờ nhạt. Để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu thực
tiễn của hoạt động áp dụng pháp luật trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con
người, đồng thời, nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động này từ phía
các cơ quan có thẩm quyền ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân, tổ chức tạo cơ
sở xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội cũng như tìm kiếm những giải pháp hữu
ích nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật việc thực hiện quyền con người trong
thời gian tới, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Vai trò của pháp luật trong việc
bảo đảm và bảo vệ quyền con người” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu: Tiểu luận làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền
con người trên thế giới và tại Việt Nam hiện nay. Tìm ra các giải pháp cơ bản
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề nhân quyền.
3.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
- Đề tài: “Vai trò của pháp luật đối với việc bảo về và bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam hiện nay” không phải là một đề tài mới. Trên thực tế,
3
đã có một số các tài liệu đề cập đến vấn đề này nhưng chủ yếu các tác giả đều
tập trung vào việc nghiên cứu các vấn đề lý thuyết chứ ít đi vào thực tế khách
quan trên từng địa phương có cư dân sinh sống, đặc biệt là các khu vực vùng
sâu vùng xa.
4. Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận:
Với khuôn khổ của tiểu luận tác giả đề cập: Hoạt động áp dụng pháp

luật trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay, rút
ra những bài học cần thiết.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vấn đề vai trò của
Nhà nước trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người.
- Điều tra, khảo sát thực tế. Thu thập thông tin, phân tích số liệu, tổng
hợp, so sánh, gặp gỡ trao đổi, học hỏi kiến thức từ những người đi trước
trong vấn đề này.
6. Kết cấu tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, nội dung và kết luận, tiểu luận còn có phụ lục và
danh mục tài liệu tham khảo.
4
B. NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của pháp luật đối với
việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người
1. Khái niệm và phân loại quyền con người.
1.1. Khái niệm quyền con người.
1.1.1. Quan niệm về con người.
Vấn đề con người là vấn đề đã được đặt ra từ rất sớm và cũng là vấn đề
quan trọng nhất của Thế giới từ trước đến nay. Không những thế trong nhiều
đề tài khoa học của xã hội từ xưa đến nay thì đề tài con người là một trung
tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học,
sinh học, y học, triết học, xã hội học.v.v Từ rất sớm trong lịch sử đã quan
tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên
cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học đều tự hỏi: Thực chất con
người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó thì buộc họ phải giải quyết hàng
loạt mâu thuẫn trong chính con người.
Để có được quan niệm khoa học về con người trong thời đại lịch sử đã
từng tiếp cận vấn đề con người bằng những phương pháp khác nhau:

a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm “Con người” là một thực thể linh hồn,
cái giá trị lớn nhất ở con người là phần hồn, phần hồn là cái sống mãi, cái
vĩnh hằng, còn phần xác chỉ là cái gì ngắn ngủi thoảng qua, nó rồi cũng nhanh
chóng ra đi - trở về với đất mẹ. Quan niệm duy tâm về con người đã ảnh
hưởng đến một bộ phận không nhỏ, khiến họ khước từ cuộc sống hiện thực,
một cuộc sống phải sản xuất, đấu tranh để tồn tại vì hạnh phúc con người, để
hướng về một thế giới hư vô, phó thác cuộc đời cho số phận.
5
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình:
Chủ nghĩa duy vật siêu hình quan niệm “Con người” là một sinh vật,
cái giá trị nhất ở con người là cái sinh vật, bản chất người là bản chất sinh vật.
Còn những cái như tình cảm, ước mơ, hoài bão chỉ là thứ trừu tượng, mơ
hồ không có giá trị hiện thực. Với quan niệm coi bản chất con người là sinh
vật, chủ nghĩa duy vật siêu hình về con người đẩy tới việc giải quyết vấn đề
con người chỉ là sự thỏa mãn về nhu cầu vật chất, nhu cầu sinh vật của con
người, kích thích con người lao vào cuộc sống vật chất tầm thường, đẩy một
bộ phận người chạy theo lối "sống gấp" - lối sống theo nhịp điệu hối hả, sống
tranh thủ, gấp gáp, sống nhanh lên sống vượt lên thời gian, vượt ra không
gian, sống ích kỷ, sống chỉ biết mình, không biết đến đồng loại
Cả hai cách tiếp cận trên về con người đều dẫn đến chủ nghĩa cực đoan
về con người: Họ đã từ tuyệt đối hóa đến thần bí hóa mặt tinh thần của con
người, hạ thấp mặt sinh vật (phần xác) và ngược lại.
Theo chúng tôi, con người là một thể thống nhất giữa mặt vật chất và
mặt tinh thần, bao gồm cả phần hồn và phần xác.
1.1.2 Quan niệm về quyền con người.
Như đã nói ở trên, quyền con người là một khái niệm đã xuất hiện từ rất
lâu trên Thế giới. Tuy nhiên phải sau Chiến tranh thế giới thứ 2, khi 48 quốc
gia với thành viên Liên Hợp Quốc đã nhất trí thông qua Tuyên ngôn Thế giới
về nhân quyền, khái niệm quyền con người mới được chính thức hợp pháp

