Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Năng lực nghề của người lao động vùng dân tộc thiểu số trong các hoạt động kinh tế (nghiên cứu trường hợp xã Bộc Nhiêu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.87 MB, 151 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




CAO THỊ NHÀN


NĂNG LỰC NGHỀ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VÙNG DÂN TỘC
THIỂU SỐ TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ BỘC NHIÊU, HUYỆN ĐỊNH HÓA,
TỈNH THÁI NGUYÊN)


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Dân tộc học




Hà Nội-2013

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


CAO THỊ NHÀN




NĂNG LỰC NGHỀ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VÙNG DÂN TỘC
THIỂU SỐ TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ BỘC NHIÊU, HUYỆN ĐỊNH HÓA,
TỈNH THÁI NGUYÊN)

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 22 70



Người hướng dẫn khao học: PGS.TS Lâm Bá Nam



Hà Nội-2013

5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU 18
1.1. Cơ sở lý thuyết 18
1.2. Khái quát đặc điểm địa bàn nghiên cứu 33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC NGHỀ CỦA NGƢỜI LAO
ĐỘNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH KẾ Ở XÃ BỘC NHIÊU, HUYỆN
ĐỊNH HOÁ, TỈNH THÁI NGUYÊN 47
2.1. Lực lượng lao động và cơ cấu lao động 47
2.2. Thực trạng năng lực nghề của người lao động 54

2.3. Nguyên nhân của thực trạng năng lực nghề của người lao động ở xã
Bộc Nhiêu 57
2.4. Nghề nghiệp và ý kiến của người lao động xã Bộc Nhiêu về nghề 59
Chƣơng 3: NĂNG LỰC NGHỀ CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG Ở XÃ BỘC
NHIÊU HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN: NHU CẦU PHÁT
TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP 64
3.1. Cơ sở thực tế của yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội xã Bộc Nhiêu 64
3.2. Cơ sở của yêu cầu đổi mới việc nâng cao năng lực nghề cho người lao
động hướng đến hiệu quả 68
3.3. Nhu cầu nâng cao năng lực nghề của người lao động xã Bộc Nhiêu 75
3.4. Giải pháp nâng cao năng lực cho người lao động xã Bộc Nhiêu hướng
đến phát triển bền vững kinh tế - xã hội 84
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
MỤC LỤC PHỤ LỤC 102


6
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang
Bảng 1.1: Tình hình sử dụng quỹ đất của xã Bộc Nhiêu 28
Biểu 2.1: Lao động được giải quyết việc làm theo chương trình 40
Biểu 2.2: Lao động được giải quyết việc làm theo nhóm ngành 41
Biểu 2.3: Cơ cấu kinh tế hộ theo nhóm ngành 42
Biểu 2.4: Cơ cấu lao động của xã năm 2010 43
Biểu 2.5: Cơ cấu nguồn thu theo nhóm ngành 44
Biểu 2.6: Cơ cấu thu từ kinh tế nông nghiệp (tỷ đồng) 45
Biểu 2.7: Trình độ học vấn của người lao động 45
Biểu 3.1: Cơ cấu kinh tế huyện Định Hóa 2009 55

Biểu 3.2: Cơ cấu kinh tế xã Bộc Nhiêu 2009 56
Bảng 3.3: Kết quả tập huấn và đào tạo nghề ở huyện Định Hoá 59









7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi (viết tắt là DTTS và MN) nước ta
hiện nay đang có bước phát triển nổi bật về kinh tế - xã hội, nhưng nhìn chung
những khó khăn còn rất lớn. Bên cạnh những yếu tố không thuận lợi như địa
hình phức tạp, khí hậu khắc nghiệt , vùng DTTS và MN cũng có những
thuận lợi cho phát triển như: nguồn tài nguyên rừng, khoáng sản phong phú
Về xã hội – văn hóa, nơi đây có nguồn lao động dồi dào, bản sắc văn hóa các
tộc người đa dạng. Để khai thác được những thế mạnh thì vùng DTTS và MN
cần có sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, trong đó quan trọng nhất và
trước hết là nguồn nhân lực có chuyên môn, kĩ thuật.
Quá trình phát triển của các nước trên thế giới đã chỉ ra rằng, sự phát
triển chỉ được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững và trong đó,
nhân tố con người là trung tâm. Nước ta đang trong giai đoạn xây dựng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì các nguồn lực đều đóng vai trò quan
trọng. Tuy nhiên, xét đến cùng, “nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động
của con người thì mọi nguồn lực khác đều trở nên vô nghĩa” [60, tr.106]. Bởi

“nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất mà nhờ vào đó, các nguồn lực khác
mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Với ý nghĩa đó, nguồn lực con người là không thể thay thế
được” [60, tr.107]. Phát triển nguồn nhân lực là một trong những chiến lược phát
triển của đất nước được Đảng ta khẳng định trong các kỳ đại hội. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI khẳng định “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố
quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất,
bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [79].
Nguồn nhân lực miền núi, vùng đồng bào các DTTS được xác định là
nhân tố chính trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội

8
của địa bàn còn nhiều khó khăn này. Lực lượng lao động vùng DTTS và MN
dồi dào nhưng nhìn chung trình độ dân trí còn thấp, hơn nữa hầu hết chưa qua
đào tạo nghề. Vì vậy, đa số lao động hoạt động trong nhóm ngành kinh tế
truyền thống là nông nghiệp có hiệu quả sản xuất thấp; đời sống người lao
động còn nhiều khó khăn. Bản thân người lao động vùng DTTS cũng đã tự
học hỏi và tìm kiếm cơ hội để có cuộc sống khá hơn, biểu hiện rõ nhất là việc
mưu sinh ở thành phố và các địa bàn khác. Tuy nhiên, hiện trạng này cũng
gây ra một số vấn đề xã hội phức tạp cho các cộng đồng, nhất là việc thiếu hụt
nhân lực tại địa phương. Để có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát
triển vùng DTTS và MN hiện nay thì trước hết cần phải thực hiện việc nâng
cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động.
Ngày càng có nhiều nghiên cứu về lao động, việc làm, đào tạo nghề và
người lao động trên cả nước nói chung và vùng DTTS và MN nói riêng với
mục đích tìm ra các giải pháp giải quyết khó khăn; cùng với chính sách của
Nhà nước nhằm góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao để thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững kinh tế - xã hội.

