Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Mạch lạc diễn ngôn hội thoại trong một số tác phẩm văn học hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.09 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
------------

TRẦN THỊ THU HƯƠNG

MẠCH LẠC DIỄN NGÔN HỘI THOẠI
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
VĂN HỌC HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI – 5/2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
------------

TRẦN THỊ THU HƯƠNG

MẠCH LẠC DIỄN NGÔN HỘI THOẠI
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
VĂN HỌC HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC

Mã số: 60 22 01


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Thị Việt Thanh

HÀ NỘI – 5/2009


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ học văn bản là một lĩnh vực của ngôn ngữ học hiện đại.
Những vấn đề cơ bản của nó đã và đang được tập trung nghiên cứu, trong
đó có mạch lạc văn bản. Mạch lạc là điều kiện trọng yếu để một tập hợp
câu nào đó trở thành một văn bản. Lý thuyết về mạch lạc đã được ứng dụng
vào nghiên cứu, phân tích văn chương và giúp ích rất nhiều cho sự lĩnh hội
văn bản với tư cách là một chỉnh thể nghệ thuật. Tuy nhiên theo ý kiến của
nhiều nhà nghiên cứu, cho đến nay những giải thuyết về mạch lạc cịn chưa
đi đến thống nhất bởi tính phức tạp trong nội tại khái niệm.
Trong những năm gần đây, mạch lạc đã và đang trở thành một vấn
đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước
và đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Có thể nói đây chính là
sự mở rộng của ngôn ngữ học trên nhiều phương diện như đối tượng
nghiên cứu, hệ thống khái niệm và phương pháp luận.
Trong những nghiên cứu về mạch lạc, mạch lạc trong lời nói chiếm
một vị trí khá quan trọng và là một vấn đề tương đối mới mẻ. Tuy vậy,
trong các tư liệu, cơng trình nghiên cứu từ trước đến nay, vấn đề mạch lạc
trong lời nói chưa được đề cao và đưa lên vị trí xứng tầm của nó. Mặc dù
các lời nói rất đa dạng, biến hố mn hình vạn vẻ nhưng khơng phải lúc
nào chúng ta cũng dễ dàng nắm bắt được cái “mạch” giữa chúng. Như vậy,
hiểu biết về mạch lạc để xác định, nắm bắt những biểu hiện cụ thể của
mạch lạc là hết sức quan trọng, không chỉ đối với người nghiên cứu ngôn
ngữ, người làm cơng tác phê bình văn học mà cịn quan trọng với cả những

người viết văn, làm báo, nhà chính trị, nhà khoa học…
Chọn đề tài Mạch lạc diễn ngôn hội thoại trong một số tác phẩm
văn học hiện đại, chúng tơi mong muốn góp phần làm rõ thêm khái niệm
mạch lạc, đồng thời chỉ ra hướng triển khai mạch lạc mới trong văn bản
1


nghệ thuật, trên cơ sở đó đi vào lý giải sự phát triển tư duy văn học trong
những năm gần đây dựa trên các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ nhằm
cụ thể hố khái niệm mạch lạc nói chung, khái niệm mạch lạc diễn ngơn
hội thoại nói riêng trong các văn bản văn học, vai trị tạo lập tính chỉnh thể
văn bản của mạch lạc, cách xác định mạch lạc trong một văn bản nghệ thuật.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu “mạch lạc”
Mạch lạc nói chung và mạch lạc diễn ngơn hội thoại nói riêng khơng
phải là những khái niệm quá mới mẻ, nhưng việc ứng dụng chúng vào việc
nghiên cứu văn học lại chưa được nhiều người quan tâm.
Trong ngôn ngữ học hiện đại, giai đoạn thứ hai của ngơn ngữ học
văn bản và là thời kì hưng thịnh của dụng học, vấn đề mạch lạc được đề
cập khá thường xun, hầu như trong các cơng trình nghiên cứu về diễn
ngôn, dù là trực tiếp hay gián tiếp.
K.Wales đã viết “Mạch lạc được coi là một trong những điều kiện
hoặc những đặc trưng hàng đầu của một văn bản: ngồi mạch lạc, một văn
bản khơng đích thực là một văn bản”. Như vậy đối với một văn bản, mạch
lạc vừa là điều kiện cần vừa là điều kiện đủ. Khơng có mạch lạc, một chuỗi
câu khơng thể trở thành một văn bản được.
Trên thế giới đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về mạch lạc, có
thể kể đến cơng trình của các tác giả Widdowson, Green, Edmoson, Gullian
Brown, David Nunan… Tuy nhiên các cách hiểu về mạch lạc cho đến nay
vẫn chưa có sự thống nhất hồn toàn trên cơ sở khoa học. Chẳng hạn, D.
Nunan, 1993, quan niệm mạch lạc là cái tầm rộng mà ở đó các lời nói

