Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.47 KB, 12 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Soạn thảo văn bản pháp luật là việc chắp bút hình thành nội dung dự án pháp
luật, giữ vai trò quyết định tới chất lượng văn bản. Hoạt động đó được tác động bởi
nhiều yếu tố khác nhau, một trong những nội dung quan trọng phải được thẩm định
quy định tại khoản 3, điều 36, Luật Ban hành văn bản pháp luật là “Tính khả thi
của dự thảo văn bản, bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự thảo văn bản với
yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm để thực hiện”.
Quy định nêu trên là hợp lý và cần thiết để những quy định của pháp luật đi
vào cuộc sống. Sẽ là vô nghĩa và gây ra những tốn kém không cần thiết cả về thời
gian và tiền bạc khi một văn bản quy phạm pháp luật được dự thảo, hội thảo,
nghiên cứu, ban hành nhưng xa rời thực tế hoặc tạo ra những tác động ngược và
các đối tượng thực thi không thể thi hành.
Với những lý do trên, em xin chọn đề tài: “Các điều kiện để đảm bảo tính
khả thi của văn bản pháp luật”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trước tiên, để hiểu rõ và tìm được chính xác điều kiện để đảm bảo tính khả
thi cho văn bản pháp luật phải hiểu rõ bản chất thế nào là “khả thi”. Khả thi được
hiểu là khả năng có thể thực hiện một dự kiến đề án
(1)
. Tính khả thi là một trong
những điều kiện mang lại hiệu lực thực tế cho văn bản pháp luật. Những văn bản
pháp luật có tính khả thi thì sẽ có hiệu lực thực tế cao, tức là sự tác động đạt mức
độ, chất lượng cao. Ngược lại, những văn bản pháp luật không khả thi mà có hiệu
lực pháp lý thì vẫn được tổ chức thực hiện nên vẫn tác động vào các quan hệ xã
hội, do đó vẫn có hiệu lực thực tế nhưng mức độ và chất lượng văn bản thấp.
______________________
1. Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng,1996, tr.470.
1
I. Các điều kiện đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp luật
1. Văn bản phải phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại
Trong văn bản pháp luật, tính khả thi thường được đánh giá ở sự phù hợp


giữa nội dung văn bản với các điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại. Sự phù hợp này
phản ánh rất rõ mối tương quan giữa trình độ pháp luật với trình độ phát triển kinh
tế – xã hội. Trường hợp văn bản pháp luật không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội thì sẽ không thực hiện được hoặc thực hiện được nhưng kém hiệu quả, làm
giảm hiệu quả của quản lý nhà nước. Nếu văn bản chính xác, kịp thời những vấn
đề đặt ra từ thực tiễn, chứa đựng những nội dung phù hợp với các điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội và yêu cầu của quản lý nhà nước sẽ tạo ra những “đòn bẩy”
tăng trưởng kinh tế – xã hội.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, kỹ thuật lập pháp cũng như xây
dựng văn bản pháp luật ở nước ta đã ngày càng có những bước tiến mới. Tuy
nhiên, vẫn còn rất nhiều những “hạt sạn” trong quá trình xây dựng và ban hành văn
bản pháp luật làm cho tính khả thi của văn bản giảm đi một cách đáng kể.
Ví dụ, việc xử phạt vi phạm Luật Giao thông đối với người đi bộ quy định
tại Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 2-4-2010 của Chính phủ “Quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ” được ví như “túm người
trọc đầu”. Xét thấy, đối với những người đi bộ, đặc biệt là những người không
mang theo giấy tờ tùy thân, tiền thì biết phạt bằng cách nào. Mà dù có mang theo
giấy tờ hoặc tiền mà họ không tự giác nộp phạt thì CSGT cũng không thể khám
người hoặc tạm giữ người vi phạm... Chính vì lý do này mà dường như từ ngày
Nghị định 34 có hiệu lực đến nay, chưa có người đi bộ nào bị phạt vi phạm Luật
Giao thông!
Có thể nói, khi xây dựng văn bản và dự thảo, từng quy định quan trọng của
văn bản nếu người soạn thảo đánh giá được tác động kinh tế - xã hội cũng như dự
kiến nguồn lực bảo đảm thi hành văn bản (khía cạnh tích cực, tiêu cực) thì văn bản
2
khi được áp dụng, chắc chắn sẽ có tính khả thi cao. Nói cách khác, muốn có các
quy định có tính khả thi cao, người soạn thảo cần có bước tiến hành đánh giá,
nghiên cứu về thực tế cuộc sống và cần phải có ước tính các điều kiện để bảo đảm
tính khả thi của từng quy định. Việc dự kiến nguồn lực bảo đảm tổng thể các yếu tố
về thi hành gồm các vấn đề về tài chính, con người, bộ máy.

