MỞ ĐẦU
Pháp luật về hợp đồng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh
hay nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường, đều liên quan đến hợp
đồng. Chính vì lẽ đó mà các chế định về hợp đồng và các vấn đề liên quan đến hợp
đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005 chiếm một vị trí nòng cốt với hơn 300 điều
trên tổng số 777 điều. Mục đích của pháp luật về hợp đồng là nhằm bảo vệ
quyền tự do ý chí của các bên. Quyền tự do ý chí này chỉ bị hạn chế bởi một số
ngoại lệ nhằm bảo vệ trật tự công hoặc nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của
bên thứ ba.
Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hiện nay được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Kinh
doanh bảo hiểm…, tuy nhiên, Bộ luật Dân sự được coi là luật gốc quy định các
vấn đề chung về hợp đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự
thoả thuận và tự chịu trách nhiệm. Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân
sự được áp dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng, không phân biệt hợp đồng
dân sự hay hợp đồng kinh tế, hợp đồng có mục đích kinh doanh hay hợp đồng
nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Tuy nhiên, khi tham gia thỏa thuận và ký kết hợp đồng, các bên tham giam
ký kết hợp đồng thường không để ý đến những sai sót dẫn đến thiệt hại ngoài ý
muốn cho các bên tham gia hợp đồng.
Chính vì vậy, bài viết “Hệ thống pháp luật hợp đồng của Việt Nam hiện
nay. Một số sai sót thường gặp khi giao kết hợp đồng” đóng góp một phần nhỏ
trong chế định pháp luật hợp đồng, cũng như giúp các bên tham gia giao kết hợp
đồng tránh được những sai sót, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham
gia quan hệ hợp đồng.
1
CHƯƠNG I
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Bộ luật Dân sự quy định những vấn đề chung về hợp đồng như khái niệm
hợp đồng, giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, chấm dứt hợp đồng… còn các
luật chuyên ngành thì chỉ quy định các vấn đề mang tính đặc thù của hợp đồng
trong các lĩnh vực khác nhau. Trong phạm vi bài viết, chỉ xin đề cập đến một số
vấn đề quan trọng về pháp luật hợp đồng.
1. Khái niệm về hợp đồng
Theo Điều 388 – Bộ luật dân sự quy định về Khái niệm hợp đồng
dân sự như sau: Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Như vậy hợp đồng được hiểu là sự thể hiện ý chí của các bên bằng việc
thoả thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên, xác định khi nào và trong
điều kiện nào thì các quyền và nghĩa vụ này được xác lập, được thay đổi và
chấm dứt. Các chủ thể tham gia hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc
các loại chủ thể khác. Khách thể của hợp đồng chính là đối tượng của hợp đồng,
có thể là tài sản, hàng hoá hoặc dịch vụ. Nguyên tắc quan trọng và được pháp
luật bảo vệ là nguyên tắc tự do thoả thuận, bình đẳng và thiện chí trong việc giao
kết, thực hiện hợp đồng, không phân biệt mục đích của hợp đồng là kinh doanh
thu lợi nhuận hay nhằm phục vụ cho tiêu dùng.
2. Hình thức của hợp đồng
Về nguyên tắc, các bên có quyền tự do quyết định hình thức của hợp đồng.
Hình thức hợp đồng có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể, trừ một số trường hợp pháp luật yêu cầu hợp đồng phải được thể
hiện bằng hình thức nhất định nhằm đảm bảo trật tự công, ví dụ như hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được thể hiện bằng văn bản.
2
Để phù hợp với xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, pháp luật
cũng ghi nhận hình thức của hợp đồng có thể được thể hiện thông qua phương
tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu và hình thức này được coi là hợp
đồng bằng văn bản. Trong trường hợp pháp luật yêu cầu hợp đồng phải được thể
hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép
thì phải tuân theo các quy định đó. Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
thì nhìn chung, hợp đồng không bị coi là vô hiệu nếu có vi phạm về hình thức.