được tiếp nhận như là có mắc vào nhau, chứ không phải là một tập hợp các
câu nói khơng có liên quan với nhau. Pergram Press trong “Bách khoa thư
ngôn ngữ và ngôn ngữ học”, 1994, quan niệm mạch lạc là sự nối kết có
tính chất logic được trình bày trong quá trình triển khai một cốt truyện,
một truyện kể… lệ thuộc vào việc tạo ra những sự kiện được nối kết với
2


nhau, hơn là những dây liên hệ thuộc ngôn ngữ (như trong liên kết). D.
Togeby, 1994 cho rằng mạch lạc là cái đặc tính của sự tích hợp văn bản,
tức là cái đặc tính đảm bảo cho các yếu tố khác nhau trong văn bản được
khớp với nhau trong một tổng thể gắn kết. Còn Galperin hiểu mạch lạc
trong văn bản văn chương nói chung như sau: “Những phương tiện liệt kê
mạch lạc được xem là những phương tiện logic bởi vì chúng được sắp xếp
vào những khái niệm logic-triết học, những khái niệm về chuỗi liên tục, về
quan hệ thời gian, không gian, nhân-quả. Những phương tiện giải mã dễ
dàng bởi vậy khơng kìm giữ sự chú ý của người đọc, chỉ trừ những trường
hợp muốn hay không vẫn phát hiện ra sự tương ứng giữa các đại diện được
kết chuỗi với chính những phương tiện mạch lạc”.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu Diệp Quang Ban, Đinh Trọng Lạc,
Nguyễn Thiện Giáp… là những người đi đầu trong việc nghiên cứu các vấn
đề về mạch lạc nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu những khái
niệm ban đầu chứ chưa đi sâu vào khảo sát nghiên cứu từng hiện tượng cụ
thể. Cơng trình nghiên cứu của Giáo sư Diệp Quang Ban với Văn bản và
liên kết trong tiếng Việt (1998) lần đầu tiên đã đề cập đến mạch lạc một
cách tổng thể và chi tiết. Sau đó, với Giao tiếp, văn bản, mạch lạc, liên kết,
đoạn văn (2003), Giáo sư đã giới thiệu “những nội dung có phân hoạch rõ
ràng hơn và chi tiết hơn, xứng đáng với vị trí thực hữu của mạch lạc trong
q trình tạo lập và giải thích văn bản”. Đinh Trọng Lạc với Phong cách
tiếng Việt (2004), Đỗ Hữu Châu với Ngữ pháp văn bản (2004), Nguyễn

Thiện Giáp với Dụng học Việt ngữ (2000), Bùi Minh Toán với Tiếng Việt
thực hành (2004), Nguyễn Thị Thìn, Nguyễn Thị Việt Thanh… cũng đã có
những nghiên cứu từ những góc độ khác nhau, góp phần làm “dày” dần
những nghiên cứu về mạch lạc ở Việt Nam. Trong những năm gần đây
cũng đã có một vài khoá luận, luận văn đề cập đến vấn đề này, như khố
luận của Vương Bá Cẩn (K42 Ngơn ngữ), Nguyễn Thị Xn Nữ (K43
Ngơn ngữ), Hồng Thu Trang (K46CLC Ngơn ngữ) đi vào tìm hiểu mạch
3