hóa và trở nên phổ biến trong các văn bản chính trị cũng như trong các văn
bản quy phạm pháp luật khác như: Luật nhân quyền Quốc tế (International
Human Rights Law - Tên gọi chung cho 3 văn kiện nhân quyền Quốc tế do
Liên Hợp Quốc soạn thảo bao gồm: Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền
(10/12/1948), Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), với
hai nghị định thư đính kèm và Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã
hội và Văn hóa), Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (4/7/1776), Tuyên ngôn
6
nhân quyền và dân quyền của Pháp (26/8/1789), Nói cách khác, quyền con
người đã phát sinh, tồn tại và phát triển qua rất nhiều thời kì thăng trầm khác
nhau của xã hội loài người. Chính vì lẽ đó vấn đề quyền con người đã được
các nhà tư tưởng đề cập từ rất sớm và nghiên cứu theo các phương hướng
khác nhau. Tổng kết các nhận định đó, hiện nay có thể phân chia thành bốn
khuynh hướng quyền con người :
1.1.2.1. Khuynh hướng “quyền tự nhiên”:
Khuynh hướng này quan điểm nhân quyền có nguồn gốc tự nhiên.
Những tư tưởng về quyền “tự nhiên”, “trời phú” cho con người ngay từ khi
con người xuất hiện đã có từ thời cổ đại. Các nhà tư tưởng tiêu biểu cho
khuynh hướng này là Zeno (333-246 TCN), Thomas Hobbes, Thomas Paine
(1731-1809), cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh vốn có mà
mọi cá nhân đều được hưởng chỉ đơn giản vì họ là thành viên của gia đình và
nhân loại. Các quyền có thể kể đến ở đây như là quyền được sống, quyền
được tự do, được mưu cầu hạnh phúc,…Ở Trung Quốc, Mặc Tử (479-381
TCN) đã cho rằng quyền bình đẳng tự nhiên của con người đó là “ý trời”.
Theo đó, mỗi người đều có quyền tham gia công việc của nhà nước tuỳ theo
đạo đức và tài năng của họ, chứ không phải do dòng dõi quyết định. Cũng
như vậy, mỗi người đều có các quyền giống nhau và đều bị trừng phạt nếu
phạm tội. Ở Hy lạp cổ đại, các nhà triết học nguỵ biện như Ăngtiphôn,
Ankiđan cũng có những tư tưởng tương tự. Ở châu Âu, kể từ thời Phục hưng
trở đi, tư tưởng về quyền tự nhiên ngày càng trở nên phổ biến. Những đại biểu

xuất sắc là Lôccơ (Anh), Rútxô (Pháp), Xpinôda (Hà lan), I. Can tơ,
Pruphenđóocphơ (Đức), Jepphécxơn (Mỹ)… Những điều viết về quyền con
người trong Hiến pháp 1791 của Pháp, Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ đều
theo quan điểm quyền tự nhiên. Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý
nghĩa phản kháng. Nó là tư tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự
xã hội bất công, bất bình đẳng (xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến
7
sau này). Vì thế, không chỉ trong quá khứ, mà cả ngày nay thuyết này vẫn có
ý nghĩa nhất định. Như vậy, theo quan điểm này thì: “Các quyền con người
không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của
bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay Nhà nước nào; và
không một chủ thể nào có thể ban phát hay hủy bỏ những quyền này”.
Thuyết quyền tự nhiên có điểm tích cực là đề cao con người với tư cách
là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển tự nhiên. Nhưng nhược
điểm của nó là ở chỗ, nó che lấp nguồn gốc xã hội của quyền con người và do
đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển trong những đòi hỏi về
quyền con người.
Trong Tuyên ngôn độc lập của nước CHXHCN Việt Nam năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã một lần nữa khẳng định: “Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc.”
1.1.2.2. Khuynh hướng ‘thực định”:
Trái với khuynh hướng quyền tự nhiên, khuynh hướng thực định lại coi
quyền con người có nguồn gốc pháp lý. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là
các nhà nghiên cứu Edmund Burke (1729 - 1797), Jeremy Bentham (1748 -
1832), lại cho rằng các quyền con người không phải là những gì bẩm sinh
vốn có một cách tự nhiên mà phải do các Nhà nước qui định trong pháp luật.
Chỉ những gì pháp luật quy định và dùng để điều chỉnh những hành vi hay
quan hệ xã hội của con người cho phép con người làm hay không làm thì mới

là quyền con người, và chỉ được coi là quyền con người khi một hành vi hay
một yêu cầu của cá nhân là hợp pháp.
Khuynh hướng thực định có điểm hợp lý là đã gắn quyền con người với
pháp luật, với ý chí của Nhà nước. Thông qua đó, việc duy trì, bảo đảm và
bảo vệ quyền con người sẽ được diễn ra thuận lợi hơn dưới sự quản lý của
Nhà nước.
8
Tuy nhiên, khuynh hướng này cũng có nhược điểm đó là nó coi ý chí
Nhà nước là nguồn gốc của quyền con người, coi trọng tính hợp pháp của
quyền, song lại không để ý đến tính hợp lý của nó, – cái mà nhờ đó, ngay cả
những đòi hỏi, những nhu cầu hợp lý cho cuộc sống (nhưng chưa được pháp
luật ghi nhận) cũng phải được coi là quyền con người. Do đó, không thể coi
quyền con người chỉ là cái được phép làm, được hưởng theo pháp luật, mà
còn cả cái đáng được làm, đáng được hưởng (những cái chưa được pháp luật
khẳng định, nhưng sẽ phải khẳng định).
1.1.2.3. Khuynh hướng “kinh tế”:
Nghiên cứu theo hướng này, các nhà khoa học coi quyền con người là
những quyền nảy sinh từ nhu cầu của sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác,
khuynh hướng này nhận định nguồn gốc của quyền con người là kinh tế.
Không phải “trời phú” tự nhiên, cũng không phải do nhà nước ban phát, mà
chính đời sống kinh tế của con người đã tạo nên và trao cho con người các
quyền. Tác giả người Trung Quốc - Từ Sùng Ôn đã viết: “nhân quyền, suy
cho cùng bắt nguồn từ điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích cơ bản của
một giai cấp nhất định”.
Khuynh hướng kinh tế có điểm hợp lý ở chỗ, nó cho thấy nguồn gốc của
quyền con người là bản thân đời sống xã hội của con người. Nó tước bỏ cái
vỏ “thần thánh”, “tự nhiên”, không giải thích được của quyền con người, trả
quyền con người về với đời sống thực tại của con người. Theo khuynh hướng
này, có thể dẫn ta đến quan điểm duy vật lịch sử về vấn đề quyền con người.
Nó cũng cho thấy tính giai cấp trong những đòi hỏi về quyền con người.

