1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÙI BÍCH HÀ
TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ
NHU CẦU CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI ĐIỀU KIỆN
SINH HOẠT, LÀM VIỆC VÀ ĐÀO TẠO CHUYÊN MÔN
(Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
Hà Nội - 2009
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài: 6
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: 8
2.1. Ý nghĩa lý luận: 8
2.2. Ý nghĩa thực tiễn 8
3. Mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu: 8
3.1. Mục đích nghiên cứu: 8
3.2.Câu hỏi nghiên cứu: 9
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu: 9
4. Đối tượng, khách thể: 9
4.1. Đối tượng nghiên cứu: 9
4.2. Khách thể nghiên cứu: 9
5. Phạm vi nghiên cứu và thời gian nghiên cứu: 9
6. Phương pháp nghiên cứu: 10
6.1. Phân tích tài liệu thứ cấp: 10
6.2. Phương pháp phỏng vấn sâu: 11
6.3. Phương pháp thảo luận nhóm: 11
6.4. Phương pháp quan sát: 11
7. Giả thuyết nghiên cứu: 12
8. Khung lý thuyết: 13
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH 14
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 14
1.1. Cơ sở lý luận : 14
1.1.1. Các lý thuyết tiếp cận: 14
1.1.1.1. Lý thuyết phân công lao động: 14
1.1.1.2. Lý thuyết trao đổi xã hội: 15
1.1.1.3. Các lý thuyết liên quan tới di dân: 17
1.1.2. Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu: 19
1.1.2.1. Khái niệm "Gia đình": 19
1.1.2.2. Khái niệm "Lao động", "Người lao động": 19
1.1.2.3. Khái niệm "Dịch vụ giúp việc gia đình": 20
1.1.2.4. Khái niệm “Người giúp việc gia đình”: 20
1.1.2.5. Khái niệm “Hoạt động giúp việc gia đình”: 21
1.1.2.6. Khái niệm “Nhu cầu”: 21
1.1.2.7. Khái niệm “Chuyên môn”, “Đào tạo", "Đào tạo chuyên môn": 22
3
1.2. Cơ sở thực tiễn: 23
1.2.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu: 23
1.2.2. Tổng quan địa bàn nghiên cứu: 27
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI 32
2.1. Một số đặc trưng nhân khẩu - xã hội của người giúp việc gia đình và hộ gia
đình thuê người giúp việc: 32
2.1.1. Nhóm người giúp việc gia đình: 32
2.1.2. Hộ gia đình thuê người giúp việc: 33
2.2. Thực trạng hoạt động giúp việc tại Hà Nội hiện nay: 35
2.2.1. Lý do lựa chọn nghề giúp việc và nguồn giới thiệu: 35
2.2.2. Các loại hình công việc: 38
2.2.3. Thù lao của người giúp việc gia đình: 41
2.2.4. Tiền thưởng, phần thưởng và việc thoả mãn nhu cầu tinh thần của
người giúp việc: 46
2.2.5. Điều kiện làm việc của người giúp việc: 51
2.2.6. Kỹ năng của người giúp việc gia đình: 53
2.2.7. Những lợi ích và khó khăn của hoạt động giúp việc gia đình: 54
Chương 3: NHU CẦU CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI ĐIỀU KIỆN 74
SINH HOẠT, LÀM VIỆC VÀ ĐÀO TẠO CHUYÊN MÔN 74
3.1. Nhu cầu của người giúp việc với điều kiện sinh hoạt: 74
3.2. Nhu cầu của người giúp việc với điều kiện làm việc: 78
3.2.1. Mức thù lao: 79
3.2.2. Thời gian làm việc: 82
3.2.3. Cách đối xử của người thuê và địa vị của người giúp việc: 83
3.2.4. Sự bảo đảm các quyền lợi, cam kết, hợp đồng: 86
3.3. Nhu cầu của người giúp việc với đào tạo chuyên môn: 87
3.3.1. Nội dung đào tạo: 87
3.3.2. Người chịu trách nhiệm đào tạo chuyên môn: 92
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 96
1. Kết luận: 96
2. Khuyến nghị: 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
PHỤ LỤC 104
4
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Thứ tự
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Nghề nghiệp của người được hỏi
30
Bảng 2.2
Thu nhập từ công việc trước khi làm giúp việc gia đình
32
Bảng 2.3
Nguồn giới thiệu công việc cho người giúp việc gia đình
33
Bảng 2.4
Nội dung công việc của người giúp việc gia đình
35
Bảng 2.5
Số tiền gửi về nhà hàng tháng
40
Bảng 2.6
Mục đích sử dụng của nguồn tiền gửi về gia đình
41
Bảng 2.7
Thời gian dành cho việc về thăm nhà của người giúp việc
44
Bảng 2.8
Lý do không ký kết hợp đồng lao động
49
Bảng 3.1
Lý do muốn chuyển sang gia đình khác làm việc của người
giúp việc
76
Bảng 3.2
Nhu cầu của người giúp việc về người đào tạo chuyên môn
87
5
DANH MỤC BIỂU SỐ LIỆU SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Thứ tự
Tên biểu
Trang
Biểu đố 2.1
Tương quan giữa độ tuổi người giúp việc và tiền công
hàng tháng
38
Biểu đồ 2.2
Khó khăn của người giúp việc gia đình
66
Biểu đồ 3.1
Nhu cầu của người giúp việc đối với điều kiện sinh hoạt
71
Biểu đồ 3.2
Nhu cầu của người giúp việc đối với điều kiện làm việc
74
Biểu đồ 3.3
Mong muốn được đào tạo của người giúp việc theo các
nội dung đào tạo
84
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm vừa qua, cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế,
đất nước chúng ta đã có những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế-xã hội. Đời
sống vật chất và tinh thần của hầu hết các gia đình đã có sự thay đổi căn bản, nhất là
ở khu vực đô thị. Số lượng các gia đình có mức thu nhập ổn định và đời sống kinh
tế ở mức trung bình ở các thành phố lớn ngày càng tăng nhanh. Tuy nhiên, đồng
hành với sự phát triển kinh tế tương đối nhanh là sự phân hóa về thu nhập ngày
càng lớn giữa các nhóm xã hội, đặc biệt giữa nông thôn và đô thị. Trong khi nhiều
gia đình ở đô thị có thu nhập ngày càng được cải thiện và họ có nhu cầu thuê người
giúp việc gia đình để dành thời gian cho những công việc có thu nhập cao ở ngoài
xã hội và nghỉ ngơi, thì nhiều gia đình ở các khu vực nông thôn, dưới tác động của
việc giải thể các hợp tác xã nông nghiệp và khoán hộ gia đình, thu hẹp diện tích đất
sản xuất nông nghiệp nên có thu nhập thấp và thừa lao động.