lạc từ các góc độ khác nhau… Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị
Hồng Nga cũng đã đề cập đến các biểu hiện của mạch lạc theo quan hệ thời
gian và không gian trong một số truyện ngắn. Các cơng trình trên đã đưa ra
được một số nhận xét bước đầu về mạch lạc, góp phần bổ sung và hoàn
thiện thêm những nghiên cứu của các tác giả đi trước.
Trên cơ sở vận dụng lý thuyết chung và tiếp thu, tổng hợp những
cơng trình nghiên cứu của các tác giả đi trước, trong luận văn này, chúng
tôi đi vào tìm hiểu hiện tượng mạch lạc diễn ngơn hội thoại trong một số
tác phẩm văn học hiện đại, qua đó hi vọng sẽ rút ra được các đặc trưng của
mạch lạc trong văn bản nói chung và trong các văn bản diễn ngơn hội thoại
nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của luận văn này là các diễn ngôn hội thoại, cụ thể là các
cặp thoại Hỏi - Đáp được rút ra từ các tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết in
trong một số tuyển tập như:
- Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (NXB Hội Nhà văn - 2004)
- 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (NXB Hội Nhà văn – 2004)
- Giấc mơ không có con dế nhỏ (NXB Hội Nhà văn và báo Tiền
Phong - 1997)
- 80 tác giả nữ Việt Nam (NXB Thanh niên – 2000)

- Truyện ngắn hay 2000 (NXB Hội Nhà văn – 2000)
- Truyện ngắn chọn lọc (NXB Hội Nhà văn – 1995)
- Truyện ngắn chọn lọc báo Văn nghệ trẻ 2002 (NXB Hội Nhà văn –
2003)
- Truyện ngắn hay và đoạt giải Tạp chí Văn nghệ Quân đội 20012002 (NXB Văn học – 2003)
- Dương Hướng, Bến không chồng (NXB Hội Nhà văn)
- Nguyễn Quang Sáng, Con mèo của Foujitta (NXB Phụ nữ - 1996)
4


- Thạch Lam, Một đời người (NXB Văn học, 1987)
- Ma Văn Kháng, Mùa lá rụng trong vườn
- Đoàn Giỏi, Đất rừng phương Nam
- Trần Văn Tuấn, Ngõ hẻm bên cầu
- Nguyễn Dậu, Con thú bị ruồng bỏ
Có thể nói rằng, trong diễn ngôn, mạch lạc biểu hiện ở khả năng
dung hợp giữa các hành động nói. Hành động nói là hành động được thực
hiện trong khi nói như hành động hỏi, ra lệnh, hứa hẹn, chào, cảm ơn, xin
lỗi… Có những hành động nói thường phải đi đơi với nhau và cũng có
những hành động nói khơng thể ăn nhập với nhau. Khi các hành động nói
đi đơi với nhau thì bản thân chúng cũng tạo ra được mạch lạc cho những lời
trao đổi hoặc những chuỗi câu nối tiếp nhau. Chẳng hạn hành động hỏi
thường kéo theo hành động trả lời, hành động mời thường kéo theo hành
động chấp nhận hoặc từ chối lời mời, hành động chào thường kéo theo
hành động chào đáp lễ... Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, do sự giới
hạn về thời gian và tư liệu, chúng tôi chỉ xin đề cập đến vấn đề mạch lạc
trong các cặp thoại Hỏi – Đáp (cặp thoại có thể được xem là dạng tiêu biểu
nhất của diễn ngôn hội thoại), đặc biệt là các cặp thoại Hỏi – Đáp bao gồm
một lượt lời và hai lượt lời.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Trong các cặp thoại Hỏi – Đáp thường có một người đưa ra câu hỏi
và người kia đáp lại. Tuy nhiên trong thực tế, không phải lúc nào câu hỏi
và câu đáp cũng có sự tương hợp với nhau. Trong nhiều trường hợp câu
đáp dường như khơng có sự liên quan gì với câu hỏi cả về mặt nội dung
cũng như sự hiện diện của các phương tiện liên kết ngữ kết học, song nó lại
chính là câu trả lời xác đáng cho thơng tin cịn thiếu cũng như biểu thị sự
phản ứng đối với câu hỏi. Mục đích của luận văn này là đi tìm sự mạch lạc
trong cả hai trường hợp: cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp và cặp thoại Hỏi –
Đáp không tương hợp. Trong các cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp thì mạch
5