Vì vậy, tôi chọn đề tài “Năng lực nghề của người lao động vùng dân
tộc thiểu số trong các hoạt động kinh tế” (Nghiên cứu trường hợp xã Bộc
Nhiêu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên) là vấn đề nghiên cứu cho Luận
văn Thạc sĩ. Luận văn nghiên cứu trường hợp một xã vùng DTTS và MN, là
xã thuộc Chương trình 135 có khó khăn lớn về kinh tế - xã hội nhưng trong
những năm qua được sự đầu tư của Nhà nước về mọi mặt, xã đã có sự phát
triển to lớn so với trước đó. Qua nghiên cứu này, tác giả mong muốn tìm hiểu
rõ hơn về người lao động ở một xã cụ thể, góp phần nhỏ trong hướng nghiên
cứu nguồn nhân lực nước ta.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội trên mọi
vùng miền của đất nước, vấn đề lao động, việc làm, đời sống của người lao
động được giới nghiên cứu, các nhà quản lí, hoạch định chính sách rất quan
tâm. Các công trình nghiên cứu đã công bố chủ yếu về lao động và việc làm,

9
đào tạo nghề cho người lao động nói chung trên phạm vi cả nước. Các nghiên
cứu về lao động, việc làm ở vùng DTTS và MN không có nhiều và tập trung ở
các nghiên cứu nội bộ của cơ quan quản lí nhà nước.
Liên quan đến thực trạng về đào tạo nghề, việc làm của người lao động
nước ta, có một số công trình nghiên cứu được biết đến như: Tác giả Bùi Tôn
Hiến với nghiên cứu “Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở
Việt Nam” (2009) đề cập chủ yếu đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề
ở Việt Nam cụ thể như đặc điểm, thực trạng việc làm và tình hình sử dụng lao
động đào tạo nghề và các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm của đối tượng này ở
Việt Nam giai đoạn hiện nay. Từ những phân tích kĩ lưỡng các yếu tố trên, tác
giả đưa ra giải pháp nhằm phát triển việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở
Việt Nam; trong đó, có chú trọng tới việc phát triển đội ngũ lao động bằng
việc tăng cường đào tạo nghề có chất lượng.
Cũng là đề tài về đào tạo nghề cho lao động, tác giả Nguyễn Thị Vân

Hạnh với hướng tiếp cận xã hội học đã thực hiện nghiên cứu về đào tạo nghề
đối với lao động thanh niên hiện nay trên phạm vi rộng. Trong nghiên cứu, tác
giả chú trọng mô tả, đánh giá thực trạng của đào tạo nghề cho lao động thanh
niên. Đồng thời khảo sát nhu cầu học nghề của họ để đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Hiện nay, chưa có nhiều nghiên cứu về lao động, đào tạo nghề ở vùng
DTTS và MN. Trong nghiên cứu “Điều tra thực trạng sử dụng lao động đã
qua đào tạo nghề trong thanh niên dân tộc thiểu số nhằm đề xuất các giải
pháp nâng cao đào tạo nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, tác giả Võ Văn Bảy (Chủ nhiệm dự án - Ủy ban
Dân tộc) đã dành một phần lớn báo cáo để nêu lên thực trạng đào tạo nghề
cho thanh niên dân tộc thiểu số ở các địa bàn điều tra (Lào Cai, Đắk Lắk, Sóc

10
Trăng). Đặc biệt, tác giả có nói đến các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề
như các yếu tố về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển
của hệ thống dạy nghề, chính sách hỗ trợ cho thanh niên dân tộc thiểu số khi
đi học nghề. Về hệ thống đào tạo nghề, tác giả viết ngắn gọn: “hệ thống đào
tạo nghề ở các tỉnh điều tra tuy đã có những cải thiện nhất định trong những
năm gần đây nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nghề cho thanh
niên dân tộc thiểu số cả về cơ sở trường lớp, trang thiết bị và đội ngũ giáo
viên”. Nghiên cứu cũng cho thấy, trong số những lao động được đào tạo nghề
thì tỷ lệ có việc làm và làm đúng nghề chiếm tỷ lệ thấp.
Cùng đề cập đến thực trạng việc làm của người lao động vùng DTTS
còn có nghiên cứu là đề tài cấp Bộ của TS. Trịnh Quang Cảnh (Trường Cán
bộ dân tộc): “Vấn đề việc làm của thanh niên người dân tộc thiểu số trong
thời kỳ hội nhập WTO thực trạng và giải pháp” (2010). Nghiên cứu đã cho
thấy bức tranh khái quát nhưng cũng rất chi tiết về thực trạng lao động và việc
làm của thanh niên dân tộc thiểu số trên cả nước. Tác giả cũng cho rằng, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực cụ thể là trong giáo dục, đào tạo nghề sẽ tạo

cơ hội việc làm cho thanh niên DTTS.
Trong khi đó, tác giả Nguyễn Đăng Thành đề cập một hệ thống cơ bản
các lý thuyết liên quan đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số
trong tác phẩm “Một số vấn đề phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số cho
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”. Tác giả đã
đề cập rõ các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số
như đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc điểm lịch sử, số lượng
người các dân tộc.
Một số công trình nghiên cứu đề cập sâu hơn đến các giải pháp cho
những hạn chế hiện nay của vấn đề việc làm, đào tạo nghề cho người lao