Kết quả của cuộc Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 đã chỉ ra rằng kinh tế là
nguyên nhân có tác động lớn nhất tới việc di cư của người dân [24]. Qui luật về
cung cầu lao động cùng với sự tự do di chuyển được bảo đảm trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa một làn sóng những người lao động
nông thôn, trong đó có rất nhiều phụ nữ, ra các thành phố tìm việc làm. Một bộ
phận không nhỏ phụ nữ nông thôn đã ra đô thị để tham gia hoạt động giúp việc gia
đình.
Một khảo sát gần đây của Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em, Ủy
ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (trước đây) được tổ chức vào năm 2005 cho thấy
nhu cầu về dịch vụ giúp việc gia đình ở khu vực đô thị, đặc biệt là tại các thành phố
lớn, ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, việc đáp ứng những nhu cầu về dịch vụ giúp
việc gia đình đang diễn ra một cách tự phát. Hoạt động giúp việc gia đình, về mặt
quản lý nhà nước, chưa được coi là một nghề. Các quy định của pháp luật về lao
7
động giúp việc gia đình còn chung chung, trong khi đây là một hình thức lao động
với những đặc trưng riêng. [21]
Một mặt, các hoạt động giúp việc gia đình đã đáp ứng phần nào nhu cầu kinh
tế - xã hội của cả những gia đình sử dụng dịch vụ giúp việc và những gia đình có
lao động đi giúp việc. Việc sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình ở nhiều gia đình đã
giúp người phụ nữ và các thành viên gia đình giảm bớt gánh nặng công việc gia
đình, có nhiều thời gian hơn cho công việc ở ngoài xã hội, nghỉ ngơi và giải trí. Các
hoạt động giúp việc gia đình cũng góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở
một bộ phận dân cư, trong đó có nhiều phụ nữ nông thôn. Mặt khác, do chưa có
những biện pháp quản lý nhà nước cần thiết, nên có những dấu hiệu cho thấy, đã
nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội,
cũng như quyền lợi của các bên liên quan đến hoạt động này. Hiện tượng người
giúp việc bị đối xử thiếu công bằng, bị xâm hại thân thể hay những vụ việc hình sự
như người giúp việc lấy trộm tài sản, hoặc tùy tiện bỏ việc làm hoặc nghiêm trọng
hơn đe dọa tính mạng của gia đình người thuê đang trở thành những vấn đề gây bức
xúc dư luận xã hội
Nguồn cung chủ yếu của hoạt động giúp việc trong gia đình là những phụ nữ
nghèo từ nông thôn, họ có trình độ học vấn tương đối thấp, ít hiểu biết về đời sống
xã hội tại đô thị và hầu như chưa qua đào tạo bài bản về nghề giúp việc gia đình.
Việc gia nhập vào một gia đình khác với lối sống và hệ thống giá trị, chuẩn mực
khác biệt sẽ tạo ra những xung đột giữa gia đình thuê người giúp việc và người giúp
việc. Do vậy, họ sẽ gặp không ít khó khăn trong công việc của mình. Thêm nữa,
việc đào tạo kỹ năng cho người giúp việc, những cam kết và việc bảo vệ quyền lợi
cho cả hai phía người thuê và người được thuê hiện nay được thực hiện chưa bài
bản, tòan diện và thống nhất.
Trước thực tế ngày càng phổ biến của hoạt động giúp việc gia đình và những
vấn đề liên quan tới hoạt động này có liên quan tới nhiều gia đình ở cả khu vực đô
thị và nông thôn, tôi đã lựa chọn đề tài “Tìm hiểu hoạt động giúp việc gia đình và
nhu cầu của người lao động đối với điều kiện sinh hoạt, làm việc, đào tạo chuyên
8
môn. Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội” cho luận văn thạc sĩ của mình. Từ
đó đề xuất những khuyến nghị và giải pháp với hy vọng là những gợi ý cho các nhà
hoạch định chính sách trong việc quản lý lĩnh vực nghề nghiệp không còn mới mẻ
nhưng chưa nhận được nhiều sự quan tâm này.
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
2.1. Ý nghĩa lý luận:
Tìm hiểu và hệ thống hóa lại một số những nghiên cứu về dịch vụ giúp việc gia
đình đã có, những văn bản luật pháp có liên quan tới lĩnh vực này.
Vận dụng những lý thuyết xã hội học và một số cách tiếp cận vào việc nghiên
cứu đặc điểm loại hình giúp việc gia đình, nhu cầu của người giúp việc với điều
kiện làm việc, điều kiện sinh hoạt và việc đào tạo chuyên môn để góp phần đề xuất
những phương hướng, giải pháp quản lý cho các nội dung này.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu đặc điểm của loại hình giúp việc gia đình đang
tồn tại trên địa bàn thành phố Hà Nội, những nhu cầu của người giúp việc đối với
điều kiện làm việc, điều kiện sinh hoạt và việc đào tạo chuyên môn. Đề xuất các
khuyến nghị đối với Nhà nước, cơ quan quản lý và bản thân người lao động trong
việc xây dựng những chính sách đào tạo dành cho dịch vụ giúp việc gia đình đồng
thời là xây dựng chính sách bảo vệ quyền lợi, trách nhiệm của người giúp việc và
người thuê.
3. Mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nhằm làm rõ thực trạng hoạt động giúp việc gia đình hiện nay, qua đó
tìm hiểu nhu cầu về điều kiện sinh hoạt, làm việc cũng như việc đào tạo chuyên
môn của người giúp việc gia đình, nhằm đưa ra những kết luận, khuyến nghị giúp
cho việc xây dựng chính sách quản lý với dịch vụ giúp việc gia đình như một nghề
lao động chân chính.
9
3.2.Câu hỏi nghiên cứu:
Đề tài nhằm trả lời các câu hỏi như hiện nay hoạt động giúp việc gia đình ở
Hà Nội đang diễn ra như thế nào? Người giúp việc đang làm những công việc gì?