lạc chính là khi người nghe hiểu câu hỏi của người nói và đưa ra lời đáp
phù hợp với câu hỏi đó (có thể là nội dung thơng tin của sự đồng tình, bác
bỏ, khẳng định, tun bố…). Cịn trong trường hợp các cặp thoại Hỏi –
Đáp không tương hợp thì yếu tố quyết định sự mạch lạc chính là sự tồn tại
của các lớp nghĩa ngầm ẩn, sâu xa, những tiền giả định, hàm ý… mà chúng
ta khó có thể nhận thấy thông qua các phương tiện ngôn ngữ hiển ngôn.
Việc nghiên cứu mạch lạc trong diễn ngôn hội thoại nói chung và các cặp
thoại Hỏi – Đáp nói riêng sẽ giúp cho quá trình giao tiếp giữa con người
với con người được tốt hơn, duy trì được những xu hướng tích cực trong
hội thoại để từ đó mỗi đối tượng giao tiếp đều có thể đạt được những mục
đích giao tiếp nhất định.
Đi tìm sự mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi – Đáp đồng nghĩa với
việc tìm hiểu sự liên quan về mặt nội dung giữa chúng, đồng thời lý giải
được sự liên quan về nghĩa đó được biểu hiện như thế nào. Bên cạnh đó,
việc khảo sát hiện tượng mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi – Đáp được
chúng tơi tiến hành trên cả ba bình diện: kết học, nghĩa học và dụng học.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong cơng trình này, chúng tơi chủ yếu sử dụng phương pháp phân

tích miêu tả. Ngồi ra các phương pháp khác như thống kê, so sánh, đối
chiếu… cũng được chúng tôi vận dụng nhằm phục vụ hiệu quả cho mục
đích nghiên cứu của mình.
6. Kết cấu luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn của
chúng tôi được bố cục thành ba chương cụ thể như sau:
Chương 1: Một số cơ sở lí thuyết
Chương 2: Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp
Chương 3: Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi – Đáp không tương hợp

6


PHẦN NỘI DUNG

7


Chƣơng 1
MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1. Vấn đề mạch lạc
1.1. Các quan niệm về mạch lạc
Như đã nói ở trên, vấn đề mạch lạc từ lâu đã được các nhà ngôn ngữ
học quan tâm nghiên cứu, song giữa họ vẫn chưa đi đến một sự thống nhất
hoàn toàn trên phương diện khoa học về cách hiểu cũng như định nghĩa
thuật ngữ “mạch lạc”.
Halliday và Hasan không bàn đến mạch lạc riêng rẽ như một đề tài,
mà chỉ nhắc đến nó nhân nói đến dấu vết của tình huống trong văn bản.
Tuy nhiên qua đó cũng thấy được một phần quan niệm về mạch lạc của tác
giả. Đề tài chung có liên quan đến mạch lạc được bàn đến ở đây là “chất

văn bản” (texture): “… chất văn bản bao gồm nhiều hơn, khơng chỉ là sự
có mặt của những quan hệ nghĩa thuộc loại mà chúng tôi qui về liên kết sự phụ thuộc của một yếu tố này vào yếu tố khác để giải thích được nó. Nó
bao gồm cả một chừng mực nào đó của mạch lạc trong các ý nghĩa được
diễn đạt: không chỉ hoặc cũng không phải chủ yếu là ở nội dung, mà ở sự
lựa chọn toàn bộ từ các nguồn ý nghĩa của ngơn ngữ đó, bao gồm cả các
thành tố liên cá nhân (xã hội - biểu cảm - ý chí) khác nhau - các thức, các
tình thái, các độ mạnh, và những hình thái khác nữa mà người nói nhồi
nhét vào trong tình huống nói”.
So với Halliday và Hasan thì cách định nghĩa của David Nunan có
phần dễ hiểu hơn. Theo ông “mạch lạc là tầm rộng mà ở đó diễn ngơn
được tiếp nhận như là có mắc vào nhau chứ không phải là một tập hợp câu
hoặc phát ngôn không có liên quan nhau”.
Các tác giả Việt ngữ học cũng đưa ra các cách nhìn nhận về mạch
lạc. Theo Nguyễn Thiện Giáp thì “văn bản mạch lạc là văn bản mà ở đó