11
động ở nước ta như Luận án Tiến sĩ giáo dục học của Phan Chính Thức với
đề tài “Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu
nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trong nghiên cứu
này, tác giả chú trọng nêu lên thực trạng đào tạo nghề ở Việt Nam giai đoạn
từ năm 1969 đến thời điểm 2003 và đi sâu nghiên cứu một số giải pháp chủ
yếu để phát triển đào tạo nghề đến năm 2010 góp phần đáp ứng nhu cầu nhân
lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua nghiên cứu,
có thể thấy một bức tranh khá toàn cảnh về đào tạo nghề ở Việt Nam từ
những năm 1969 cụ thể như về quy mô, cơ cấu, chất lượng đào tạo lao động
kỹ thuật; quy mô, cơ cấu cũng như những thách thức đối với đào tạo nghề
trong thời gian tới.
Tác giả đưa ra giả thuyết khoa học rằng: “Đào tạo nghề ở nước ta hiện
nay đang có nhiều yếu kém, bất cập trước yêu cầu phát triển nguồn nhân lực
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Theo tác giả, việc
phát triển nguồn nhân lực cần dựa trên mối quan hệ với đào tạo nghề; đào tạo
nghề với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mối quan hệ giữa
đào tạo nghề với thị trường lao động.
Trong tác phẩm “Giáo dục nghề nghiệp những vấn đề và giải pháp”,

tác giả Nguyễn Viết Sự đã nêu rõ tất cả các vấn đề liên quan đến việc giáo
dục nghề nghiệp; nhấn mạnh đến giải pháp đào tạo nghề ở Việt Nam đáp
ứng thị trường lao động.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đức Tĩnh với đề tài “Quản lý nhà nước
về đầu tư phát triển đào tạo nghề ở nước ta-thực trạng và giải pháp” (2007).
Đây cũng là nghiên cứu về đào tạo nghề ở Việt Nam nhưng chú trọng về mặt
quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tác giả nhấn mạnh: “Đào tạo
nghề trong nền kinh tế thị trường được hiểu rộng hơn, không chỉ trang bị kỹ

12
năng, kỹ xảo cho người lao động mà còn gắn với việc làm, chịu sự tác động
của quy luật thị trường và có sự quản lý của Nhà nước”.
Ngoài các công trình nghiên cứu đã nêu trên, còn có nhiều bài viết khác
về nguồn nhân lực, lao động việc làm, đào tạo nghề cho người lao động trên
cả nước, người lao động dân tộc thiểu số. Nghiên cứu tiếp cận từ góc độ văn
hóa tộc người được thể hiện rõ trong bài viết: “Vấn đề đặt ra trong công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số” (qua nghiên cứu đặc trưng văn
hóa tộc người) của tác giả Lâm Bá Nam. Các vấn đề mà tác giả đặt ra trong
bài viết là những cơ sở lý thuyết quan trọng cho nghiên cứu của Luận văn. Bài
viết nhấn mạnh vấn đề xây dựng nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số phải dựa trên các nguyên tắc: “thực tiễn, phù hợp, cụ thể, không chủ
quan áp đặt, không nóng vội”. Còn có các bài viết liên quan đến đề tài như:
“Một số vấn đề về cán bộ dân tộc thiểu số” của tác giả Vũ Phòng (Tạp chí
Cộng sản, số 5 – 1993); “Xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: Luận cứ và giải pháp” của tác giả Trịnh
Quang Cảnh đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, 2005; Mạc Văn Tiến với bài
“Đào tạo nghề trong bối cảnh Việt Nam ra nhập WTO” trên Tạp chí Lao
động và xã hội; Nguyễn Tấn Hùng có bài viết “Đắk Lắk tăng cường đào tạo
nghề cho người lao động” trên Tạp chí Lao động và xã hội
Các nghiên cứu cho thấy, một trong những vấn đề quan tâm hiện nay là

việc phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho
người lao động trong cơ chế thị trường. Hầu hết các nghiên cứu tiếp cận vấn
đề dưới góc độ Xã hội học, Giáo dục học, Kinh tế học, còn ít nghiên cứu tiếp
cận từ góc độ Nhân học hay Văn hóa; chú trọng đến vấn đề đào tạo nghề hiện
nay cho người lao động mà chưa xem xét năng lực hiện có của họ; vấn đề
nâng cao nguồn nhân lực được nghiên cứu trên diện rộng mà hiếm những

13
trường hợp cụ thể; chưa đi sâu vào đời sống và những mối quan hệ xã hội,
kinh tế của người lao động. Vấn đề lao động, việc làm trên bình diện chung cả
nước đã có nhiều nghiên cứu, tuy nhiên lao động vùng dân tộc thiểu số và
miền núi (lực lượng lao động còn gặp rất nhiều khó khăn) còn ít được đề cập.
Trong Luận văn, tôi xem xét vấn đề lao động trên phạm vi hẹp, cụ thể là
người lao động ở một xã vùng DTTS và MN với đặc điểm năng lực nghề
nghiệp và những mối quan hệ liên quan có tác động đến năng lực nghề, đồng
thời đưa ra một số giải pháp nâng cao năng lực nghề.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: xã Bộc Nhiêu – xã được xếp là địa bàn dân tộc
thiểu số và miền núi của huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Phạm vi thời gian: Xem xét đối tượng và các vấn đề đặt ra của đề tài
trong thời gian từ 2007 đến 2012. (Có 2 lý do để người nghiên cứu xem xét
vấn đề trong khung thời gian này đó là: thứ nhất, đây là khung thời gian mà
vấn đề xây dựng nguồn nhân lực được cả xã hội đặc biệt quan tâm, xung
quanh vấn đề đã có nhiều nghiên cứu được triển khai, nhiều chính sách được
thực hiện; thứ hai, các báo cáo, số liệu về địa bàn xã Bộc Nhiêu trong thời
gian này khá đầy đủ).
3.2. Về đối tượng nghiên cứu
Người lao động trong độ tuổi từ 18 – 55(60) tuổi. Đối tượng nghiên cứu
của Luận văn không có tầng lớp học sinh, tuy nhiên, đối tượng này cũng được

xem xét nhằm dự báo như lớp người lao động kế cận của địa phương.
Người lao động xã Bộc Nhiêu chủ yếu là người dân tộc Tày, ngoài ra
còn có người Kinh và các tộc người thiểu số khác, họ đều thuộc đối tượng
nghiên cứu của đề tài.