Tuy vậy, nếu coi quyền con người chỉ có nguồn gốc kinh tế thì vẫn chưa
thực sự đầy đủ và sâu sắc. Quyền con người còn bao hàm những yêu cầu về
danh dự, nhân phẩm, về đời sống tinh thần, tình cảm của con người…, nghĩa
là những điều ít nhiều có liên hệ với phạm trù kinh tế nhưng nó vẫ nằm ngoài
nằm ngoài phạm trù này.
9
1.1.2.4. Khuynh hướng “quan niệm”:
Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này lại cho rằng quyền con
người là tất cả những gì mà con người cho là cần thiết và có giá trị đối với
cuộc sống của chính bản thân mỗi con người. Như vậy có nghĩa là quyền lợi,
nhu cầu, lợi ích và những giá trị tinh thần đều có thể trở thành quyền con
người nếu như người ta quan niệm như vậy.
Đề cập tới mặt chủ quan, khía cạnh giá trị của quyền con người là điều
cần thiết. Bởi, khác với các quan hệ xã hội hiện thực luôn hiện ra trước nhận
thức con người như cái gì đó độc lập, khách quan không tuỳ thuộc vào quan
niệm có trước, quyền con người trước khi trở thành hiện thực, thành nguyên
tắc mà quan hệ giữa người với người, giữa nhà nước và cá nhân phải tuân
theo, phải trở thành quan niệm của chính con người, nghĩa là được con người
coi là cái thiết yếu, cái cần phải như vậy – cần cho sự tồn tại, sự phát triển
toàn diện của con người không chỉ về đời sống vật chất và cả về đời sống tinh
thần nữa. Trong thực tế, quyền con người luôn gắn với quan niệm chủ quan,
với các giá tự như vậy, cho nên, một mặt, chúng ta phải thừa nhận những
quan niệm mang tính dân tộc về quyền con người, và mặt khác , nhiều khi
chúng ta phải đối mặt với tình trạng là đôi khi nhân danh quyền con người,
các cá nhân, các nhóm người, vì lợi ích riêng của mình đã đưa ra những đòi
hỏi vô lý, trái với lợi ích chung của cả cộng đồng người. Do đó, vấn đề quyền
con người thường trở thành vấn đề gây tranh cãi trên trường quốc tế, nhất là
khi nó được lồng vào một động cơ chính trị nào đó.
Tuy vậy, không có quan điểm, khuynh hướng nào có đủ khả năng phủ
nhận hoàn toàn các khuynh hướng khác bởi lẽ về hình thức, hầu hết các văn

kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện các quyền con người thông qua
các quyền pháp lí; nhưng trong Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền năm
1948 và một số văn kiện pháp luật, văn kiện chính trị pháp lí ở một số quốc
gia thì nhân quyền lại được khẳng định rõ ràng là các quyền tự nhiên, vốn có
và không thể chuyển nhượng được của các cá nhân.
10
Tóm lại, quyền con người là vấn đề phức tạp đa nghĩa, chứa đựng những
mặt đối lập, mâu thuẫn, nhưng không loại trừ nhau. Đó là các mặt khách quan
và chủ quan, tự nhiên và xã hội, kinh tế và tinh thần, văn hoá và chính trị, đạo
lý và luật pháp. Nó cũng là sự kết hợp giữa các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai
cấp và nhân loại, v.v… Khi xem xét quyền con người, chúng ta phải phân biệt
rõ bản chất và hiện tượng nội dung và hình thức, nguồn gốc và sự phát triển
của nó.
Xuất phát từ tất cả những khía cạnh đó, có thể nói rằng quyền con người
chẳng qua là sự tự ý thức của con người về những giá trị, những nhu cầu sống
cơ bản, phù hợp với trình độ phát triển mang tính thời đại của xã hội loài
người.
Ngày nay quyền con người được coi là một khái niệm mang tính toàn
cầu, ở bất kì một quốc gia nào trên Thế giới ít nhiều cũng tồn tại khái niệm
này. Việc phổ biến khái niệm này cũng là một quy luật tất yếu của xã hội khi
Thế giới ngày một phát triển mạnh mẽ và vai trò của con người ngày càng
được khẳng định. Có thể quan niệm rằng:
“Quyền con người là khả năng con người được tiến hành những xử
sự theo những cách thức nhất định phù hợp với những chuẩn mực xã hội,
được thừa nhận bởi cộng đồng quốc gia, quốc tế”.
1.2. Phân loại quyền con người.
Quyền con người là một phạm trù lớn, nó bao trùm lên rất nhiều các vấn
đề, lĩnh vực khác nhau trong xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp
luật, Tùy từng lĩnh vực nó lại có mức độ và cách thức ảnh hưởng khác nhau
nhưng mục đích duy nhất mà nó mang lại là sự bình đẳng trong các lĩnh vực