8


người giải mã có thể cấu trúc lại sơ đồ của người nói một cách hợp lí
bằng cách suy luận những mối liên hệ giữa các câu và những mối liên hệ
riêng biệt của chúng với những mục đích thứ cấp khác nhau trong sơ đồ
giải thích, khiến cho sự khó hiểu trở nên dễ hiểu”. Theo quan điểm này,
mạch lạc không phụ thuộc vào những đặc trưng liên kết lẫn nhau mà phụ
thuộc vào qui mô mà người tạo ra văn bản cố gắng đạt được để cấu trúc
một sơ đồ hợp lí trong việc tạo ra văn bản. Cấu trúc một sơ đồ hợp lí
trong việc tạo ra văn bản lại phụ thuộc vào việc xem xét mỗi câu có phải
là sự thể hiện của một chân lí, một đóng góp cần thiết và thích hợp đối
với sơ đồ đó hay khơng.
Cịn theo Diệp Quang Ban, “mạch lạc là một khái niệm phức tạp và
bao gồm nhiều yếu tố trừu tượng khơng dễ xác định”. Từ góc độ dụng học,

ơng đã phát biểu rằng: “mạch lạc chính là sự áp dụng các qui tắc tạo hành
động và hiểu hành động nói”. Trong cuốn “Văn bản và liên kết trong tiếng
Việt” ông đã khái quát mạch lạc thành ba kiểu như sau.
1. Mạch lạc trong triển khai mệnh đề.
2. Mạch lạc trong hành động ngôn ngữ.
3. Mạch lạc theo nguyên tắc cộng tác.
Nếu đặt các cách hiểu mạch lạc này trong mối quan hệ với liên kết
và với văn bản/phi văn bản thì có thể thấy chính mạch lạc là yếu tố có tác
dụng làm cho một sản phẩm ngơn ngữ có tư cách là một văn bản.
Tác giả Nguyễn Hồ trong cuốn “Phân tích diễn ngơn - Một số vấn
đề lí luận và phương pháp” cũng đã nhận định rằng: “mạch lạc là một vấn
đề cốt yếu của lí luận phân tích diễn ngơn”. Trong chương 1, khi bàn về
vấn đề mạch lạc, ông cũng đã xem xét một vài khía cạnh tạo mạch lạc
chính trong diễn ngơn như mạch lạc trong liên kết, mạch lạc trong cấu
trúc… Nguyễn Hồ đã tóm tắt được quan điểm của các tác giả đi trước và
đưa ra được các ví dụ cụ thể để phân tích, bên cạnh đó ơng cũng tán thành

9


quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp cho rằng “cái quyết định để một sản
phẩm ngôn ngữ trở thành một diễn ngơn hay văn bản chính là mạch lạc”.
Khái niệm mạch lạc văn bản tuy chưa thống nhất nhưng các nhà
nghiên cứu đều xem mạch lạc là điều kiện đặc trưng và cơ bản nhất của
một văn bản đích thực. Tuy nhiên, mạch lạc vẫn là một cái gì đó khó nắm
bắt, bởi vì nó thuộc về tầm rộng và chiều sâu cấu trúc nội dung toàn văn
bản. Nhưng chắc chắn rằng chính mạch lạc mới khiến cho một sản phẩm
ngơn ngữ trở thành văn bản hay phát ngôn. Điều này cũng đã được các nhà
ngôn ngữ học như Lê Quang Thiêm, Nguyễn Thiện Giáp, Diệp Quang Ban,
Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thị Việt Thanh, Nguyễn Thị Thìn... nhắc đến. Tuy