14
Người lao động có hộ khẩu tại địa bàn nghiên cứu, bao gồm những lao
động tại chỗ và lao động ngoài địa bàn (đi lao động ở huyện, tỉnh, nước
ngoài ). Đối tượng lao động hiện không làm việc trên địa bàn vẫn có thể có
nhiều thông tin tin cậy bằng phương pháp phỏng vấn sâu các đối tuợng liên
quan, các số liệu thu thập được ở địa phương.
Về đối tượng chọn mẫu cho phỏng vấn sâu: tổng số có 14 người, gồm:
+ Cán bộ phụ trách lao động, việc làm của xã (Tuy nhiên, Phòng chính
sách xã hội của xã không có chức năng cụ thể về vấn đề lao động, việc làm.
Vì vậy, vấn đề này cần phỏng vấn sâu nhiều cán bộ phụ trách các bộ phận
khác của xã).
+ Cán bộ phụ trách giáo dục của xã.
+ Người lao động nam và nữ chia đều có các độ tuổi: 18-35; 35-45; 45-
55 (60).
+ Cán bộ Trung tâm dạy nghề của huyện Định Hoá.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn đánh giá thực trạng năng lực nghề trong việc làm cụ thể của
người lao động xã Bộc Nhiêu. Đồng thời phân tích nguyên nhân của thực
trạng năng lực nghề của người lao động xã Bộc Nhiêu trong mối quan hệ giữa
năng lực nghề và các yếu tố có liên quan. Từ đó đề xuất một số giải pháp
nâng cao năng lực nghề cho người lao động xã Bộc Nhiêu, góp phần xây
dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển vùng DTTS và MN.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn áp dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

để nhìn nhận, phân tích đánh giá vấn đề nghiên cứu một cách khoa học và
khách quan. Đây cũng là cơ sở phương pháp luận để người nghiên cứu vận
dụng các phương pháp cụ thể trong quá trình nghiên cứu đề tài.

15
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn được nghiên cứu bằng sự kết hợp giữa thu thập tài liệu định
lượng (Thu thập nhanh thông tin về người lao động, tìm kiếm các số liệu
thống kê và báo cáo từ các nguồn sẵn có) và phân tích định tính (chú trọng
đến phỏng vấn sâu, nhất là phương pháp phỏng vấn mở đối với các đối tượng
được chọn mẫu). Để thu được các tài liệu định lượng và định tính, người
nghiên cứu đã thực hiện các phương pháp cụ thể sau:
Điền dã: Ban đầu, người nghiên cứu dự định sử dụng bảng hỏi (100
phiếu) với các dạng câu hỏi đóng, mở, câu hỏi kết hợp đối với người lao
động, tuy nhiên khi thực hiện được những phiếu đầu tiên thì thấy rằng: hầu
hết người lao động không muốn trả lời một cách trung thực một số câu hỏi ví
dụ về thu nhập, học vấn Vì kết quả không trung thực như vậy nên người
nghiên cứu không sử dụng bảng hỏi. Hơn nữa, công tác thống kê của Ủy ban
nhân dân (UBND) xã rất tốt, những số liệu về kinh tế, xã hội, thu nhập của hộ
gia đình ở Bộc Nhiêu là khá đầy đủ. Người nghiên cứu lấy những số liệu
thống kê đó để phân tích một số khía cạnh của luận văn.
Người nghiên cứu thực hiện phỏng vấn sâu một số đối tượng trên địa
bàn. Cụ thể là 01 cán bộ của Trung tâm dạy nghề huyện, 01 cán bộ thống kê,
báo cáo của văn phòng xã; 01 cán bộ phòng chính sách xã hội; 01 chủ tịch hội
phụ nữ; 02 trưởng xóm; 08 người lao động nam và nữ độ tuổi từ 29 đến 60.
Một số cuộc phỏng vấn sâu đối với cán bộ xóm, xã được thực hiện theo kế
hoạch: hẹn thời gian và địa điểm cụ thể. Các cuộc phỏng vấn còn lại không
được sắp xếp trước, đó là khi người nghiên cứu thấy thuận lợi cho việc trò
chuyện như: khi người lao động đang nghỉ giữa giờ ở ruộng gặt hoặc nghỉ tay
khi đang chăm sóc cho chè cành

Đa số người dân Bộc Nhiêu nhiệt tình và cởi mở. Các cuộc phỏng vấn
sâu cho người nghiên cứu được nhiều thông tin quan trọng, tuy nhiên hầu hết
đều trả lời rất tế nhị khi nói về các vấn đề liên quan đến người dân tộc thiểu
số và người Kinh trong xã.

16
Thu thập tài liệu lưu trữ: Như đã nói ở trên, công tác báo cáo và thống
kê ở Bộc Nhiêu khá đầy đủ, vì vậy người nghiên cứu thu thập được hầu hết
các tài liệu quan trọng, có nhiều thông tin liên quan đến kinh tế, lao động,
việc làm và đời sống của người lao động xã. Ngoài tài liệu ở địa phương là tư
liệu chính của luận văn, người nghiên cứu cũng thu thập tài liệu về lao động,
việc làm, đào tạo nghề đã được xuất bản ở các thư viện như các nghiên cứu,
báo cáo, bài viết. Những tài liệu này một phần sẽ cho người nghiên cứu cái
nhìn tổng thể về lý luận cũng như thực tế vấn đề mà nghiêu cứu hướng đến.
5.3. Phân tích tài liệu và viết kết quả nghiên cứu
Sau khi thu thập các tài liệu cần thiết liên quan đến đề tài, người nghiên
cứu tiến hành phân tích các tài liệu và viết kết quả nghiên cứu. Cụ thể, người
nghiên cứu sử dụng: Phương pháp thống kê mô tả (Thống kê các con số, mô
tả về tình hình lao động, hoạt động kinh kế của người lao động xã trong
phần thực trạng); Phương pháp phân tích so sánh (Trong phần thực trạng năng
lực nghề, số lượng, chất lượng lao động, việc làm và đời sống của người lao
động xã Bộc Nhiêu có so sánh với thực trạng ở những nơi khác; phân tích mối
quan hệ giữa năng lực nghề và hoạt động kinh kế của người lao động);
Phương pháp phân tích định tính (Đánh giá thực trạng năng lực nghề, tâm tư
và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực nghề của người lao động).
6. Đóng góp của Luận văn
Trong nghiên cứu đề tài này, người nghiên cứu đưa ra một số vấn đề
mới như sau:
Trước hết, luận văn làm rõ mối quan hệ giữa năng lực nghề và hoạt
động kinh kế của người lao động vùng DTTS và MN bằng việc trả lời câu

hỏi: Năng lực nghề và hoạt động kinh kế của người lao động vùng DTTS
đã tác động lẫn nhau như thế nào? (Cụ thể là người lao động trên địa bàn
xã Bộc Nhiều).