có sự xuất hiện của nó.
a. Trong lĩnh vực chính trị.
Trước tiên, chúng ta phải hiểu chính trị theo nghĩa: “Chính trị là một
lĩnh vực hoạt động rộng lớn và hết sức quan trọng, nó quyết định vận mệnh
11
của đất nước và sự phát triển của xã hội và con người. Trình độ xử lý các tình
huống chính trị một cách khoa học và nghệ thuật không chỉ đem lại sự độc lập
và ổn định chính trị mà còn là điều kiện cho việc phát triển kinh tế - văn hóa -
xã hội, phát triển con người, xây dựng và phát triển đất nước. Bản chất chính
trị, lý tưởng chính trị, trình độ hoạt động chính trị hướng tới một xã hội nhân
đạo, nhân văn, tất cả vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội và con người, nói
lên văn hóa chính trị của một nền chính trị”
1
.
Sau khi hiểu rõ được bản chất của Chính trị, chúng ta có thể dễ dàng
thấy được vị thế của con người ẩn chứa trong đó. Từ xưa đến nay, bất kỳ một
Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển bền vững đều phải dựa vào lòng tin
và công sức của nhân dân. Chính cái đó là nền tảng vững chắc cho sự tồn
vong của bất cứ quốc gia nào. Muốn được như vậy thì tất cả các diễn biến
Chính trị trong nước người dân đều phải được nắm rõ và phải có quyền được
tham gia đóng góp ý kiến.
Ở các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Nhật, việc trưng cầu ý dân
trong hoạt động Chính trị là rất phổ biến và mang tầm quan trọng cao. Bất cứ
việc gì liên quan đến sự tồn vong và phát triển của quốc gia đều được Chính
phủ quyết định theo nguyện vọng của nhân dân. Công việc đó đã tạo lối mòn
trong việc quản lý đất nước và dần đưa các quốc gia này tiến tới nền dân chủ
cao, ổn định.
Tại Việt Nam, xưa, Nguyễn Trãi đã từng viết: “ Chèo thuyền cũng là
dân, lật thuyền cũng là dân”. Cho đến hiện nay, trong các Nhà nước, đặc biệt
là các Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, con người luôn được đưa lên tầm cao nhất.

Năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, trong “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh
ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định lại
tính chất câu nói của Tổng thống Lincoln: “Nhà nước XHCN là một Nhà
1
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, (Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hoá, chính trị, truyền thống của
Việt Nam
12
nước của dân, do dân và vì dân”. Điều này cho thấy yếu tố Chính trị từ xưa
cũng đã mang trong trong mình dấu vết của quyền con người.
Trong lĩnh vực này, quyền con người được ghi nhận đặc biệt rõ ràng
trong văn kiện quốc tế như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(1966). Ngoài ra, quyền con người còn được thừa nhận trong các bản Tuyên
ngôn độc lập và Hiến pháp của các quốc gia.
Một số quyền cơ bản được pháp luật ghi nhận như: quyền bầu cử, quyền
tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, quyền bãi miễn các đại biểu do mình đã
bầu ra, quyền phúc quyết Hiến pháp và những việc liên quan đến vận mệnh
quốc gia, Quyền tự do hội họp một cách hòa bình,
Các quyền kể trên đã cho thấy sự ảnh hưởng ngày càng sâu sắc theo thời
gian của quyền con người trong lĩnh vực Chính trị. Cho đến ngày nay, những
quyền cơ bản ấy vẫn còn giữ nguyên giá trị như khi chúng được lập ra biểu
hiện thông qua các kỳ ứng cử, bầu cử; các hoạt động giám sát công việc điều
hành của Nhà nước,
b. Trong lĩnh vực dân sự - kinh tế.
Quyền con người trong dân sự là những hoạt động có thể làm của con
người nhằm bảo đảm và điều chỉnh các mối quan hệ nhân thân trong các
phạm trù dân sự, kinh tế, thương mại, lao động và hôn nhân gia đình.
Tại tổ chức Liên Hợp Quốc, vấn đề quyền con người trong dân sự được
coi là cốt lõi và được các tổ chức phi Chính phủ trực tiếp tiến hành hoạt động.
Các tổ chức này được phát triển dưới dạng “Lương tri toàn Thế giới”, họ
thường theo đuổi việc bảo vệ các lợi ích nhất định như “tự do biểu đạt, tự do