có nhiều cách định nghĩa như vậy, nhưng chung quy lại, tất cả các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ học văn bản đều thống nhất ở một điểm: Mạch lạc là
đặc trưng quyết định tính thống nhất văn bản của một văn bản đích thực.
Những cách hiểu mạch lạc từ dung dị đến khái quát, từ đơn giản đến phức
tạp, một mặt giúp người quan tâm hình dung được hiện tượng mạch lạc ở
nhiều khía cạnh khác nhau, mặt khác chứng tỏ mạch lạc là một hiện tượng
phức tạp gồm nhiều yếu tố trừu tượng, không dễ xác định.
Theo chúng tôi, quan niệm về mạch lạc của David Nunan là đơn giản
và dễ hiểu nhất, lại có thể thâu tóm được tồn bộ các vấn đề về mạch lạc.
Do vậy trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi chấp nhận quan điểm về
mạch lạc của tác giả David Nunan và coi đó là phương hướng để đi sâu vào
tìm hiểu sự mạch lạc diễn ngôn hội thoại (cụ thể hơn là mạch lạc của các
cặp thoại Hỏi – Đáp) trong một số tác phẩm văn học hiện đại.
1.2. Phân biệt mạch lạc và liên kết
Chúng ta đều thừa nhận quan điểm rằng “ở đâu có văn bản đích thực
thì ở đó có mạch lạc”. Trong trường hợp này liên kết hình thức chỉ là
phương tiện hiển ngơn hố mạch lạc. Các câu trong một văn bản mạch lạc
có thể vẫn gắn bó với nhau mà khơng cần tới những dấu hiệu hình thức chỉ
ra quan hệ giữa các câu. Tuy nhiên ranh giới giữa mạch lạc và liên kết là
10


rất mong manh và chúng ta khó có thể phân biệt được chúng một cách rạch
rịi. Chúng ta có thể tạo ra những chuỗi câu có liên kết hình thức nhưng
khơng có mạch lạc, ví dụ:
Hồ Tây là hồ lớn nhất Hà Nội. Hà Nội là thủ đô nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia nằm ở khu vực Đơng
Nam Á.
Hay như ví dụ tác giả Trần Ngọc Thêm đưa ra:
Cắm bơi một mình trong đêm. Đêm tối bưng khơng nhìn rõ mặt

đường. Trên con đường ấy, chiếc xe lăn bánh rất êm. Khung cửa xe phía cơ
gái ngồi lồng đầy bóng trăng. Trăng bồng bềnh nổi lên qua dãy Pú Hồng.
Dãy núi này có ảnh hưởng quyết định đến gió mùa đơng bắc ở miền Bắc
nước ta. Nước ta bây giờ của ta rồi, cuộc đời bắt đầu hửng sáng.
Có thể thấy hai câu trong mỗi đơi câu của ví dụ trên đều có liên kết
với nhau bằng phương thức nhắc lại (lặp) từ vựng và từng đơi câu ấy cũng
hình thành được một đề tài chung nào đấy. Nhưng nhìn tồn bộ từ câu đầu
đến câu cuối thì ta khơng thể biết đề tài - chủ đề của chuỗi câu này là gì,
tức là khơng có sự mạch lạc.
Một ví dụ phổ biến khác mà rất nhiều cơng trình đã sử dụng:
Anh ấy đã từng đi đánh trận ở nhiều nơi. Anh đã bị hai phát đạn.
Một phát ở đùi. Một phát ở Đèo Khế.
Sự vi phạm tính logic trong triển khai mệnh đề ở đây làm cho câu
cuối cùng không “ăn nhập” được với phần văn bản đi trước, tức là không
mạch lạc với phần văn bản đi trước, mặc dù ở đây tính thống nhất đề tài chủ đề vẫn được bảo tồn.
Bên cạnh đó, có những phát ngơn khơng hề xuất hiện liên kết hình
thức nhưng chúng ta vẫn có thể nhận ra sự mạch lạc giữa chúng. Như ví dụ
mà Widdowson (1978) đưa ra:
A: Có điện thoại kìa.
B: Em đang tắm.
11


A: Thôi được.
Tác giả cho rằng đây là những phát ngơn mạch lạc vì có thể tạo ra
một ngữ cảnh và nhận dạng chức năng của mỗi phát ngôn trong ngữ cảnh
đó. Cụ thể là:
Chức năng

Phát ngơn

A: Có điện thoại kìa.

u cầu

B: Em đang tắm.

Xin lỗi vì khơng thực hiện yêu cầu

A: Thôi được.

Chấp nhận lời xin lỗi.