Điều kiện sống, làm việc của họ ra sao? Người giúp việc gia đình có nhu cầu đối
với việc thay đổi điều kiện sống, làm việc và đào tạo chuyên môn hay không?
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, xác định những khái niệm liên
quan.
- Tìm hiểu các hình thức giúp việc gia đình hiện có tại địa bàn nghiên cứu, qua tính
chất công việc, thời gian, cường độ lao động, thù lao, các chế độ đi kèm công việc.
- Tìm hiểu nhu cầu của người lao động về việc đảm bảo các điều kiện sống và làm
việc: nơi ở, chế độ ăn nghỉ, loại hình công việc, thời gian làm việc, chăm sóc sức
khỏe.
- Tìm hiểu nhu cầu được đào tạo chuyên môn của người lao động.
- Đưa ra một số khuyến nghị liên quan tới việc xây dựng chính sách quản lý hoạt
động của dịch vụ giúp việc gia đình và đào tạo nghề thuộc lĩnh vực này.
4. Đối tượng, khách thể:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động giúp việc gia đình tại Hà Nội và nhu cầu của người lao động đối
với điều kiện sinh hoạt, làm việc, đào tạo chuyên môn.
4.2. Khách thể nghiên cứu:
- Người lao động giúp việc gia đình ở Hà Nội.
- Đại diện hộ gia đình có thuê người giúp việc trong gia đình.
5. Phạm vi nghiên cứu và thời gian nghiên cứu:
* Phạm vi về địa bàn nghiên cứu: Hà Nội được chọn làm địa bàn nghiên cứu bởi
đây là thành phố có mức sống cao và họat động giúp việc gia đình được diễn ra
tương đối phổ biến hơn. Tại Hà Nội, nghiên cứu được chọn tiến hành tại phường
Vĩnh Phúc và Quán Thánh thuộc quận Ba Đình, phường Trung Hòa và Nghĩa Tân
thuộc quận Cầu Giấy, phường Cát Linh và Láng Hạ thuộc quận Đống Đa.
10
* Phạm vi nội dung nghiên cứu: Hoạt động giúp việc gia đình là một lĩnh vực bao
gồm nhiều nội dung khác nhau liên quan đến luật pháp, chính sách cũng như các
khía cạnh của vấn đề di dân hay ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa. Tuy nhiên, đề
tài này chỉ nhằm tìm hiểu về thực trạng dịch vụ giúp việc gia đình tại thành phố Hà
Nội, cụ thể hơn là về loại hình, tính chất và những yếu tố liên quan tới điều kiện làm
việc và sinh hoạt. Đồng thời tìm hiểu thêm nhu cầu của người lao động giúp việc về
việc được đào tạo chuyên môn cũng như điều kiện sinh hoạt và điều kiện làm việc.
* Thời gian nghiên cứu: Đề tài được tiến hành từ tháng 10 năm 2008 đến tháng 9
năm 2009.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Phân tích tài liệu thứ cấp:
Đề tài phân tích số liệu định lượng từ 600 bảng hỏi của cuộc nghiên cứu về
“Nghiên cứu thực trạng một số loại hình hoạt động giúp việc gia đình ở Hà Nội hiện
nay và đề xuất giải pháp quản lý” do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiến hành từ
tháng 10 năm 2008. Cụ thể là:
- 300 bảng hỏi dành cho đối tượng người giúp việc.
- 300 bảng hỏi dành cho đối tượng hộ gia đình có người giúp việc.
Ban đầu, ý định của nhóm nghiên cứu là tiến hành thu thập thông tin từ 600
người giúp việc và đại diện chủ hộ trong cùng một gia đình. Điều này giúp có được
so sánh, đối chiếu thông tin thu được giữa hai nhóm. Tuy nhiên, điều tra thử cho
thấy việc này là khó khăn vì rất ít chủ hộ đồng ý cho người giúp việc của gia đình
mình cùng được tham gia cung cấp thông tin vì e ngại rằng họ sẽ nói ra những điều
khác với thông tin mà chủ hộ cung cấp. Do vậy, nhóm nghiên cứu quyết định chọn
2 nhóm độc lập để tiến hành thu thập thông tin.
Tác giả tham gia nghiên cứu này với tư cách thư ký đề tài, trực tiếp tham gia
từ xây dựng đề cương, thiết kế bộ công cụ cho tới việc lựa chọn địa bàn nghiên cứu.
Do vậy, tác giả có điều kiện nắm rõ mục tiêu cũng như hướng nghiên cứu để có thể
hình dung rõ ràng hơn về đề tài luận văn của mình. Đồng thời, cũng có điều kiện để
11
thu thập thêm những số liệu định tính và định lượng phục vụ riêng cho mục đích
nghiên cứu của luận văn.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ này đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động
giúp việc gia đình và đề xuất giải pháp quản lý. Tuy nhiên với mục đích tìm hiểu
những nhu cầu của người lao động - lực lượng quan trọng tạo nên chất lượng của
hoạt động này nên tôi đã bổ sung thêm một số câu hỏi về nhu cầu của người lao
động đối với điều kiện sinh hoạt, làm việc và đào tạo chuyên môn.
6.2. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Nhằm thu thập những thông tin sâu sắc hơn, phát hiện những vấn đề mới,
đáng chú ý liên quan tới đề tài nghiên cứu, phương pháp phỏng vấn sâu các đối
tượng được tiến hành với:
- 05 người lao động.
- 05 đại diện hộ gia đình thuê người giúp việc gia đình.
6.3. Phương pháp thảo luận nhóm:
Thảo luận nhóm được sử dụng trong đề tài này nhằm tìm hiểu và thu thập
những ý kiến của những nhóm đối tượng khác nhau khi bàn luận về cùng một chủ
đề. Những thông tin do vậy có tính đa dạng, nhiều chiều hơn. Phương pháp thảo
luận nhóm tập trung được tiến hành với:
- 01 nhóm cán bộ lãnh đạo cán bộ chính quyền.
- 02 nhóm chủ hộ gia đình
6.4. Phương pháp quan sát:
Trong nghiên cứu này, quan sát là một trong những phương pháp quan trọng
vì việc thu thập thông tin về hoạt động giúp việc gia đình thường được diễn ra trong
không gian là hộ gia đình có người giúp việc mà sự có mặt của đại diện chủ hộ gia
đình là một yếu tố có thể gây "nhiễu" cho cuộc phỏng vấn. Thông qua việc quan sát,
chúng ta có thể thu được những thông tin "ẩn" nhưng chân thực, khách quan về điều
kiện sinh hoạt, làm việc cũng như những yếu tố liên quan tới cách sống và ứng xử
giữa chủ nhà và người giúp việc.