17
Luận văn cũng phân tích rõ mối quan hệ giữa năng lực nghề của người
lao động xã Bộc Nhiêu với các nhân tố kinh tế - xã hội khác, từ đó thấy được
xu hướng, nhu cầu của người lao động về nghề nghiệp trong tương lai.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được sắp xếp thành 03
chương như sau:
Chương 1: Tổng quan cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng năng lực nghề của người lao động trong hoạt
động kinh tế ở xã Bộc Nhiêu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Năng lực nghề của người lao động xã Bộc Nhiêu, huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên: Nhu cầu phát triển và giải pháp.

18
Chƣơng 1
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Các khái niệm cơ bản được dùng trong luận văn
Khái niệm nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng, năng động nhất của tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực được định nghĩa từ nhiều phương
diện khác nhau của kinh tế, nhân sự hành chính Nguồn nhân lực có thể được
xác định cho một quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương (tỉnh, thành phố ) và nó
khác với các nguồn lực khác như tài chính, đất đai, công nghệ ở chỗ nguồn lực
con người với lao động sáng tạo, tác động vào thế giới tự nhiên, biến đổi thế giới
tự nhiên và làm nảy sịnh các quan hệ lao động, quan hệ xã hội.

Nguồn nhân lực cũng có thể coi là nguồn nhân lực xã hội bởi xét theo
nghĩa rộng nhất thì nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao
động, không phân biệt người đó được phân bố vào ngành nghề, lĩnh vực, khu
vực nào. Từ góc độ phân công lao động chính của xã hội thì nguồn nhân lực
được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm dân cư trong độ tuổi lao động được
pháp luật mỗi quốc gia quy định. Về phương diện này, nguồn nhân lực được
hiểu là nguồn lao động, ở nước ta đó là những người từ 15 tuổi trở lên có khả
năng lao động (bao gồm những người có việc làm và những người có khả
năng lao động nhưng đang ở trong các tình trạng: đang thất nghiệp; đang đi
học, đang làm nội trợ trong gia đình mình; không có nhu cầu việc làm và
những người thuộc tình trạng khác chưa tham gia lao động).
Tóm lại, nguồn nhân lực của một quốc gia phản ánh các đặc điểm quan
trọng sau:
- Đó là nguồn lực con người.
- Nguồn lực đó là một bộ phận dân số gắn liền với cung về lao động.
- Nguồn nhân lực phản ánh khả năng lao động của một xã hội [60, tr.
40-42].

19
Năng lực nghề:
Năng lực là nói đến cái “vốn” của người lao động để thực hiện công
việc theo tiêu chuẩn tương ứng (vốn này chỉ được biểu hiện khi người lao
động tham gia vào một hoạt động, công việc) hay nói cách khác là: những
phẩm chất, nhân cách cần có giúp con người lĩnh hội và hoàn thành một hoạt
động nhất định với kết quả cao. Đơn giản hơn, năng lực được hiểu là sự tổng
hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt
động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao. Mỗi người lao
động cần có 4 loại năng lực cơ bản đó là: năng lực nhận thức (chú ý, tài quan
sát, trí tưởng tượng ), năng lực thực tiễn (thao tác máy móc, vận động ),
năng lực giao tiếp diễn đạt và tổ chức quản lý.

Như vậy có thể nói năng lực nghề là cái vốn của người lao động về
nghề. Khi nói đến năng lực nghề (còn được gọi là: kỹ năng có việc làm), là
nói đến những kiến thức chuyên biệt về các nguồn thông tin, khả năng tiếp
cận công nghệ, dịch vụ, quản lý cùng khả năng đánh giá có phê phán một
cách hiệu quả, chọn lọc và sử dụng kiến thức này để hoàn thành những công
việc cụ thể và đạt đến kết quả mong muốn. Năng lực nghề là một trong những
tiêu chí để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực (theo tài liệu 60, Chất lượng
nguồn nhân lực được đánh giá thông qua 7 tiêu chí sau: (1) Sức khỏe; (2)
Trình độ văn hóa; (3) Trình độ chuyên môn – kỹ thuật; (4) Năng lực thực tế
về tri thức, kỹ năng nghề nghiệp – khả năng thực tế về chuyên môn – kỹ
thuật; (5) Tính năng động xã hội; (6) Hiệu quả hoạt động lao động của nguồn
nhân lực; (7) Thu nhập, mức sống và mức độ thỏa mãn nhu cầu cá nhân của
người lao động về cả vật chất lẫn tinh thần).
Theo khuyến nghị 195 của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năng lực
bao gồm: “các kiến thức, kỹ năng và bí quyết được áp dụng và làm chủ được
trong một bối cảnh cụ thể”. Còn trong cuốn sách “Tiêu chuẩn năng lực cho
các nhà đánh giá”, Kim Jackson đã đưa ra quan niệm khá đầy đủ: năng lực
bao gồm các đặc điểm về kiến thức, kỹ năng và sự áp dụng các kiến thức và
kỹ năng đó đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu của sự thực hiện trong việc làm [78,

20
tr.111]. Bất cứ năng lực nào cũng đều tích hợp những thành tố cơ bản là kiến
thức, kỹ năng và thái độ: các kỹ năng thực hành, giao tiếp, giải quyết vấn đề
và các kỹ năng trí tuệ; thái độ lao động nghề nghiệp; khát vọng học tập và cải
thiện; khả năng thích ứng để thay đổi; khả năng áp dụng kiến thức vào công
việc; ý thức và khả năng hợp tác, làm việc nhóm Trong đó thành tố kỹ năng
thực hành là biểu hiện cao nhất của năng lực. Quá trình hình thành năng lực
phải gắn với luyện tập, thực hành theo các công việc thuộc nghề nào đó và
bảo đảm thực hiện có hiệu quả.
Như vậy, bất cứ người lao động nào cũng có năng lực nghề và khác