Ví dụ: đưa ra chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi cho nông dân nghèo, cần
phải tính đến phát sinh hệ thống cơ quan tín dụng, các nhân viên tín dụng, bộ máy
địa phương, hoạt động của các trung tâm khuyến nông… và cả việc Nhà nước sẽ
có chính sách ưu đãi và chi phí.
Ngày nay, khi nền tri thức và nền kinh tế thị trường ngày càng được nâng
cao, đòi hỏi của con người về không chỉ nội dung mà cả hình thức cũng ngày một
cao. Trước kia, một văn bản đưa ra chỉ cần đúng theo pháp luật là đã đủ tiêu chuẩn
xét duyệt và thi hành. Nhưng ngày nay, nó còn cần đến cả sự khả thi hay nói cách
khác là cần đến sự tương quan đối với kinh tế – xã hội hiện tại.
Có thể thấy, các quan hệ, hành vi pháp lý phát triển đến đâu thì các văn bản
pháp luật phải được điều chỉnh đến đó. Chỉ có như thế thì các quy định mới nhanh
chóng đi vào cuộc sống, mới mang lại hiệu quả xã hội thiết thực. Tuy nhiên, trên
thực tế do hiểu không đúng về nhà nước pháp quyền, khi nhấn mạnh đến vai trò tối
thượng của pháp luật, nhưng lại đồng nhất với việc có nhiều văn bản pháp luật
được ban hành nên đang có tình hình muốn ban hành càng nhiều văn bản pháp luật
càng tốt, lĩnh vực nào, ngành nào cũng muốn có luật, pháp lệnh riêng của mình. Do
vậy, nhiều vấn đề xã hội tuy chưa đặt ra yêu cầu cần phải có những quy định điều
chỉnh có tính chất pháp lý, nhưng một số bộ, ngành, tổ chức xã hội vẫn xây dựng
các dự án luật trình và thuyết phục để được thông qua. Kết quả là bên cạnh những
bộ luật hoặc pháp lệnh nhanh chóng đi vào thực tiễn và được cả xã hội đón nhận
thì cũng có những luật, pháp lệnh hoặc một phần nào đó của các văn bản này, ý
nghĩa điều chỉnh thực tiễn không cao hoặc rất yếu.
3
Do vậy, yêu cầu đặt ra là văn bản pháp luật phải vừa phản ánh được những
quy luật chung về sự phát triển của xã hội, vừa phản ánh được những quy luật
mang tính đặc thù trong từng giai đoạn và từng lĩnh vực.
2. Văn bản pháp luật phải có quy định cụ thể, chi tiết phù hợp với điều
kiện của người thi hành
Đôi khi, người ta chỉ chú ý đến toàn bộ văn bản mà ít coi trọng các quy định
cụ thể của văn bản đó. Điều này xảy ra với cả văn bản do cơ quan nhà nước trung