12
7. Giả thuyết nghiên cứu:
Loại hình giúp việc gia đình hiện nay tại đô thị rất đa dạng và tùy thuộc vào nhu
cầu của từng gia đình và khả năng đáp ứng của người lao động.
Điều kiện sinh hoạt và điều kiện làm việc của người lao động trong các gia đình
còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là trong việc ký kết hợp đồng, đăng ký tạm trú cũng
như vấn đề liên quan tới bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong các gia đình.
Đa số người lao động chưa được cung cấp các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho
công việc của mình. Do vậy, họ mong muốn được đào tạo để nâng cao kiến thức, kỹ
năng phục vụ công việc của mình.
13
8. Khung lý thuyết:
Người giúp việc
Đặc trưng nhân khẩu
xã hội
Động cơ cần việc làm
Gia đình
Đặc trưng nhân khẩu
xã hội.
Nhu cầu thuê người
giúp việc.
Điều kiện kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội
Thực trạng hoạt động giúp việc gia đình
Lý
do
làm
giúp
việc
gia
đình
Loại
hình
công
việc
Điều
kiện
sống,
làm
việc,
kỹ
năng
Lợi ích,
khó
khăn
của
hoạt
động
giúp
việc gia
đình
Nhu cầu của người lao động đối với điều kiện
sinh hoạt, làm việc và đào tạo chuyên môn
14
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận :
1.1.1. Các lý thuyết tiếp cận:
1.1.1.1. Lý thuyết phân công lao động:
Khái niệm phân công lao động được hiểu từ hai góc độ khoa học liên quan
tới khái niệm chức năng. Theo quan niệm kinh tế học bắt nguồn từ A. Smith, phân
công lao động là sự chuyên môn hoá lao động, là sự phân chia quá trình lao động
thành các công đoạn, các khâu, các thao tác kỹ thuật mà trong đó, mỗi người lao
động tập trung vào thực hiện một số thao tác nhất định trong một khâu hay một
công đoạn sản xuất. Sự phân công lao động như vậy làm tăng năng suất, chất lượng
và hiệu quả lao động. Do đó, giúp việc gia đình là một hình thức phân công lao
động xã hội, giúp cho nhiều gia đình thành thị đảm nhiệm tốt hơn chức năng gia
đình, có nhiều thời gian hơn tập trung vào công việc trả lương và chăm lo nhiều hơn
cho các thành viên gia đình trong lĩnh vực tình cảm, tinh thần. [11. tr.131-133]
Theo quan niệm xã hội học do A. Comte khởi xướng, phân công lao động là
sự chuyên môn hoá nhiệm vụ lao động nhằm thực hiện chức năng ổn định và phát
triển xã hội. Bên cạnh đó, phân công lao động xã hội không đơn thuần là sự chuyên
môn hoá lao động mà thực chất là quá trình gắn liền với sự phân hoá xã hội, phân
tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội. Theo Comte, phân công lao động dẫn tới sự
phân chia xã hội, cụ thể là những người phụ nữ ở vùng nông thôn, có thu nhập thấp
di cư ra thành thị để làm công việc có thu nhập cao hơn và thực hiện những yêu cầu
của người sử dụng lao động ở thành thị.
Tuy nhiên, nhìn phân công lao động theo lăng kính chức năng luận, Comte
và Durkheim cho rằng sự phân công lao động trong xã hội thực hiện chức năng
củng cố mối quan hệ gắn bó giữa các cá nhân và trật tự xã hội.
Đối với Durkheim, sự phân công lao động tạo ra sự đoàn kết xã hội.
Durkheim viết rằng: sự phân công lao động không chỉ biến mỗi cá nhân thành một
15
tác nhân trao đổi như các nhà kinh tế học nhấn mạnh, mà còn tạo ra cả một hệ thống
các quyền lợi và nghĩa vụ gắn kết họ một cách lâu dài với nhau. Kết quả của sự
phân công lao động trong xã hội là sự hình thành phức hệ các lý tưởng, các giá trị,
chuẩn mực chung, khách quan có khả năng quy định trách nhiệm, quyền hạn, buộc
các cá nhân phải liên hệ phụ thuộc vào nhau theo một khuôn mẫu nhất định. Hình
thức phân công lao động đơn giản tạo ra loại đoàn kết xã hội cơ học hay đoàn kết
máy móc. Hình thức phân công lao động phức tạp tạo ra sự đoàn kết hữu cơ.
Sự phân công lao động trong xã hội có thể xảy ra trên cơ sở khác nhau về
đặc điểm tự nhiên của chủ thể lao động, cũng như dựa vào các đặc điểm, yêu cầu
phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Durkheim chia phân công lao động thành hai loại: Phân công lao động bình
thường và phân công lao động bất bình thường. Phân công lao động bình thường tạo
ra sự đoàn kết xã hội, ngược lại phân công lao động bất bình thường không tạo ra sự
đoàn kết xã hội, thậm chí còn gây mất trật tự, sự hỗn loạn và sự phân rã. [11. tr.131-
133]
Như vậy, vận dụng lý thuyết phân công lao động khi nghiên cứu vấn đề giúp
việc gia đình giúp ta hiểu sâu hơn nguyên nhân xuất hiện và hình thành loại hình
dịch vụ giúp việc gia đình, đồng thời phân tích những hệ quả của loại hình phân
công lao động này đối với các gia đình thông qua phân tích sự đoàn kết hay phân rã
xã hội, sự phát triển xã hội hay tạo nên bất bình đẳng xã hội.
1.1.1.2. Lý thuyết trao đổi xã hội:
Lý thuyết trao đổi xã hội của George Homans và nhiều nhà xã hội học khác
đã có những đóng góp quan trọng trong việc xem xét tương tác xã hội.