nhau ở cấp độ. Khi nói đến năng lực nghề, người ta chú trọng hơn về kỹ năng
thực hành đối với công việc và liên quan mật thiết đến hiệu quả công việc.
Một số ngành nghề có một khung đánh giá năng lực riêng, vì vậy, trong giới
hạn luận văn này năng lực nghề chỉ đưa ra khái niệm để nhìn nhận chung về
người lao động với nhiều ngành nghề dựa trên thành tố cơ bản của khái niệm
và hiệu quả kinh tế, đời sống lao động.
Đào tạo nghề:
Theo tài liệu [60, tr49]: đào tạo nghề chính là các nội dung đào tạo
nguồn nhân lực, bao gồm: (1) Đào tạo kiến thức nghề nghiệp; (2) Đào tạo kỹ
năng nghề nghiệp; (3) Giáo dục phẩm chất, thái độ đối với nghề.
Trong từ điển tiếng Việt, khái niệm đào tạo được hiểu là việc “làm cho trở
thành người có năng lực, có khả năng làm việc theo những tiêu chuẩn nhất định”
[48, tr. 369]. Có thể hiểu đào tạo là hoạt động trang bị cho người lao động năng
lực theo một tiêu chuẩn để người lao động có năng lực và trở nên hữu ích trong
một số công việc hoặc hoạt động xã hội. Các nhà giáo dục và đào tạo Việt Nam
đưa ra khái niệm về đào tạo như sau: “đào tạo là quá trình hoạt động có mục
đích, có tổ chức nhằm đạt được các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết
và thực tiễn, tạo ra năng lực để thực hiện thành công một hoạt động xã hội cần
thiết” [36, tr.10]. Cũng có những định nghĩa khác về đào tạo, các nhà kinh tế cho
rằng đó là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ cho
người lao động để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định.

21
Theo tổ chức ILO, đào tạo nghề là “những hoạt động nhằm cung cấp
kiến thức, kỹ năng và thái độ cần có cho sự thực hiện có năng suất và hiệu
quả trong phạm vi một nghề hoặc nhóm nghề. Nó bao gồm đào tạo ban đầu,
đào tạo lại, đào tạo nâng cao, cập nhật và đào tạo liên quan đến nghề nghiệp
chuyên sâu”.
Khái niệm đào tạo nghề được định nghĩa cụ thể trong Luật Dạy nghề
như sau: “là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ

nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự
tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học” [44, điều 5].
Đối với người được đào tạo nghề thì đào tạo nghề (ĐTN) là quá trình
thu nhận những kiến thức và kỹ năng mới nhằm đảm nhận một công việc cụ
thể. Với chức năng như quá trình giáo dục, ĐTN là một hoạt động nhằm tạo
lập và phát triển những kỹ năng của con người phục vụ cho quá trình làm việc
vì mục tiêu năng suất và hiệu quả lao động, đó là bất cứ 1 loại hình đào tạo
nào được thiết kế để định hướng người lao động trong một vị trí nghề nghiệp
nhất định.
ĐTN cũng có những nhân tố sư phạm như các thiết chế giáo dục khác
nhưng nhấn mạnh nhiều hơn vào khía cạnh kỹ thuật và công nghệ. ĐTN thể
hiện rõ hơn sự cần thiết của việc kết hợp giữa lý thuyết và thực hành cũng
như thể hiện rõ sự liên quan mật thiết giữa nội dung, phương pháp đào tạo với
những thay đổi diễn ra trong thế giới lao động.
ĐTN không còn được xem là một giai đoạn ngắn trước khi bước vào
quá trình lao động, mà ĐTN thực sự là một quá trình đào tạo lâu dài gắn liền
với những hoạt động giáo dục khác nhau. ĐTN hiện nay không còn chỉ là một
hoạt động được định hướng nhằm rèn luyện cho người lao động những kỹ
năng cần thiết cho việc đảm nhận một vị trí nghề nghiệp nhất định mà là thiết
chế cung cấp và tăng cường những năng lực cần thiết cho người lao động
tham gia vào một phạm vi rộng lớn hơn của thị trường lao động. Điều này
xuất phát từ những thay đổi trong khuôn mẫu tổ chức lao động cũng như
những thay đổi trong nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Thị trường lao

22
động cũng ngày càng có nhiều biến động, người lao động luôn phải đối mặt
với những thay đổi trong quá trình làm việc và để không bị bỏ lại sau lưng,
không sớm trở nên thất nghiệp, người lao động không chỉ cần có vài kỹ năng
hay kiến thức bó hẹp trong một phạm vi nhỏ mà trái lại họ cần có năng lực
tổng hợp có thể đáp ứng được nhiều nhu cầu phức tạp khác nhau của các vị trí

nghề nghiệp trong thị trường lao động.
Theo tác giả, khái niệm ĐTN như sau: “là trang bị kiến thức lý thuyết
và kỹ năng thực hành cho người lao động về một hoạt động nghề, một
nghề”. Và ĐTN gồm bất cứ 1 loại hình đào tạo nào nhằm nâng cao năng lực
cho người lao động như tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo với khung thời gian
tương ứng.
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi:
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đăng Thành [60, tr. 20] “vùng
đồng bào dân tộc thiểu số là vùng tộc người thường thể hiện dưới hình thức
các nhóm tộc người, hoặc một tộc người là một nhóm cư dân bao gồm các
thành viên đồng nhất với nhau dựa trên cơ sở phả hệ hoặc tổ tiên được giả
định là chung hoặc được những tộc người khác hoặc các nhóm khác thừa
nhận là một nhóm riêng biệt, hoặc bằng các đặc điểm thể chất, tôn giáo, ngôn
ngữ và văn hóa chung”.
Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ
về công tác dân tộc có viết: “Vùng dân tộc thiểu số là địa bàn có đông các dân
tộc thiểu số cùng sinh sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Liên quan đến khái niệm này, cũng cần hiểu về khái niệm dân tộc thiểu
số. Nghị định 05 ghi rõ “Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so
với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, là các dân tộc có số dân chiếm dưới 50% tổng số dân của cả nước, theo
điều tra dân số quốc gia. Như vậy, ở nước ta người Kinh là dân tộc đa số, các
dân tộc khác là dân tộc thiểu số.