3. Về ký kết hợp đồng và việc uỷ quyền ký kết hợp đồng
BLDS xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trên cơ sở công nhận
hiệu lực của cam kết, thoả thuận của các bên, không phụ thuộc vào hình thức
của hợp đồng. Do đó, về mặt nguyên tắc, hợp đồng được giao kết vào thời điểm
bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết của bên được đề nghị. Hợp
đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị
vẫn im lặng, nếu các bên có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.
Trên cơ sở hình thức của hợp đồng, pháp luật cũng quy định cụ thể đối với từng
trường hợp, ví dụ, đối với hợp đồng được giao kết bằng lời nói thì thời điểm
giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thoả thuận về nội dung của hợp đồng;
đối với hợp đồng được giao kết bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
Về mặt nguyên tắc, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được tính từ thời
điểm giao kết, tuy nhiên vẫn có các ngoại lệ đó là khi các bên có thoả thuận
khác, ví dụ hợp đồng được các bên ký vào ngày 01/01/2009 nhưng các bên thoả
thuận là hợp đồng được coi là ký kết vào ngày 01/02/2009 hoặc khi pháp luật có
quy định khác, ví dụ theo pháp luật về đất đai thì thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng thế chấp là thời điểm đăng ký.
Vấn đề uỷ quyền ký kết hợp đồng không được BLDS quy định cụ thể, tuy
nhiên, vì hợp đồng là một dạng của giao dịch dân sự cho nên có thể áp dụng các
quy định về việc uỷ quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Theo đó cá nhân,
3
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác
xác lập, thực hiện hợp đồng theo chế định người đại diện.
4. Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Theo quy định của Điều 405 BLDS thì hợp đồng được giao kết hợp pháp
có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ trường có thoả thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác. Tuy nhiên, BLDS lại không quy định thế nào là "được
giao kết hợp pháp", do đó phải áp dụng Điều 122 BLDS về điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự vì hợp đồng là một trong những hình thức giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự được coi là có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
+ Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
+ Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
+ Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Ngoài các điều kiện trên đây, nếu pháp luật quy định giao dịch phải được
thể hiện bằng một hình thức cụ thể, ví dụ phải thể hiện bằng văn bản, thì hình
thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
Như vậy, khi hợp đồng có đủ 3 điều kiện trên thì sẽ có hiệu lực trừ một số
trường hợp mà pháp luật yêu cầu hợp đồng phải tuân theo một hình thức nhất
định.
5. Về điều kiện vô hiệu của hợp đồng
Theo quy định của Điều 410 BLDS thì vấn đề hợp đồng vô hiệu sẽ được áp
dụng theo các quy định từ Điều 127 đến Điều 138 BLDS bao gồm các trường
hợp sau:
Thứ nhất, giao dịch bị vô hiệu khi không có một trong các điều kiện được
quy định tại Điều 122 của BLDS bao gồm: người tham gia giao dịch có năng lực
hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự
nguyện. Ngoài ra, nếu pháp luật yêu cầu giao dịch phải được thể hiện bằng một
4
hình thức cụ thể nào đó thì hình thức của giao dịch cũng là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch.
Thứ hai, giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội. Điều này có nghĩa rằng nếu giao dịch dân sự có mục đích và nội
dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu. Vi
phạm điều cấm của pháp luật có nghĩa là vi phạm những quy định của pháp luật
không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định, ví dụ như hành vi
buôn bán chất ma tuý. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa
người với người trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Thứ ba, giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. Nếu một giao dịch dân sự được
xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo
đó bị vô hiệu, tuy nhiên giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ khi nó cũng bị
vô hiệu theo các quy định khác của BLDS. Luật cũng quy định trường hợp giao
dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba
thì giao dịch đó cũng bị vô hiệu.
Thứ tư, giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự mà xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì theo yêu
cầu của người đại diện của người đó, toà án có thể tuyên bố giao dịch đó là vô
hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của
họ xác lập, thực hiện, ví dụ một người bị tâm thần, không có khả năng nhận thức
được hành vi của mình đã kí hợp đồng để bán nhà cho một người khác, giao
dịch này bị coi là vô hiệu vì trong trường hợp này người bị tâm thần không thể
tự mình giao dịch được mà cần phải có người đại diện của họ.
Thứ năm, giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn. Khi một bên có lỗi vô ý
làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch
thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch
5