Theo Homans, các cá nhân hành động tuân theo nguyên tắc trao đổi giá trị
vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán thưởng hay danh dự, Cá nhân hành động
theo xu hướng cân bằng giữa trao và nhận với cá nhân khác trong quá trình tương
tác, hay theo cách nói của Homans là cân bằng giữa chi phí và phần thưởng. Xu
hướng cân bằng này thể hiện ở chỗ các cá nhân mong muốn đạt được những phần
thưởng lớn nhất so với những chi phí đã bỏ ra.[6, tr.150-151]
16
Homans đưa ra bốn nguyên tắc tương tác giữa các cá nhân như sau:
- Nếu một dạng hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng
lặp lại.
- Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu
hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh như vậy.
- Nếu như phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra nhiều
chi phí vật chất và tinh thần để đạt được nó.
- Mức độ hài lòng, thoả mãn với những phần thưởng, mối lợi cá nhân dành
được cao nhất ở lần đầu và có xu hướng giảm dần.
Đây là mô hình đơn giản nhất của tương tác giữa các cá nhân. Nhưng theo
Homans ngay cả với những tương tác xã hội phức tạp như quan hệ quyền lực
cũng tuân theo những nguyên tắc trên. Trong thực tế cuộc sống xã hội, quá trình
tương tác theo mô hình trao đổi xã hội là rất phổ biến. Theo Homans, toàn bộ các
tương tác xã hội là một tập hợp phức tạp của các trao đổi.
Lý thuyết trao đổi còn được phát triển bởi Peter Blau. Blau tập trung vào lý
giải các kết quả tập thể, như phân phối quyền lực trong xã hội. Thay vì điều kiện có
hiệu lực, ông nghiên cứu rõ hơn từ cơ cấu kinh tế, cho rằng tương tác kinh tế có giá
trị đối với con người. Con người để tâm đến trao đổi xã hội vì cùng một nguyên
nhân là họ gắn với các trao đổi kinh tế – họ cần ở nhau những thứ mà họ không thể
cung cấp cho bản thân mình. Hơn nữa, Peter Blau cố gắng phát triển lý thuyết trao
đổi mà không bỏ đi đặc tính không thể giảm bớt của các tương tác xã hội. Trái với
Homans, Blau nêu rõ một số đặc tính của trao đổi xã hội là nổi bật.
Đối với Blau, cơ sở của trao đổi xã hội dựa trên phần thưởng dự đoán trước
của liên kết. Phần thưởng có thể hoặc ở bên trong (sự hài lòng trong thâm tâm khi ở
với ai đó), bên ngoài (lợi ích hoặc dịch vụ hữu hình mà người ta có thể cung cấp),
hoặc cả hai. Trao đổi xã hội, giống như trao đổi kinh tế, xuất hiện khi liên kết mang
lại cho cả hai bên phần thưởng mà họ không thể tự có được.
Liên hệ với nội dung nghiên cứu của đề tài, quá trình tương tác giữa người
giúp việc và người thuê là một quá trình trao đổi xã hội, trong đó cả hai cùng hướng
17
tới "phần thưởng" mà mình nhận được từ mối quan hệ này. Để có được phần
thưởng là sự nghỉ ngơi hoặc dành thời gian cho các hoạt động cá nhân khác, hay
con cái, cha mẹ có người chăm sóc, người thuê phải bỏ ra các chi phí như tiền
lương, tiền thưởng hoặc sự chăm sóc, đối xử phù hợp với người giúp việc. Ngược
lại, người giúp việc vì muốn giữ công việc của mình, được nhận thù lao và những
phần thưởng xứng đáng, phải bỏ công sức để lao động. Đồng thời, cả hai bên, nếu
muốn quá trình trao đổi được diễn ra lâu dài và xuôn sẻ, đều phải chấp nhận hy sinh
những sở thích, thói quen của cá nhân. [12, tr.319-321]
1.1.1.3. Các lý thuyết liên quan tới di dân:
Trên thế giới đã xuất hiện một số lý thuyết nghiên cứu về di dân quốc tế và
khu vực. Có thể nêu ra một số lý thuyết sau:
Lý thuyết của Ravestein: đây là một trong những lý thuyết về di dân sớm
nhất trong trường phái cổ điển, được đưa ra vào cuối thế kỉ XIX. Theo ông, di cư
xảy ra sớm bởi sự khác biệt về trình độ phát triển, bởi tiến trình công nghiệp hoá và
phát triển thương mại giữa các khu vực của một quốc gia. Mặt khác, sự di cư bị chi
phối bởi khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người sống ở khu vực
kém phát triển hay nghèo khổ thường có xu hướng chuyển đến những khu vực phát
triển hơn. Theo Ravestein, tỉ lệ người tham gia di cư có quan hệ thuận với khoảng
cách giữa hai khu vực nơi họ xuất phát và nơi họ đến. [17]
Lý thuyết của Lewis: Lý thuyết này ra đời vào những năm 50 của thế kỉ XX.
Lý thuyết của Lewis ra đời trong bối cảnh các nước trong thế giới thứ 3 bước vào
giai đoạn công nghiệp hoá, dẫn đến sự bùng nổ của làn sóng di cư từ nông thôn ra
các thành phố công nghiệp và các đô thị. Lewis đã trình bày quan điểm của di cư từ
nông thôn ra thành thị trong cuốn “Sự phát triển kinh tế đối với việc cung cấp
không giới hạn về lao động” (Economic Development with Unlimited Suplies of
Labour, xuất bản năm 1954). Theo ông, lí do di cư dân số từ nông thôn ra đô thị là:
Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế và sự mở rộng của khu vực công nghiệp đặt ra đòi
hỏi phải có thêm lực lượng lao động đáp ứng. Sự tăng lên không ngừng của dân số
trong khi đất đai không tăng đã làm cho lao động nông nghiệp dư thừa. Số lao động
18
dư thừa này có khuynh hướng tìm kiếm các cơ hội làm việc tại các khu công nghiệp
và thành phố, nơi có nhu cầu tuyển dụng. Lewis coi đây là sự điều tiết có tính chất
tự nhiên, là sự cân bằng lao động giữa các khu vực, các ngành nghề. Thứ hai, do sự
chênh lệch về mức lương giữa nông thôn và đô thị. Sự di cư lao động này sẽ dừng
lại khi mức lương ở đô thị cân bằng với mức thu nhập của người dân ở nông thôn.
Từ quan điểm này người ta gọi lí thuyết của Lewis là mô hình cân bằng. Lý thuyết
của Lewis đã đặt nền móng cho lý thuyết mới có tên gọi là Mô hình kinh tế đôi của
Ranis và Fei ra đời vào thập kỷ 60 thế kỷ XX.