thông tin” hoặc ngăn cấm tra tấn hay các hình thức đối xử tàn bạo, vô nhân
đạo, hạ nhục nhân phẩm người khác. Các tổ chức phi Chính phủ này hoạt
động theo một nguyên tắc nhất quán và có tầm ảnh hướng sâu sắc tới hoạt
động thực hiện quyền con người trên toàn Thế giới, như Hội liên hiệp quốc tế
Helsinki (IHF), Nhóm khủng hoảng quốc tế (ICG) hay Tổ chức quan sát nhân
13
quyền đã có ảnh hưởng đến các Chính phủ và cộng đồng quốc tế thông qua
các bản báo cáo có chất lượng nhờ có sự giám sát và tìm hiểu thực tế. Một
cách tiếp cận khác rất có hiệu quả của các tổ chức phi chính phủ là soạn thảo
“báo cáo bóng” song song với báo cáo chính thức của quốc gia tới các cơ
quan giám sát quốc tế về quyền con người. Theo Ủy ban an ninh con người :
“Các tổ chức xã hội dân sự giúp tăng cường tiếng nói cho những người không
có quyền lực về kinh tế và chính trị. Trong các chiến dịch theo chủ đề liên
quan đến thương mại, bạo lực với phụ nữ, quyền con người và vi phạm về
môi trường, có thể kể ra một số xã hội dân sự quốc tế đã thu hút sự chú ý của
thế giới về sự đe doạ tới an ninh con người. Các tổ chức phi chính phủ có thể
trao quyền và huy động các tổ chức xã hội dân sự trong nước họ thông qua
giáo dục, dựa trên các quyền nhằm củng cố sự tham gia của công dân vào quá
trình kinh tế, chính trị và bảo đảm rằng sự sắp xếp của các cơ quan đó là phù
hợp với nhu cầu của con người”.
2
.
Các quyền con người trong lĩnh vực dân sư, kinh tế bao gồm:
- Quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước
pháp luật.
- Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân.
- Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện.
- Quyền về xét xử công bằng.
- Quyền về tự do đi lại, cư trú.
- Quyền được bảo vệ đời tư.

- Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo.
- Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân.
- Quyền sở hữu tài sản.
- Quyền tự do buôn bán.
- Quyền tự do đầu tư.

2
An ninh con người, tháng 11/2003
14
Một yếu tố khác trong lĩnh vực này chính là kinh tế. Khi nhắc đến kinh
tế chúng ta sẽ nghĩ ngay đến một nền kinh tế hòa bình và phát triển ổn định.
Nhất là trong giai đoạn gần đây, khi hầu như các quốc gia đều đã gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), thì yếu tố bình đẳng và tự do trong kinh tế
lại phải là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất là một trong những điều kiện quan
trọng đảm bảo thực hiện quyền con người. Khi điều kiện kinh tế được nâng
cao thì con người cũng sẽ nghiễm nhiên được bảo đảm, đặc biệt đối với trẻ
em như: quyền được học tập, quyền được vui chơi, quyền được khám, chữa
bệnh, Nhưng muốn phát triển kinh tế thì đường lối chính sách, cơ chế phải
được cụ thể hóa trong pháp luật. Pháp luật sẽ tạo khuôn khổ môi trường pháp
lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phát huy được mọi
tiềm năng, hạn chế được các mặt tiêu cực. Các quyền kinh tế được chính phủ
các nước ghi nhận và điều chỉnh như: quyền được buôn bán, quyền được đầu
tư, quyền được bảo vệ thương hiệu, Những quyền này được quy định cụ thể
trong các bộ luật kinh tế như Luật thương mại, Luật doanh nghiệp, Luật hàng
hải, Dựa vào đó, khi có các vụ việc phát sinh, các cơ quan thụ lý cũng có
thể dễ dàng đưa ra phán quyết.
c. Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội.
Văn hóa - xã hội là một lĩnh vực mang tính bao quát rất lớn, nó gồm
nhiều các vấn đề và thậm chí là các lĩnh vực khác nhau trong đời sống. Vì vậy

việc nghiên cứu chuyên sâu quyền con người trong lĩnh vực này là công việc
hết sức phức tạp và tốn nhiều thời gian của các nhà nghiên cứu. Thực hiện
quyền con người trong giải quyết các vấn đề xã hội, một mặt, nhằm đảm bảo
tôn trọng và thực hiện các quyền dân sự, chính trị như: quyền hôn nhân và gia
đình; quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, và các quyền kinh tế xã hội cơ
bản của mọi công dân, bao gồm: quyền lao động việc làm; quyền có mức
sống thoả đáng; quyền được giáo dục; quyền được chăm sóc sức khoẻ; quyền
15
được tham gia vào đời sống văn hoá và được hưởng thụ các giá trị văn hoá,
tiến bộ của khoa học; quyền được hưởng an toàn xã hội, kể cả bảo hiểm xã
hội. Mặt khác, thực hiện các vấn đề xã hội là chú trọng quan tâm đến quyền
của những người có công với nước, trong đó đặc biệt phải kể đến những gia
đình thương binh, liệt sỹ; đồng thời, tạo cơ hội bình đẳng, hỗ trợ các nhóm
yếu thế trong xã hội tiếp cận và hưởng thụ quyền, đó là nhóm những người
sống ở vùng nông thôn nghèo; vùng dân tộc thiểu số; những người có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn như người già yếu, cô đơn, người nhiễm HIV/AIDS,
người khuyết tật, trong đó có người nhiễm chất độc da cam
d. Quyền con người trong lĩnh vực tự do dân chủ.
“ Cũng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa một quan hệ
mới giữa xã hội, nhà nước và cá nhân hình thành. Đó là quan hệ dựa trên sự
tôn trọng quyền tự do của con người, coi sự tự do của mỗi người là điều kiện
phát triển tự do cho tất cả mọi người”
3
. Phát triển tự do dân chủ là điều kiện
quan trọng nhất đối với việc bảo vệ quyền con người, đó cũng là yếu tố chủ
đạo trong vấn đề nhân quyền. Mỗi con người nắm được sự tự do của bản thân
sẽ có đủ năng lực để nhận biết và thực hiện quyền lợi của bản thân. Trong
lĩnh vực này, các quyền cơ bản được pháp luật ghi nhận như quyền tự do báo
chí, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do cư trú, Đây có thể được coi là lĩnh
vực rộng nhất trong nghiên cứu quyền con người, nó bao trùm một phần nào