23
Cụm từ Vùng dân tộc thiểu số và miền núi lâu nay được dùng như một
danh từ hơn là một khái niệm, để nói đến nơi cư trú của đồng bào các dân tộc
thiểu số - nơi đó chủ yếu là vùng miền núi. Tuy nhiên, nhiều vùng miền núi
nước ta hiện nay, đồng bào Kinh chiếm số lượng lớn hơn các dân tộc khác; và

cũng có một số các dân tộc thiểu số như Chăm, Hoa, Khơ Me hay Sán Chay
lại sinh sống chủ yếu ở trung du và đồng bằng. Vì vậy, vùng dân tộc thiểu số
và miền núi được gộp chung trong một danh từ.
Theo người nghiên cứu, vùng dân tộc thiểu số và miền núi là nơi sinh
sống của các dân tộc có số lượng nhiều hơn số lượng người dân tộc Kinh
cùng trên địa bàn.
Trong 64 tỉnh, thành phố cả nước có tới 54 tỉnh thuộc địa bàn vùng dân
tộc và miền núi, bao gồm: 12 tỉnh vùng cao, 9 tỉnh miền núi, 23 tỉnh có
huyện, xã miền núi và 10 tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long nơi
có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống [73, tr.29].
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta có một số đặc điểm lớn như sau:
Là vùng có các tộc người sinh sống phân tán và xen kẽ nhau. Tình
trạng đó có mặt tích cực là tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, hòa hợp và xích
lại gần nhau giữa các tộc người; nhưng mặt khác là dễ xuất hiện mâu thuẫn,
tranh chấp về lợi ích, nhất là kinh tế do chưa thật sự hiểu nhau, khác nhau về
phong tục tập quán [60, tr.33].
Đây là vùng chiến lược trong sự phát triển của đất nước. Tài nguyên
rừng và đất rừng là những tiềm năng nổi bật để phát triển kinh tế. Hơn nữa,
vùng DTTS và MN còn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an
ninh trong việc bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Hiện nay, vùng DTTS
và MN đang gặp phải nhiều thách thức trong đấu tranh bảo vệ đoàn kết các
tộc người, biên giới đất nước; bảo vệ tài nguyên đang bị khai thác bừa bãi
So với vùng đồng bằng, kinh tế - xã hội của vùng DTTS và MN phát
triển chậm hơn. Hầu hết các tộc người sinh sống bằng hoạt động nông nghiệp,
chủ yếu là ruộng lúa nước và nương rẫy; hoạt động sản xuất hàng hóa, thương

24
mại, dịch vụ còn kém phát triển. Đời sống của người dân còn thiếu thốn, khó
khăn, đặc biệt tình trạng đói nghèo vẫn chưa được giải quyết. Mối quan hệ
dòng họ, gia đình còn giữ vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống.

Cũng vì thế, trong từng khu vực cư trú thì những quan hệ của tộc người có số
lượng cư dân đông chi phối tộc người khác có số lượng ít hơn [60, tr.235].
Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng đa dạng nhưng thống nhất trong nền
văn hóa của cư dân dựa trên nền nông nghiệp trồng lúa. Trong quá trình giao
lưu, tiếp xúc giữa các tộc người, nhiều yếu tố văn hóa đang mờ nhạt dần.
Trình độ dân trí thấp là thực trạng của nhiều dân tộc vùng DTTS và
MN. Tình trạng này đang là rào cản lớn cho người dân tiếp nhận thông tin,
kiến thức, mở rộng mạng lưới quan hệ xã hội dễ dẫn đến xu hướng bị cô lập
và lạc hậu. Trình độ học vấn thấp có thể là nguyên nhân của nhiều vấn đề
kinh tế, xã hội mà trước nhất là sự phát triển nguồn nhân lực [60, tr.252].
Có thể nói, vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện là vùng “yếu thế” so
với các vùng khác trên đất nước. Đặc biệt, trong thời kỳ Việt Nam là thành
viên của WTO thì vùng dân tộc thiểu số và miền núi có cơ hội nhỏ hơn nhưng
chịu thách thức lớn hơn so với các vùng khác.
Lao động vùng dân tộc thiểu số:
Theo nghiên cứu của Trịnh Quang Cảnh [17], lao động vùng dân tộc
thiểu số có những đặc điểm cơ bản sau: Trình độ thể lực kém do mức sống
thấp, điều này ảnh hưởng đến năng suất lao động và sự phát triển kinh tế.
Trình độ giáo dục chưa cao, trình độ kỹ năng nghề kém, ảnh hưởng đến năng
suất và sự phát triển nhanh và bền vững của kinh tế - xã hội. Hơn nữa, lao
động vùng dân tộc thiểu số còn mang nặng tư tưởng và tâm lí, tác phong sản
xuất tiểu nông, thậm chí ỷ lại, trông chờ, bảo thủ và ngại thay đổi.
Trong lực lượng lao động vùng dân tộc thiểu số, lao động thanh niên là
lực lượng lao động nắm giữ vai trò quan trọng, trụ cột trong việc phát triển
kinh tế - xã hội. Về mặt xã hội truyền thống ở một số dân tộc thiểu số vẫn
mang đậm chế độ mẫu hệ nhưng thanh niên vẫn là nòng cốt cho sự phát triển.
Ngoài những đặc điểm chung của thanh niên trên cả nước nói chung như:

25
năng động, sáng tạo, luôn hướng tới cái mới, nhanh nhạy trong tiếp thu kiến

thức mới và kỹ thuật mới tuy nhiên cũng dễ nảy sinh tâm lý tiêu cực khi vấp
ngã trong quá trình học tập và làm việc. Thanh niên dân tộc thiểu số có những
đặc điểm:
- Sống trong điều kiện môi trường tự nhiên nhiều thiên tai, kinh tế - xã
hội chưa phát triển mạnh.
- Cũng chính vì vậy, thanh niên chưa có nhiều cơ hội để học tập và phát
huy tiềm lực.
- Môi trường xã hội còn mang tính chất đơn thuần, giản dị vì thế họ dễ
bị lôi kéo và dụ dỗ vào những việc làm xấu.
Hiện nay với sự đầu tư lớn của Nhà nước đối với vùng dân tộc thiểu số
và miền núi đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và nâng cao
chất lượng nguồn lao động nói riêng. Điều này là phù hợp với một trong
những mục tiêu hàng đầu của đất nước là phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng
yêu cầu mới của thời kỳ hội nhập kinh tế.
1.1.2. Một số lý thuyết về phát triển được áp dụng trong nghiên cứu
Vốn xã hội:
Vốn xã hội là khái niệm khá mới, chưa được sử dụng nhiều ở Việt Nam
và đôi khi được sử dụng nhầm với khái niệm nguồn lực xã hội. Vốn xã hội
bao gồm những thành tố trừu tượng với phạm trù rộng lớn, và bao chứa cả
những yếu tố của nguồn lực xã hội, nhưng hai khái niệm này là hoàn toàn
khác nhau.
Vốn xã hội được định nghĩa là những sự ràng buộc lẫn nhau do người ta
đặt ra hay tuân giữ khi giao dịch hay khi chung sức làm một việc gì đó; nó
còn được gọi là những ràng buộc xã hội (social bonds) hay các hành vi mẫu
mực (norms) hoặc quy tắc (rules) xã hội và chúng là những yếu tố quan trọng
cho sự bền vững của cuộc sống [12].
Tài liệu [29], có viết một số nội dung về “vốn xã hội” như sau: Với
phương Tây, khái niệm “vốn xã hội” (social capital) được Lyda Judson