Trong thập kỉ 50, khi mà các làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị không
ngừng tăng lên ngay cả khi lao động ở đô thị thất nghiệp nhiều. Điều này làm cho lý
thuyết của Lewis đã đơn giản hoá nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng di dân từ
nông thôn ra đô thị là do yếu tố kinh tế quyết định. [17]
Lý thuyết di cư của Everett S.Lee: Trong cuốn sách “Một học thuyết chung
về di cư” (A general theory of migration, xuất bản năm 1966), E.S. Lee, một nhà
nghiên cứu thuộc đại học Pensylvania, Hoa Kỳ, đã tổng kết một số các yếu tố quyết
định đến việc di cư của người dân từ nông thôn ra thành thị. Ông chia thành hai
nhóm yếu tố: a/ Nhóm yếu tố tiêu cực - nghèo đói, sự thiếu thốn các cơ hội kinh tế,
thiếu đất, mức sống thấp ở quê nhà; b/ Nhóm yếu tố tích cực - sự thịnh vượng, cơ
hội, công việc làm ăn, mức sống cao ở nơi đến… Trong hai nhóm yếu tố này,
những yếu tố tiêu cực tác động mạnh hơn buộc người ta phải rời nơi sinh sống của
mình còn các yếu tố tích cực phản ánh sự hấp dẫn của nơi đến.
Ngoài ra, Lee còn phân tích một số các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc di
dân. Đó là nhận thức, sự thông minh, hiểu biết của người di cư qua kinh nghiệm bản
thân hay qua các kênh thông tin đại chúng, qua bạn bè, họ hàng… Đây là điều mà
các lý thuyết trước đó ít đề cập tới. Việc di cư, theo Lee còn phụ thuộc vào tính toán
và thu nhập mong đợi trong thời gian nhất định hơn là tính toán về khác biệt thu
nhập giữa thành thị và nông thôn. [17]
Việc áp dụng các lý thuyết về di dân khi tìm hiểu về hoạt động giúp việc gia
đình giúp làm sáng tỏ những nguyên nhân dẫn đến quyết định ra thành phố làm
19
nghề giúp việc gia đình của người lao động và nhìn nhận những lý do này dưới góc
độ quản lý xã hội.
1.1.2. Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu:
1.1.2.1. Khái niệm "Gia đình":
Có rất nhiều định nghĩa về gia đình được các nhà tư tưởng, các nhà nghiên
cứu khoa học xã hội đưa ra. Nhưng nhìn chung họ đều thống nhất rằng gia đình là
một thiết chế xã hội, dựa trên hai mối quan hệ cơ bản là hôn nhân (chồng - vợ) và
huyết thống (cha mẹ - con cái).
Theo Levy Strauss, gia đình là một nhóm xã hội được quy định bởi ba đặc
điểm thường thấy nhiều nhất:
+ Hôn nhân
+ Quan hệ huyết thống
+ Những ràng buộc về mặt pháp lý, nghĩa vụ, quyền lợi có tính chất kinh tế,
cấm đoán tình dục gắn với các thành viên và những ràng buộc về tình cảm, tâm lý,
tình yêu, tình thương và sự kính trọng, sợ hãi.[1, tr.237-238]
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 định nghĩa gia đình là tập
hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan
hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định
của Luật này. (theo Chương I, điều 8 - Những quy định chung). Đây cũng là định
nghĩa về gia đình được sử dụng trong đề tài này.
1.1.2.2. Khái niệm "Lao động", "Người lao động":
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi
những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình hay của xã hội.
Xã hội học coi lao động như là hành động xã hội có cấu trúc gồm các thành
phần: mục đích lao động, đối tượng lao động, phương tiện lao động, điều kiện lao
động, chủ thể lao động và xu hướng lao động. Các yếu tố này có mối liên hệ hữu cơ
với nhau. Trong đó, vai trò quyết định với nghĩa là chủ động, tích cực "tác động,
điều tiết, kiểm soát" toàn bộ quá trình lao động thuộc về con người xã hội với tất cả
20
các đặc điểm, phẩm chất người được hình thành và phát triển trong cuộc sống. [11,
tr.122-123]
Chủ thể lao động: là cá nhân, nhóm, tổ chức xã hội với các đặc điểm, phẩm
chất được hình thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa và trong hoạt động lao
động. Chính chủ thể lao động với sự nỗ lực vật chất - tinh thần của họ đã gắn kết
các yếu tố lao động thành một quá trình sản xuất. Đồng thời, thông qua lao động,
con người không những cải tạo thế giới mà còn biến đổi chính bản thân mình.
[11,tr.122-123]
Như vậy, có thể định nghĩa rằng người lao động là các cá nhân thuộc các
nhóm, tổ chức xã hội với các đặc điểm và phẩm chất riêng được hình thành và phát
triển trong quá trình xã hội hóa và trong quá trình lao động.
1.1.2.3. Khái niệm "Dịch vụ giúp việc gia đình":
Hiện nay chưa có một định nghĩa chung nhất về dịch vụ giúp việc gia đình
dù cụm từ này được sử dụng trong rất nhiều văn bản và được chấp nhận trong xã
hội. Trên cơ sở những đặc trưng của loại hình dịch vụ này, tác giả xin đưa ra cách
hiểu của mình về dịch vụ giúp việc gia đình là loại hình dịch vụ thuộc khu vực kinh
tế phi chính thức nhằm cung cấp nguồn lao động làm các công việc nội trợ hoặc
chăm sóc các thành viên cho các gia đình có nhu cầu. Người được thuê giúp việc
trong gia đình trực tiếp làm những công việc như đi chợ, chuẩn bị bữa ăn, dọn dẹp
nhà cửa, trông trẻ, trông người già yếu và nhận lương theo thỏa thuận giữa người
thuê và người giúp việc.
Dịch vụ giúp việc gia đình còn có thể hiểu đơn giản là những công việc được
làm bởi người không phải thành viên của gia đình.
1.1.2.4. Khái niệm “Người giúp việc gia đình”:
"Người giúp việc gia đình, (người hầu hay người ở theo cách gọi trong các
xã hội trước đây )là những người làm việc và thường chung sống cùng hộ gia đình
với người thuê. Ở những hộ gia đình lớn, có thể có nhiều người giúp việc làm các
công việc khác nhau, như một phần của hệ thống thứ bậc phức tạp.