ương ban hành cũng như địa phương ban hành. Vì thế, yêu cầu về tính khả thi còn
đòi hỏi văn bản pháp luật phải có các quy định, các mệnh lệnh chi tiết, cụ thể để dễ
dàng triển khai thực hiện trong thực tiễn, phù hợp với khả năng của các cơ quan có
trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện văn bản và phù hợp với nhận thức pháp
luật của đối tượng có liên quan, đồng thời cũng cần tạo ra sự kịp thời, đồng bộ giữa
các cơ quan nhà nước có liên quan trong hoạt động ban hành văn bản và tổ chức
thực hiện văn bản.
Nói cách khác, văn bản có tính khả thi cao khi các quy định của văn bản
không chỉ có tính cưỡng chế với người dân mà người dân cũng phải thấy rằng sự
cưỡng chế đó là hợp lý, “hợp lòng dân” và vì lợi ích chung mà pháp luật cần có để
tạo ra các chuẩn mực chung áp dụng cho mọi người. Các quy định “hợp lòng dân”
là các quy định mà đa số người dân thấy hợp lý, không phải là chỉ phục vụ cho một
nhóm lợi ích nhất định. Đồng thời, những văn bản này phải mang tính cụ thể, dễ
hiểu để không chỉ các cơ quan chức năng dễ dàng thi hành mà còn giúp dân hiểu,
dân làm theo đúng chủ trương của nhà quản lý.
Bên cạnh các yêu cầu nêu trên, cơ quan ban hành văn bản còn phải xác định
thế nào là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Đôi khi, cần phân tích
trong từng quy phạm để có thể thấy được rõ ràng, chính xác ai là người được coi là
đối tượng trực tiếp chịu sự tác động của văn bản. Từ đó đưa ra những quy định,
mệnh lệnh chi tiết, cụ thể phù hợp với từng đối tượng trong xã hội.
4
Về sự hỗ trợ của các cơ quan có liên quan tới chủ đề của văn bản pháp luật,
trước tiên cần có sự thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan chức năng có thẩm
quyền liên quan tới chủ đề của dự thảo; thứ hai, cần có sự hỗ trợ, kịp thời giữa cơ
quan cấp trên và cơ quan cấp dưới trực tiếp thi hành chỉ đạo của nhà quản lý.
Ví dụ, khi Hiến pháp năm 1992 quy định công dân được quyền tự do đi ra
nước ngoài thì phải cải cách thủ tục cấp visa, hộ chiếu thông thoáng, không đặt ra
các điều kiện hạn chế đi ra nước ngoài không hợp lý. Như vậy, theo quy định của
Hiến pháp, các cơ quan chức năng có liên quan trực tiếp phải thống nhất và tạo
điều kiện để quy định được áp dụng rộng rãi, kịp thời trong đời sống.

Hay Thủ tướng giao nhiệm vụ phòng chống bão lụt cho một Ủy ban nhân
dân tỉnh nào đó thì thường yêu cầu lực lượng quân đội đóng tại địa phương đó có
trách nhiệm hỗ trợ.
Như vậy, để đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp luật bên cạnh việc phải
phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, còn phải có sự cụ thể hóa đối với từng văn
bản để chủ thể thi hành dễ dàng thực hiện, đồng thời phải có sự thống nhất của nhà
quản lý và người thực hiện theo quy định đưa ra.
3. Văn bản pháp luật cần phải có ngôn ngữ chính xác, kết cấu, bố cục
chặt chẽ, logic
Tính khả thi của văn bản pháp luật còn được xem xét dưới góc độ khoa học
pháp lý thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, xây dựng kết cấu văn bản, bố cục logic,
chặt chẽ. Các thuật ngữ pháp lý được sử dụng chính xác, một nghĩa; cách diễn đạt
trình bày nội dung văn bản phải cô đọng, khoa học, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức
của đông đảo nhân dân để tạo ra sự thuận lợi trong việc thực hiện văn bản pháp
luật trên thực tế.
Theo đó, ngôn ngữ viết đòi hỏi phải đầy đủ thành phần, đúng ngữ pháp,
không dùng lối diễn đạt có tính ẩn dụ, không dùng các từ quá nôm na, tiếng lóng.
Ví dụ, thay bằng dùng từ “mobie phone”, phải dùng từ “điện thoại di động”; hay từ
5

×