Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Năng lực nghề nghiệp nhà giáo trong quản lý chất lượng giáo dục phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.06 KB, 11 trang )

Năng lực nghề nghiệp nhà giáo trong quản lý chất lượng
giáo dục phổ thông
Mục đích : - Thông tin, trao đổi với CBQL trường học nhưng kỹ
năng nghề nghiệp cơ bản của nhà giáo mà IBSTPI công bố năm
2003, giơí thiệu mẫu đánh giá giờ dạy của GV hướng vào việc hình
thành những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản đó.
- Giúp HT các trường PT xác định và có thể áp dụng để
QL chất lượng GD thông qua thành tố trung tâm, cơ bản nhất đó là
năng lực nhà giáo trong mối quan hệ chung với một số thành tố khác.
-Cung cấp thêm thông tin giúp cho CBQL nhà trường
tham khảo trong quản lý đổi mới PPGD.
Nội dung :

I.Một vài quan niệm
Thứ nhất,về thuật ngữ chất lượng giáo dục:
Trước những vấn đề liên quan sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã
hội như giáo dục và chất lượng giáo dục thì rất khó có thể theo đuổi
một sự thống nhất tuyết đối mà phải chấp nhận trạng thái có được nhận
thức giống nhau ở mức độ thích hợp trên những vấn đề cơ bản.
Trong cuộc sống có rất nhiều điều ai cũng hiểu nhưng nếu cố mà định
nghĩa và hiểu cho chính xác thì lai càng làm cho vấn đề mù mờ hơn.
Chẳng hạn, 1 cái cây, 1 hạt lúa, 1 cái bút… thì ai cũng hiểu, nhưng 1 là
gì thì rất ít người hiểu được ( mà cũng không cần thiết ai cũng phải
hiểu). Cũng gần tương tự, em A học giỏi hơn em B, Thầy C dạy giỏi
hơn thầy D, chất lượng lớp E tốt hơn lớp F…thì có vẻ dễ thống nhất, ít
ra là ở những biểu hiện cơ bản. Tôi nghĩ rằng những nhà quản lý,
những ai làm giáo dục và có quan tâm đến giáo dục theo cùng định
hướng mục tiêu mà thể chế đề ra thì đều có cách hiểu về chất lượng
giáo dục và các cách hiểu đó nói chung là gần giống nhau trên những
vấn đề cơ bản dù họ tiếp cận theo hướng nào ( tiếp cận theo kiểu tiên
nghiệm, tiếp cận dựa trên giá trị, tiếp cận theo yêu cầu sử dụng, tiếp cận


theo hướng cung ứng…)
Thứ hai, Làm quản lý giáo dục có lẽ trước hết cần thống nhất rằng
nâng cao chất lượng giáo dục là một quá trình, phải hoàn thiện từng
bước. Những phương án hành động, mỗi sự thay đổi trong giáo dục
phải được thực tiễn kiểm chứng, làm cho phong phú và phát triẻn,
không có trường hợp ngoại lệ.
Việt nam sau 20 năm đổi mới, bên cạnh những thành tưu to lơn về
kinh tế, giáo dục cũng đã có những bước phát triển khá ân tượng mặc
1
dầu tỷ lệ đầu tư cho GD từ GDP còn khá thấp so với các nước trong khu
vực (đầu tư từ GDP cho GD của Việt nam là 2,3%, Malaixia là 7,9%,
Thái lan là 5,0%, hàn quốc là 3,6%, trong khi đó GDP của Viết nam và
các nước kể trên còn có khoảng cách khá xa
(1)
.
Những bất cập của giáo dục như trong Báo cáo của Chính phủ không
phải là sự bất cập của các nguyên tắc, nguyên lý phát triển mà là sự bất
cập giữa mong muốn với thực tiễn và việc lựa chọn của một số phương
án cụ thể.
Ỏ nước ta và cũng như nhiều nước khác đang có những phương án thí
điểm, có phải điều chỉnh chỗ này chỗ khác thì cũng nên xem là việc
bình thường.
Thứ ba, con đường tiến bộ của tri thức và của giáo dục hình như cần
được suy xét ít nhất từ hai cực đối ngẫu hướng lại với nhau : vĩ mô và vi
mô. Trong giáo dục đó là chiến lược và Năng lực nhà giáo, hai yếu tố
đó hướng vào nhau, định hướng ràng buộc nhau làm nẩy sinh và góp
phần hình thành và quyết định hiệu quả các phương án hành động nâng
cao chất lượng giáo dục.
- Để nhận thức về vật chất và sự vận động, từ rất xưa con người đã
quan tâm đến nghiên cứu vũ trụ và thành phần của vật chất. Những