21
Người giúp việc gia đình thường làm những công việc như nấu ăn, giặt là,
dọn dẹp nhà cửa, đi chợ , chăm sóc trẻ em. Tại nhiều nước, người giúp việc (phụ
nữ) giữ vai trò như y tá chăm sóc người già và người khuyết tật. Người giúp việc
(phụ nữ) thường được yêu cầu làm việc ít nhất 15 tiếng một ngày." [22]
Trong xã hội Việt Nam phong kiến, người giúp việc gia đình thường được
gọi bằng những cái tên như “con sen”, “thằng ở” với hàm ý khinh miệt, coi thường.
Sau này, khi bộ phim Nhật Bản có tên “Oshin” được trình chiếu tại Việt Nam với
nội dung chính xoay quanh cuộc đời của một người phụ nữ với tinh thần vượt khó
khăn, từ vị trí của một người giúp việc gia đình thành một người thành đạt thì cụm
từ “osin” xuất hiện và được dùng để chỉ người giúp việc trong gia đình. Đến nay,
cách gọi này vẫn được chấp nhận trong xã hội.
1.1.2.5. Khái niệm “Hoạt động giúp việc gia đình”:
Khái niệm “hoạt động giúp việc gia đình” được sử dụng trong đề tài này
dùng để chỉ một lĩnh vực dịch vụ nhằm cung cấp nguồn lao động thực hiện các công
việc chuyên biệt trong môi trường gia đình bao gồm những hoạt động như nội trợ,
dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc các thành viên, giúp các gia đình thực hiện tốt các chức
năng của mình. Bên cạnh đó, nó còn bao gồm các yếu tố liên quan như mối quan hệ
giữa người thuê và người lao động cả về mặt pháp luật và xã hội, mức độ hài lòng,
khả năng đáp ứng cũng như các nhu cầu, mong muốn của các bên.
1.1.2.6. Khái niệm “Nhu cầu”:
Nhà tâm lý học Abraham Maslow đã đưa ra học thuyết về nhu cầu trong bài
viết "A theory of Human Motivation" (tạm dịch là học thuyết về động lực của con
người) của mình năm 1943. Đây được coi là học thuyết đạt tới đỉnh cao trong việc
nhận dạng các nhu cầu tự nhiên của con người nói chung và cho đến nay chưa có
thuyết nào thay thế tốt hơn cho học thuyết này. A.Maslow đã chia các nhu cầu của
con người thành hai nhóm: nhu cầu bậc thấp (bao gồm nhu cầu về thể chất và sinh
lý và nhu cầu về an toàn và an ninh) và nhu cầu bậc cao (nhu cầu về quyền sở hữu
và tình cảm, nhu cầu về sự kính mến và lòng tự trọng, nhu cầu được thể hiện mình).
Theo đó, việc thoả mãn các nhu cầu bậc thấp sẽ giúp thoả mãn các nhu cầu bậc cao.
22
Và con người là thực thể xã hội, khác với các loài động vật khác, họ luôn hướng tới
việc thoả mãn các nhu cầu của mình, nói cách khác, họ hành động theo nhu cầu.
Việc được đáp ứng các nhu cầu từ thấp tới cao như một cái thang dẫn họ tới việc tự
hoàn thiện mình và giúp ích cho xã hội. [12]
Người giúp việc cũng là một nhóm đối tượng với những đặc trưng riêng, do
vậy họ cũng có những nhu cầu riêng gắn với hoàn cảnh sống và làm việc của mình.
Ở đây, chúng tôi cũng xem xét nhu cầu của người lao động theo hai nhóm nhu cầu
bậc thấp, bao gồm các nhu cầu về đảm bảo điều kiện sinh hoạt (nơi ăn, chỗ ở, chăm
sóc sức khỏe, nghỉ ngơi giải trí) và điều kiện làm việc và các nhu cầu bậc cao liên
quan đến nhu cầu về địa vị trong gia đình chủ nhà và đào tạo chuyên môn để được
nâng cao vị thế của mình.
1.1.2.7. Khái niệm “Chuyên môn”, “Đào tạo", "Đào tạo chuyên môn":
Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng
năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm,
lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm
nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã
hội. [13, tr.11]
Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến
thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững những
tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích
nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất định. Khái niệm
đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, đào tạo được dùng để đề cập
đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ
nhất định. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu, đào tạo
chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo [13,tr.11]
Đào tạo chuyên môn là hoạt động nhằm cung cấp kiến thức cũng như kỹ
năng chuyên sâu thuộc một lĩnh vực nghề nghiệp cho người lao động. [13,tr.11]
23
1.2. Cơ sở thực tiễn:
1.2.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
* Trên thế giới:
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ là sự phát
triển của các loại hình dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ phục vụ gia đình. Đối với dịch vụ
giúp việc gia đình, Philippine là một trong những nước đứng đầu. Tác giả Parrenas
trong một nghiên cứu của mình năm 2000 đã chỉ ra rằng, hiện nay ước tính có hơn
2,2 triệu người giúp việc gia đình trong tổng số 6,5 triệu người lao động Philipine
làm việc ở hơn 100 nước trên thế giới. Đa số phụ nữ Philippine ra nước ngoài kiếm
sống đều tốt nghiệp phổ thông và qua đào tạo nghề, hơn nữa, họ lại thông thạo tiếng
Anh. Do đó, lao động của Philippnes làm nghề này có khả năng cạnh tranh rất lớn.
Chính phủ Philipine coi xuất khẩu lao động bao gồm cả lao động nữ giúp việc gia
đình như là một ngành kinh tế rất quan trọng của đất nước. Nguồn tiền gửi về gia
đình hàng năm của riêng số phụ nữ làm nghề giúp việc gia đình ước tính khoảng
14-16 tỷ đô la Mỹ [ 16, tr.560-580]
Theo báo cáo khảo sát của Viện Nghiên cứu Dân số và Xã hội của Đại học
Mahidol, Thái Lan (2007), sự tăng trưởng kinh tế của Thái Lan trong hơn 30 năm
qua cũng làm tăng mạnh mẽ số lượng các gia đình cần thuê người giúp việc gia
đình. Trong những năm 1980, các gia đình chủ yếu thuê người giúp việc là người
Thái. Bắt đầu từ những năm 1990, mức cung lao động giúp việc gia đình là người
Thái bị giảm đi, do kinh tế phát triển và tâm lý xã hội ít coi trọng nghề lao động
này, người lao động phổ thông ở Thái Lan có nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp hơn.