đó các lĩnh vực còn lại. đem lại căn bản để nghiên cứu nhân quyền trong các
yếu tố khác.
2. Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người.
2.1. Pháp luật ghi nhận quyền con người trong các văn bản quy
phạm pháp luật.
Pháp luật thế giới trong giai đoạn phong kiến tuy vẫn còn tồn tại hình
thức khẩu truyền và tập quán pháp nhưng chủ yếu đã là pháp luật dưới dạng
3
Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB Công an Nhân dân
16
các văn bản. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan hoặc nhà
chức trách có thẩm quyền ban hành nên nó được sự bảo hộ của của Chính
quyền Nhà nước. Vì nó đã là các văn bản cụ thể nên những quy định và quy
tắc trong đó đều là những chuẩn mực chung và được tất cả mọi cá nhân trong
xã hội thừa nhận và chấp hành.
Quyền con người trong xã hội ngày nay được quy định rõ trong các văn
bản quy phạm pháp luật mà đầu tiên là phải nói đến các điều khoản trong các
Công ước quốc tế (Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền, Công ước quốc tế về
những quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hội - văn hóa, Công ước về quyền trẻ em, ), hay trong hệ thống pháp luật của
các quốc gia mà chủ yếu là trong Hiến pháp. Trong các văn bản này, quyền
con người được chính thức hợp pháp hóa và theo đó được công nhận là nội
dung cơ bản cần hướng tới của pháp luật.
Chúng ta có thể nêu ra một số quy định trong Tuyên ngôn quốc tế và các
Công ước như:
- Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền quy định:
Ðiều 1: Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm
và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế phải
đối xử với nhau trên tinh thần bác ái.
Ðiều 3: Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.

Ðiều 4: Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi. Chế độ nô lệ và
buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.
- Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên minh Châu Âu năm
2000 tuyên bố:
Điều 1: Nhân phẩm của con người là bất khả xâm phạm. Nó phải được
tôn trọng và bảo vệ.
Điều 2: Tất cả mọi người có quyền được sống, không ai có thể bị kết án
tử hình hoặc thi hành án tử hình.
17
- Trong “Lời mở đầu” - Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị có viết: “Xét rằng, chiếu theo những nguyên tắc công bố trong Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc, việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền
bình đẳng và bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình
nhân loại là nền móng của tự do, công lý và hoà bình thế giới.Nhìn nhận rằng
những quyền này xuất phát từ phẩm giá bẩm sinh của con người.Nhìn nhận
rằng, chiếu theo Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, lý tưởng về một con
người tự do được hành xử những quyền dân sự và chính trị cũng như được
giải phóng khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, chỉ có thể đạt được nếu hội đủ những
điều kiện thuận tiện để con người được hưởng những quyền dân sự và chính
trị cũng như những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Xét rằng nghiã vụ của
các quốc gia hội viên theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn
trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do của
con người.Nhận định rằng con người có nghiã vụ đối với những người khác
cũng như đối với cộng đồng, nên có trách nhiệm phải phát huy và tôn trọng
những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này”.
* Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị:
So với pháp luật thời phong kiến, pháp luật hiện đại đã dần thể hiện một
bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa các quyền con người, với việc
khẳng định khái niệm và sự tôn trọng các quyền con người cũng như bổ sung
một loạt các quyền và tự do mới trên tất cả các lĩnh vực. Xét trên lĩnh vực dân

sự, chính trị đã có 5 quyền quan trọng được ban hành mới hoặc bổ sung thêm,
bao gồm: quyền sở hữu tài sản (bao gồm cả tư liệu sản xuất); quyền tự do
kinh doanh; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo luật định;
quyền được thông tin theo luật định; quyền bình đẳng của các tôn giáo; quyền
không bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
18
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị của công dân, bên
cạnh Hiến pháp, hệ thống pháp luật thế giới trong giai đoạn phát triển hiện
nay cũng đã chú trọng xây dựng và hoàn thiện thêm một số bộ luật có liên
quan đến vấn đề này, ta có thể kể đến là Bộ luật hình sự Canada; Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam; Luật bình đẳng giới Việt Nam; Bộ luật dân sự
Anh; Luật quốc tịch Hàn Quốc; Luật bầu cử Hoa Kỳ;
Nội dung đảm bảo quyền dân sự - chính trị được thể hiện một cách cụ thể:
+ Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân: Bình đẳng
trong bầu cử, ứng cử, tự ứng cử; bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình và nhiều dạng quan hệ dân sự khác, đặc biệt là bình đẳng trong
hoạt động sản xuất – kinh doanh; trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục, khoa học
– công nghệ như quyền được học tập của công dân, quyền nghiên cứu, sáng
tạo, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu của mọi công dân được
thực hiện đầy đủ.
+ Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, cụ thể: ngăn ngừa
những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của
con người (trong đó kể cả những bị can, bị cáo và những phạm nhân đang thi
hành án phạt tù)…
+ Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác: Quyền tự do ngôn luận,
quyền tự do lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
* Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của người
dân trong giai đoạn mới, bên cạnh Hiến pháp, các Nhà nước đã ban hành

nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong đó có thể kể như Luật thương mại
thống nhất Mỹ; Luật tôn giáo Mỹ; Luật giáo dục Việt Nam; Luật báo chí
Anh; Luật đầu tư Campuchia; Luật lao động Canada;
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được cụ thể trong các
quyền tiêu biểu nhất:
19
+ Bảo đảm quyền làm việc: quyền làm việc được ghi nhận trong các bản
Hiến pháp và được Hiến pháp quy định. Như tại Việt Nam, Hiến pháp 1992
nêu rõ: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có
kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động” (Điều 55). Bên
cạnh đó, các Nhà nước cũng tập trung vào khía cạnh hỗ trợ các doanh nghiệp,
mở rộng hợp tác Quốc tế, đào tạo nghề và xuất khẩu lao động,
+ Bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục: Ngay từ khi Chiến tranh
thế giới thứ 2 kết thúc, chính phủ các quốc gia đã hết sức quan tâm đến quyền
được tiếp cận với giáo dục của nhân dân, xác định giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Đây là cơ sở tư tưởng cho việc hiện thực hóa quyền được tiếp cận với
giáo dục của nhân dân trong thời kỳ mới.
Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật các quốc gia đã cho ra đời các quy
định, luật, bộ luật bảo vệ quyền được học tập của công dân như Đạo luật tổ
chức giáo dục Hoa Kỳ, Luật giáo dục Việt Nam,
+ Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế: Từ khi đổi mới đến nay, cũng
giống như các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, có sự chuyển đổi về hướng tiếp
cận việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế từ chế độ bao cấp hoàn toàn của
Nhà nước sang hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đa dạng hóa các
loại hình dịch vụ y tế, thực hiện chế độ BHYT, tạo điều kiện để mọi người
dân được chăm sóc sức khỏe.
+ Quyền được bảo đảm xã hội: Thành công nổi bật nhất trong việc thực
hiện quyền được bảo đảm xã hội từ khi sau chiến tranh thế giới đến nay là
việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo – một chủ trường và quyết
sách lớn của các Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Xuất phát từ quan

điểm: Vấn đề nghèo khó không được giải quyết thì không có một mục tiêu
nào mà cộng đồng quốc tế, cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng kinh tế,
cải thiện đời sống, hòa bình, ổn định, bảo đảm các quyền con người được thực
hiện, Chính phủ các nước đã coi chương trình xóa đói giảm nghèo là một
20
trong các mục tiêu quốc gia và đã có những ưu tiên đặc biệt về nguồn nhân
lực, vật lực cho chương trình này.
2.2. Pháp luật quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền con
người.
Liên Hợp Quốc cũng như Chính phủ các quốc gia nhận định phát triển
quyền con người là vấn đề cốt lõi để nâng cao mọi mặt của đời sống xã hội,
nên trong quá trình xây dựng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Chính vì
vậy, các cơ quan chuyên trách đã tìm ra các biện pháp nhằm giúp cho công
tác này diễn ra dề dàng và trình tự hơn. Nhìn chung, pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia của các nhà nước đã quy định các biện pháp sau đây nhằm đảm
bảo cho quyền con người được thực hiện trên thực tế.
- Biện pháp tổ chức: Các quốc gia và các tổ chức quốc tế thiết lập ra các
cơ quan chuyên trách về vấn đề quyền con người:
+ Các tổ chức quốc tế:
• Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (GA): là trung tâm của sự phối hợp và tổ
chức các hoạt động duy trì, phát triển mọi vấn đề về quyền con người giữa các
nước thành viên của Liên Hợp Quốc. Đại hội đồng công bố về công ước quyền
con người ở nhiều lĩnh vực như lĩnh vực quốc tịch, các quyền của trẻ em,
quyền của phụ nữ, Ngoài ra, Đại hội đồng cũng giải quyết các vấn đề quyền
con người thuộc phạm trù chính trị, kinh tế an ninh và giải trừ quân bị. Đại hội
đồng có một số cơ quan trực thuộc như là các ủy ban, tổ chức liên quan đến
quyền tự do của con người.
• Ủy ban quyền con người (CHR): thành lập năm 1947, là cơ quan
chính của Liên Hợp Quốc về quyền con người, có thẩm quyền giải quyết
tất cả các vấn đề liên quan tới nhân quyền và nhiệm vụ chính của tổ chức

này là nghiên cứu, dự thảo các văn kiện của Liên Hợp Quốc, điều tra các
sai phạm về nhân quyền.
21
• Trung tâm quyền con người: là đầu mối của Liên Hợp Quốc trong lĩnh
vực nhân quyền với các hoạt động cung cấp dịch vụ văn phòng và trợ giúp cho
những cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu quyền con người.
• Hội đồng kinh tế xã hội và các ủy ban trực thuộc: hoạt động chính của
các cơ quan này là đưa ra các khuyến nghị nhằm thúc đẩy việc tôn trọng và
tuân thủ các quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người.
• Ủy ban vị thế của phụ nữ: được thành lập và bắt đầu hoạt động vào
năm 1946, có cách thức tổ chức và hoạt động giống Ủy ban quyền con người.
Các cơ quan, tổ chức trên là các cơ quan quan trọng nhất trong bộ máy
quản lý quyền con người của Liên Hợp Quốc, chúng tạo nên một khối liên kết
vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi và xuyên suốt cho quá trình xây dựng và
thực hiện pháp luật, đặc biệt là pháp luật về nhân quyền.
• Văn phòng cứu trợ nhân đạo cộng đồng châu Âu (ECHO): là nơi
cung cấp tài chính cho các hoạt động cứu trợ nhân đạo lớn nhất thế giới. Các
hoạt động của tổ chức này bao gồm việc đánh giá các nhu cầu nhân đạo ở các
khu vực dễ bị thiên tai, phân bổ các quỹ hàng hóa và dịch vụ như là thực
phẩm, nơi ở, các nhu cầu về y tế, các nguồn nước sạch, các hệ thống vệ sinh
và sửa chữa khẩn cấp, Cùng với đó là xây dựng các dự án phòng ngừa thảm
họa và giảm nhẹ nguy cơ ở các khu vực dễ xảy ra thiên tai.
• Liên đoàn chống phỉ báng (ADL): Bảo vệ các quyền nhân thân của
con người như quyền được giữ hình ảnh cá nhân, quyền được bảo vệ nhân
phẩm,
• Tổ chức ân xá quốc tế (AI): là một tổ chức phi chính phủ quốc tế,
hoạt động nhằm giải thoát tất cả tù nhân lương tâm; nhằm bảo đảm các tù
chính trị được xử công bằng và công khai; nhằm bãi bỏ án tử hình, tra tấn, và
các hình thức đối xử khác với tù nhân mà họ cho là tàn bạo; nhằm chấm dứt
các vụ ám sát chính trị và mất tích cưỡng bức; chống lại mọi sự vi phạm nhân