26

Hanifan, một nhà giáo dục Mỹ, nói đến lần đầu tiên năm 1916 khi ông ta bàn
đến vấn đề quan hệ trong các trường ốc ở vùng thôn dã tại Bắc Mỹ. Để nói
về vốn xã hội, ông xác định rằng: “những giá trị hiện thực đó có tác dụng lên
hầu hết cuộc sống hàng ngày của con người”. Ngân Hàng Thế Giới xác định
rằng: “bằng chứng mỗi ngày một nhiều chỉ rõ rằng, sự liên kết xã hội là rất
thiết yếu cho các xã hội trong việc làm giàu mạnh kinh tế và cho việc phát
triển tiến lên không ngừng”.
Trong khi vốn vật chất (physical capital) nói đến các vật thể hiện hữu
và vốn nhân sinh (human capital) nói đến tài sản cá nhân thì vốn xã hội nói
đến liên hệ nối kết giữa những con người. Đấy là mạng lưới xã hội với những
tiêu chuẩn giao dịch qua lại trong sự tin tưởng lẫn nhau và đồng thời đó cũng
là đạo lý cư xử giữa người và người trong xã hội. Theo định nghĩa của Ngân
Hàng Thế Giới thì vốn xã hội là những gì liên quan đến các cơ sở, các mối
quan hệ và những giá trị truyền thống. Tất cả cùng hợp sức tạo nên chất lượng
và số lượng của thành phẩm làm nên bởi sự tương giao hợp tác trong xã hội…
Vốn xã hội không phải chỉ đơn thuần là sự tổng hợp những khối lượng vật
chất của xã hội mà là chất keo làm dính chặt những khối lượng tài sản xã hội
này lại với nhau. Các nhà nghiên cứu về nguồn vốn xã hội trong tương quan
kinh tế đều đồng ý với nhau rằng, một nền kinh tế lành mạnh trong một đất
nước có kỷ cương và văn hiến không thể nào thiếu vắng nguồn vốn xã hội.
Các nhà nghiên cứu phải lưu ý đến ba định mức của vốn xã hội: (1)
Mức độ vốn xã hội vi mô, (2) mức độ vốn xã hội trung mô, và (3) mức độ vốn
xã hội vĩ mô. Ba định mức này liên quan đến: (1) Cá nhân, (2) gia đình,
trường học, cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, và (3) xã hội, đất nước và toàn cầu.
Mối liên hệ hữu cơ là: (1) Nếu cá nhân không được chuẩn bị kỹ càng; (2) nếu
nghiệp vụ không được đào tạo, huấn luyện nghiêm túc; (3) kết quả sẽ tạo ra là
những thành viên xã hội có chất lượng nghèo nàn và hệ quả tất yếu là sẽ làm
cho nguồn vốn xã hội suy thoái hay khánh tận.
Nói một cách cụ thể hơn về vốn xã hội, Cohen và Prusak (2001) định
nghĩa: “Vốn xã hội bao gồm phần lớn sự hợp tác xây dựng giữa những con


27
người với nhau: Sự tin tưởng, sự hiểu biết lẫn nhau, và sự chia sẻ những giá
trị đạo đức, phong cách nối kết những thành viên trong các tập đoàn, các
cộng đồng lại với nhau làm cho việc phối hợp hành động có khả năng thực
hiện được”.
Như vậy, vốn xã hội chính là con người. Trong khi con người lại chính
là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội hiện hữu và phát triển trong một hoàn
cảnh kinh tế, một bối cảnh lịch sử, một truyền thống văn hóa cụ thể nào đó.
Trình độ dân trí, truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết, truyền
thống văn hóa cùng với biết bao nhiêu giá trị khác dân tộc ta đã hun đúc nên
được trong suốt chiều dài lịch sử của mình cho đến nay là những nhân tố rất
quan trọng cho phép nước ta tiếp tục nhân lên vốn xã hội của mình.
Lý thuyết vốn con người:
Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng quá trình sản xuất gồm 3 yếu tố vốn
cơ bản là: đất đai, cơ sở vật chất và lao động. Tác phẩm “Của cải của các
quốc gia” (1776) của nhà kinh tế học Adam Smith đã tạo dựng nền móng cho
cái mà sau này người ta gọi là khoa học về vốn con người. Trong 2 thế kỷ sau
đó, có thể phân biệt 2 trường phái quan điểm khác nhau về lĩnh vực này:
trường phái thứ nhất phân biệt rõ ràng giữa những yếu tố có thể coi là “vốn”
(như tiền bạc, tài sản, đất đai ) với yếu tố con người, không coi con người có
thể được đánh đồng với những yếu tố trên; trường phái thứ hai coi con người
cũng là một nguồn vốn.
Vốn con người là một khái niệm bắt nguồn từ kinh tế học dùng để chỉ
học vấn, tay nghề, kĩ năng lao động của người lao động. Khái niệm này đã
được Adam Smith chỉ ra và được nhắc đến thường xuyên trong các tài liệu
kinh tế từ cuối thế kỉ XIX. Sự ra đời của khái niệm vốn con người là sự khai
sinh cho một tân lý thuyết về vốn, bởi trước đó, nói đến vốn con người ta chỉ
nghĩ đến vốn tài chính. Tổng thống Hoa Kỳ Theodore W. Schutlz đã trình bày
quan điểm có hệ thống đầu tiên về vốn con người, ông cho rằng “sự thất bại

trong sử dụng nguồn vốn con người rõ ràng với tư cách là một loại hình vốn,
một loại phương tiện sản xuất và một sản phẩm của đầu tư được duy trì bởi

×