Sự thiếu hụt lao động giúp việc gia đình của xã hội Thái Lan đã thu hút những phụ
nữ lao động nghèo từ các nước láng giềng là Myanma, Lào và Căm Pu Chia. Những
năm gần đây, tham gia đội ngũ những người làm nghề giúp việc gia đình ở Thái
Lan có cả phụ nữ Việt Nam đến chủ yếu từ một số tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung bộ
như Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế.
Một nghiên cứu của Philip N.Cohen (Đại học Maryland College Park, 1998)
về sự thay thế công việc nhà trong nền kinh tế dịch vụ cũng đã đánh giá sự tiêu
24
dùng dịch vụ giúp việc gia đình. Qua phân tích số liệu cuộc điều tra sự tiêu dùng tại
Hoa Kỳ năm 1993, tác giả đã chỉ ra rằng việc sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình và
việc lựa chọn hình thức đi ăn bên ngoài đã giúp người phụ nữ giảm bớt gánh nặng
công việc nhà. Tác giả đã đánh giá sự tác động của các yếu tố: vị trí của người phụ
nữ trong hôn nhân (thu nhập, nghề nghiệp của người phụ nữ), địa vị kinh tế - xã hội
của gia đình (mức sống, chủng tộc, thu nhập, nghề nghiệp, học vấn của người
chồng) tới việc sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy,
nếu như mọi yếu tố khác là như nhau, những gia đình mà người phụ nữ có địa vị
cao hơn cũng như những gia đình có địa vị kinh tế- xã hội cao hơn sử dụng dịch vụ
giúp việc gia đình và đi ăn bên ngoài nhiều hơn. [5, tr.219-231]
Qua tìm hiểu một số nghiên cứu nước ngoài về chủ đề dịch vụ giúp việc gia
đình, có thể thấy chủ đề này đã được quan tâm tìm hiểu ở nhiều quốc gia trên các
khía cạnh khác nhau. Đây sẽ là cơ sở khoa học cho việc tiếp cận, so sánh kết quả
trong nghiên cứu tình hình thực tế Việt nam về thực trạng giúp việc gia đình, các
yếu tố tác động đến thực trạng này, những vấn đề còn tồn tại.
* Ở Việt Nam:
Lao động giúp việc gia đình là một hoạt động kinh tế xã hội có từ lâu đời ở
nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Hoạt động giúp việc gia đình ở
Việt Nam trong khoảng 20 năm trở lại đây trở nên phổ biến và phát triển so với giai
đoạn trước đó là do có nhiều gia đình có điều kiện kinh tế khá hơn hẳn so với thời
kỳ kinh tế bao cấp, cũng như sự dư thừa lao động phổ thông ở khu vực nông thôn
dưới tác động của công cuộc cải cách kinh tế. Một yếu tố cơ bản khác thúc đẩy loại
hình dịch vụ này phát triển là chính sách của Nhà nước ta cho phép và khuyến khích
phát triển dịch vụ khu vực kinh tế tư nhân và phi chính thức. Yếu tố thứ ba là việc
mở rộng những hình thức quản lý về mặt hộ khẩu hay đăng ký tạm trú tạo điều kiện
để những người lao động nông thôn được tự do ra thành phố tìm việc làm.
Tác giả Mai Huy Bích trong bài viết “Người làm thuê việc nhà và tác động
của họ đến gia đình trong thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội” đã nghiên cứu lao động
làm thuê việc nhà của những người phụ nữ nghèo, ít học từ nông thôn ra thành thị.
25
Tác giả đã phân tích một số điểm tích cực và tiêu cực của hình thức lao động này.
Đó là nhu cầu thuê mướn lao động làm việc nhà nhưng điều này chưa được đáp ứng
vì người ta ra thành phố tìm việc làm khác chứ không phải để làm giúp việc gia
đình. Sự xuất hiện của loại hình giúp việc gia đình đã và đang khẳng định vai trò,
tầm quan trọng của công việc gia đình. Trước đây những công việc gia đình do
người vợ, người mẹ làm, thường không được tính đến, còn nếu thuê người làm thì
phải mất từ 300.000 đến 500.000 đồng/tháng với cơm nuôi và chỗ ở. Điều này đã
làm lay chuyển mạnh mẽ quan niệm thịnh hành lâu nay cho rằng việc nhà là loại
hình lao động chỉ tạo ra giá trị sử dụng chứ không tạo ra lời lãi, không được trả
công, không sinh lợi. [4]
Năm 2005, Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em đã thực hiện đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu nhu cầu dịch vụ gia đình Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới”. Đề tài được tiến hành thành 2 giai đoạn dành cho khảo sát tại 2
địa bàn là thành thị và nông thôn và được áp dụng nhiều phương pháp khác nhau
trong đó có thu thập thông tin bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Dịch vụ gia đình
được đề cập tới trong đề tài này rất rộng, bao gồm 6 lĩnh vực từ y tế, chăm sóc sức
khỏe; chăm sóc học tập của con cái; nội trợ và sinh hoạt gia đình; phương tiện đi lại
tới giải trí văn hóa tinh thần. Trong đó, mảng hoạt động giúp việc gia đình được xếp
vào nhóm các dịch vụ phục vụ công việc nội trợ và sinh hoạt gia đình. Đề tài đã chỉ
ra rằng các gia đình hiện nay đã có nhu cầu sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình.
Đồng thời cũng tìm hiểu thêm về lý do lựa chọn dịch vụ, đánh giá chất lượng dịch
vụ và những yếu tố tác động đến việc sử dụng người giúp việc gia đình. Tuy nhiên,
do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng nên hoạt động giúp việc gia đình mới chỉ
được đề cập như một trong các khía cạnh nhỏ của loại hình dịch vụ gia đình. Mặt
khác, đề tài mới chỉ nghiên cứu từ góc độ gia đình – đối tượng thụ hưởng dịch vụ
mà ít quan tâm tới đối tượng cung cấp dịch vụ. [21]
Một nghiên cứu khác của tác giả Lê Việt Nga năm 2005 đã thực hiện thu
thập thông tin từ cả ba đối tượng liên quan trực tiếp đến hoạt động này là người lao
động, chủ hộ gia đình thuê người giúp việc và người làm nghề môi giới hoạt động