thành tựu vỹ đại làm thay đổi tư duy, nhận thức và cả đời sống XH
trong thế kỷ 20 là Thuyết tương đối và Cơ học lượng tử quan tâm
đến cấu trúc cực vĩ của vũ trụ và và trạng thái vi mô của vật chất.
Hai lĩnh vực có vẻ đối ngẫu đó có khi không hoàn toàn tương thích
nhưng bổ sung cho nhau và quyết định sự phát triển của Vật lý hiện
đại.
- Darwin nghiên cứu về sự tiến hoá của muôn loài, Morgan nghiên
cứu về cấu trúc gen, hai lĩnh vực vĩ mô và vi mô đó quyết định sự
phát triển của Sinh học và các khoa học sự sống.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh bên cạnh các hoạt động , nghiên cứu đề ra
đường lối sách lược giả phong danh tộc, xây dựng quốc gia Người
còn đặc biệt chú ý đến các hành vi văn hoá, ứng xử cá nhân và xây
dựng quan hệ cộng đồng. Cái chung làm nên Anh hùng giải phóng
dân tộc, nét riêng làm nên Danh nhân văn hoá thế giới.
……
Giáo dục liên quan đến tất cả cho nên có quá nhiều vấn đề cần phải
quan tâm, nhưng để giáo dục có chất lượng (phù hợp) thì cần bắt đầu từ
đâu? Đối với các doanh nghiệp cái được quan tâm đầu tiên là chiến lược và
tác nghiệp. Đối với các cơ sở giáo dục theo chúng tôi cũng sẽ là chiến lược
phát triển và năng lực nghề nghiệp cơ bản của nhà giáo.
Về chiến lược phát triển:
2
- Đối với toàn cầu , giáo dục đang đứng trước những cặp mâu thuẩn
tiến thoái lưỡng nan : giữa toàn cầu và cục bộ; giữa truyền thống và
hiện đại, giữa chiến lược dài hạn và yêu cầu ngắn hạn; giữa quy mô
và chất lượng; giữa cạnh tranh và bình đẳng về cơ hội; giữa sự phát
triển quá nhanh của tri thức KH và khả năng có hạn của con người;
giữa vật chất và tinh thần. Đối với bài toán quy hoạch, với hàm
mục tiêu là chất lượng giáo dục, với các điều kiẹn buộc là nhiều
cặp yêu cầu mâu thuẫn nhau thì phương án trả lời là : xây dựng xã