quyền, bất kể là do chính phủ hay tổ chức khác.
22
• Hội liên hiệp ngăn ngừa tra tân (APT): được xây dựng nhằm mục
đích bảo vệ các nạn nhân của tra tấn và quyền lợi của họ, đồng thời cũng bảo
vệ các tù nhân tránh khỏi các hành vi bạo lực trong thời gian vụ án được dưa
ra xét xử cũng như suốt quá trình cải tạo trong tù.
• Tòa hình sự quốc tế (ICC): là một tòa án thường trực để khởi tố các
cá nhân phạm tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh và tội hiếu chiến xâm lăng
(mặc dù tòa hiện nay không có thẩm quyền xét xử về tội hiếu chiến xâm
lăng). Sự thành lập ICC có thể được xem là một cuộc cải cách quan trọng nhất
về luật quốc tế từ năm 1945.
• Ủy ban chữ thập đỏ quốc tế (ICRC): là cơ quan duy nhất được luật
pháp nhân đạo quốc tế (IHL) nói đến rõ ràng là uy quyền. Mục đích nhân đạo
duy nhất của họ, dựa trên các nguyên tắc căn bản vô tư, trung lập, và độc lập,
là để bảo vệ sự sống và phẩm giá của những nạn nhân vì cuộc xung đột vũ
trang quốc tế và nội bộ.
Ngoài ra, Liên Hợp Quốc còn có cơ chế giải quyết vấn đề quyền con
người theo mô hình các phương thức của những cơ quan chuyên môn như Cao
ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn, UNESCO, WHO, APT,
+ Trong bộ máy các quốc gia, một số cơ quan, tổ chức tiêu biểu:
• Viện quyền con người Ludwig Boltzman, Áo (BIM): Là trung tâm
chuyên trách giải quyết các vấn đề quyền con người tại Áo. Đây là nơi tập
trung nhiều văn bản quy phạm pháp luật về nhân quyền, có chức năng tư vấn,
đưa ra các biện pháp giải quyết các tranh chấp về nhân quyền và xử lý các vi
phạm nhân quyền.
• Viện quyền con người Hà Lan (SIM): Là trung tâm giải quyết các
vấn đề liên quan tới quyền con người tại Hà Lan.
• Trung tâm nhân quyền phụ nữ di trú Hàn Quốc: Là trung tâm bảo vệ
quyền lợi cho phụ nữ di trú, bảo vệ bà mẹ trẻ em và hỗ trợ nuôi dạy trẻ.


23
+ Một số tổ chức xã hội khác:
• Ủy ban nhân quyền liên Mỹ: được thành lập năm 1959, nhiệm vụ
chính là thúc đẩy việc tuân thủ và bảo vệ nhân quyền tại châu Mỹ. Ủy ban này
đã lập ra nhiều chức báo cáo viên và một chức báo cáo viên đặc biệt để giám
sát việc tuân thủ Công ước nhân quyền của các nước thành viên.
• Ủy ban châu Âu về ngăn ngừa tra tấn (CPT): nằm dưới sự chỉ đạo
chung của Hội liên hiệp ngăn ngừa tra tấn, ủy ban này chuyên giải quyết các
vấn đề liên qua tới tra tấn (vũ lực hoặc tinh thần) diễn ra tại các nước thuộc
liên minh châu Âu.
• Hội đồng kinh tế và xã hội (ECOSOC): hội đồng này được lập ra
trước hết là nhằm đảm bảo sự phát triển của kinh tế, xã hội; tiếp theo là bảo
đảm các quyền con người trong lĩnh vực này.

- Biện pháp chính trị.
Một nền chính trị ổn định là cái nôi nuôi dưỡng tốt cho sự phát triển
nhân quyền. Liên Hợp Quốc xác định xây dựng và bảo vệ nền hòa bình thế
giới cũng chính là bảo đảm tốt nhất cho con người và những quyền lợi chính
đáng của họ. “Luật bầu cử” tại các quốc gia như Mỹ, Anh, Pháp, được xây
dựng và thông qua đã tạo cơ sở cho việc bảo đảm thực hiện quyền công dân
diễn ra dề dàng và có hệ thống hơn.
Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, để có được một nền chính
trị như vậy thì việc chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ chính trị cho các nhà
chức trách, các viên chức chính phủ, là cần thiết. Trong những năm vừa
qua, công tác đào tạo chính trị diễn ra phổ biến như việc tổ chức, thành lập
các lớp đào tạo chính trị từ trung cấp đến cao cấp nhằm nâng cao trình độ
chính trị cũng như trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ chính trị.
- Biện pháp kinh tế.
Kinh tế chính là yếu tố lớn trong qua trình tuyên truyền và mở rộng
24

×