hội học tập và học tập suốt đời là tối ưu và có lẽ là lời giải duy
nhất. Nhưng xin bình luận thêm : trước những vấn đề xã hội, tìm
được phương án chấp nhận được đã là may mắn. Ở đây UNESCO
lai đưa ra phương án tối ưu ( theo tôi), khi đã quá hoàn hảo có lẽ sẽ
rất khó thực thi, cần phải lấy hoàn cảnh thực tiễn là điểm xuất phát.
- Đối với Việt nam : Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Những định
hướng chiến lược, quan điểm phát triển giáo dục, tầm quan trọng
của chất lượng nhà giáo đã được nói đến nhiều trong các văn kiện
quan trọng, thể hiện ước nguyện cao cả của nhân dân là phát triển
và hội nhập quốc tế.
- Vấn đề quan trọng và cũng đang còn có nhiều khó khăn lung túng
là mỗi Trường, mỗi Hiệu trường phải có và kiên trì theo đuổi mội
chiến lược chất lượng cụ thể và phù hợp hoàn cảnh.
Về phương châm thực hiện trong quản lý chất lượng :
Về nâng cao chất lượng nhà giáo đã được khẳng định trong Chỉ
thị 40/CT-TƯ và cụ thể hơn trong quản lý, đặt yêu cầu và hỗ trợ xây dựng
năng lực nghề nghiệp cơ bản của nhà giáo là yếu tố đầu tiên và quan trọng
nhất để đảm bảo sự thành công mục tiêu chất lượng của mỗi cơ sở
GD&DDT và mục tiêu chất lượng quốc gia.
Thứ tư, Mục tiêu của quản lý giáo dục phổ thông là chất lượng và sự
bình đẳng.
Đã đến lúc cần phải nhanh chóng tiến tới trạng thái loại bỏ sự đối
lập giữa chất lượng và sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận trong GDPT. Không
có bình đẳng thì khó nói đến chất lượng và hiệu quả.
Khó khăn nhất của việc giải quyết bình đẳng trong GDPT tập trung ở
đối tượng thiệt thòi, giáo dục có chất lượng hơn càng quan trong đối với họ
vì chỉ có thể từ đó mới tạo cho họ được sự tự tin và ý chí thay đổi cuộc
sống. Năng lực nghề nghiệp cơ bản của thầy giáo là yếu tố tiên quyết để
hỗ trợ trẻ dễ dàng hơn trong tiếp nhận tri thức, rèn luyên kỹ năng, thu nhận
và xử lý thông tin và tự tin hơn trong quan hệ ứng xử.

II. Quản lý hướng vào việc xây dựng và nâng cao kỹ năng
nghề nghiệp nhà giáo.
Trong quản lý chất lượng giáo dục bao gồm các hoạt động:
3
- Lập chính sách chất lượng.
- Hoạch định chất lượng.
- Kiểm soát chất lượng.
- Đảm bảo chất lượng.
- Cải tiến và thích ứng.
Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến việc quản lý nhằm tạo lập và nâng
cao kỹ năng nghề nghiệp nhà giáo- yếu tố đóng vai trò cơ sở cho các
hoạt động quản lý chất lượng giáo dục vừa nêu ở trên.
2.1 Trước hết chúng tôi xin nêu hai hiện tượng :
Thứ nhất, Chúng tôi được truyền lại rằng trong thời kỳ chín năm
kháng chiến, ở quê tôi có hai trường cấp III là Phan Đình phùng và
Huỳnh Thúc Kháng, điều kiên thì gian khổ, bằng cấp thầy giáo thì
không cao (so với bằng cấp quy định bây giờ thì phần đông là dưới
chuẩn), tài liệu sách vở thì quá thiếu nhưng chất lượng dạy và học là rất
đang ngưỡng mộ và lưu truyền cho đến ngày nay, tỷ lệ HS thành danh
các trường đó là rất đáng nể phục, cái gì làm nên chất lượng đó?
Thứ hai, Ở các nước phát triển, chương trình, nội dung, sách giáo
khoa của họ (ở các môn KH tự nhiên) so với của chúng ta thì cơ bản
cũng như nhau, thâm chí có một số phần họ còn đưa nhiều hơn, nhưng
sao HS của mình học hành nhiều và tất bật đến thế, trong khi HS của họ
không quá phải vất vả với bài vở. Có nhiều người cho là do sự cạnh
tranh quá gay gắt trong tuyển sinh ĐH, điều đó đúng nhưng chắc là còn
lý do khác , giáo viên của họ chủ dông và linh hoạt hơn trong việc hỗ
trợ HS, cái gì tạo ra sự chủ động và linh hoạt của GV trong giảng dạy
và giáo dục ?
Trong quá trình tìm kiếm câu trả lời từ góc độ quản lý dần dà chúng

tôi nhận ra rằng ở trường hợp trên và các tình huống tương tự thì năng
lực nghề nghiệp của thầy giáo đã quyết định , và có lẽ trong tập hợp các
yếu tố làm nên năng lực đó thì có một bộ phận rất quan trong không quá
phụ thuộc vào trình độ được đào tạo, không quá phụ thuộc vào môi
trương xung quanh, không quá phụ thuộc vào sỹ số… Các yếu tố đó
hình thành nên những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản. Chính những kỹ
năng nghề nghiệp cơ bản của giáo viên là cơ sở để quyết định chất
lượng giáo dục.
2.2 Trong quản lý giáo dục phổ thông cần yêu cầu GV có những kỹ
năng nghề nghiệp cơ bản trước khi yêu cầu họ áp dụng các phương
pháp dạy học mới.
Trong nhiều năm qua, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã
nhận thức được tầm quan trọng của phương pháp dạy và học. Những
vấn đề lý luận, những phương pháp dạy học mới được nghiên cứu và
cũng đã có những nỗ lực trong việc hướng dẫn giáo viên triển khai áp
4
dụng thông qua các lớp bồi dưỡng chuyên đề và bồi dưỡng thường
xuyên. Khi biên soạn sách giáo khoa mới ,dưới sự chỉ đạo của Hội
đồng biên soạn Quốc gia, các nhóm tác giả đã có nhiều cố gắng hướng
dẫn, định hướng các phương pháp dạy học. Mặc dầu vậy, nhiều giáo
viên vẫn lúng túng và thực hiện chưa có hiệu quả.
Trong thực tế vẫn tồn tại một số câu hỏi mà Hiệu trưởng và các Nhà
quản lý không dễ trả lời :
- Dạy học nêu vấn đề, dạy học theo phương pháp kiến tạo,…, rất hay
nhưng thời gian đâu ? Học sinh bây giờ phải học nhiều thứ, nhiều
môn, môn nào cũng quan trọng cả bởi vậy số tiết lên lớp của mỗi
môn nói chung là bị giảm trong khi đó nội dung có được giảm tải
nhưng vẫn phải đảm bảo tính cơ bản và bảo đảm so với mặt bằng
của khu vực và quốc tế.
- Cần phải thực hiện giảng dạy trên thực địa, phải đưa HS xâm nhập

vào thực tiễn…, nhưng kinh phí đâu?
- Cần phải áp dụng công nghệ thông tin trong dạy và học, nhưng may
tính đâu?
Thầy chưa có máy tính, chưa thành thạo thi làm sao có thể áp dụng?
……

Khi đã không trả lời được thì đó lại là lý do để giáo viên cứ dạy
như cũ mà không cần day dứt và Hiệu trưởng cũng khó bề can thiệp.
Để tránh những câu hỏi đại loại như vậy chỉ còn cách, trước hết yêu
cầu ở giáo viên cần có những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản, những kỹ
năng đó độc lập với hoàn cảnh môi trường, với quản lý hành chính,
không phụ thuộc vùng miền, không phụ thuộc sỹ số lớp học…
Vậy những kỹ năng cơ bản đó là gì?
IBSTPI
(3)
đã công bố 18 kỹ năng cần có đối với mỗi nhà giáo, được
chia thành 4 nhóm :
I) Những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản
II) Kế hoạch và chuẩn bị
III) Phương pháp và chiến lược
IV) Đánh giá
V) Quản lý
Nhóm I) Những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản :
1. Giao tiếp có hiệu quả thông qua các hình thức nói, viết và nhìn
2. Cập nhật và nâng cao kiến thức.
3. Tôn trọng những đạo tiêu chuẩn đạo đức, ứng xử và pháp luật.
4. Xây dựng và duy trì sự tín nhiệm trong nghề nghiệp.
Có thể nói rằng những yêu cầu trên đâu đó đã được các Hiệu trưởng
nhắc đến nhưng chưa được thường xuyên chú trọng và nhấn mạnh.
5

×