Điều này cũng ứng với quan điểm của Nunan (1993) : “khi các
chức năng đã nhận dạng được thì tính mạch lạc của các phát ngôn cũng
được phơi bày”.
Quay lại với vấn đề phân biệt giữa mạch lạc và liên kết, tác giả
Nguyễn Hoà đã nhận định rằng: Liên kết với tư cách là một phương tiện
hiện thực hố mạch lạc có một vai trị rất quan trọng trong lí luận và thực
tiễn phân tích diễn ngơn. Tuy nhiên cũng khơng nên hiểu ngược lại rằng
mạch lạc là các phương tiện liên kết. Liên kết chỉ là phương tiện để tạo
mạch lạc, và cũng chưa có bằng chứng cho thấy rằng một văn bản càng có
nhiều phương tiện liên kết thì tính mạch lạc của nó càng cao. Như vậy
chúng ta khơng nên lẫn lộn giữa liên kết và mạch lạc.
Về mối quan hệ giữa mạch lạc và liên kết, có thể nói như GS Diệp
Quang Ban: “Mạch lạc là yếu tố quyết định văn bản, trong đó nổi rõ lên
việc tạo thành tính thống nhất đề tài (chủ đề) của văn bản. Trong khi khơng
ít trường hợp, mạch lạc có thể sử dụng các phương tiện liên kết để làm cái
diễn đạt cho mình, tuy nhiên mạch lạc có thể khơng cần dùng đến phương
tiện liên kết, mà trái lại có dùng phương tiện liên kết chưa chắc đã tạo ra
được mạch lạc cho văn bản”. Ở Việt Nam, khái niệm mạch lạc đã được

một số nhà ngôn ngữ học diễn giải từ những góc độ khác nhau, bằng các
cách khác nhau. Đồng thời với việc tìm hiểu khái niệm mạch lạc, các tác
giả đều cố gắng phân biệt mạch lạc với liên kết – một khái niệm khá quen
12


thuộc trong giới ngôn ngữ học Việt Nam. Cũng theo ông thì: “Cách nhìn
chung nhất hiện nay là những từ ngữ trực tiếp diễn đạt các quan hệ kết nối
giữ các câu - phát ngôn làm thành các tiểu hệ thống (các phương tiện liên
kết) thì được xếp vào liên kết, còn những mối quan hệ kết nối nào thiết lập
được thơng qua ý nghĩa giữa các câu thì thuộc về mạch lạc”. “Mọi văn bản
có mạch lạc tiềm ẩn đều có thể sử dụng phương tiện liên kết để hiển ngơn
hóa các kết nối mạch lạc, liên kết trong chừng mực đó là một thứ phương
tiện liên kết của mạch lạc...”
Đỗ Hữu Châu đã viết: “Một văn bản, một diễn ngôn là một lập luận
đơn hay phức hợp bất kể văn bản viết theo phong cách chức năng nào.
Tính lập luận là sợi chỉ đỏ đảm bảo tính mạch lạc về nội dung bên cạnh
tính liên kết về hình thức của văn bản, của diễn ngơn”.
Theo Bùi Minh Tốn thì lại: “Trước đây, thuật ngữ liên kết được
dùng để chỉ chung cả phương diện liên kết nội dung lẫn liên kết hình thức
của văn bản. Gần đây, hai phương diện này được gọi bằng thuật ngữ khác
để phản ánh đúng đắn hơn bản chất của các vấn đề nghiên cứu. Vì thế,
phương diện liên kết nội dung nhận được tên gọi mới mạch lạc, trong khi
đó, phương diện liên kết hình thức vẫn được gọi chung là liên kết. Mạch
lạc trong văn bản được thể hiện cụ thể ra thành sự thống nhất về đề tài, sự
nhất quán về chủ đề và sự chặt chẽ về logic”.
Rõ ràng ở đây có sự phân biệt giữa mạch lạc và liên kết. Tuy mạch
lạc và liên kết không phải là những khái niệm đối lập nhau nhưng việc
phân biệt chúng không phải lúc nào cũng thật rõ ràng. Chúng ta đều hiểu
và chấp nhận quan điểm rằng liên kết chỉ là một trong những phương tiện

thể hiện sự mạch lạc chứ không phải là yếu tố quyết định mạch lạc. Trong
luận văn này, chúng tơi coi các liên kết hình thức là một yếu tố để củng cố
thêm cho mạch lạc của các diễn ngơn hội thoại nói chung và các cặp thoại
Hỏi – Đáp nói riêng, cịn chính sự liên hệ với nhau về mặt nội dung cũng
như sự liên hệ của những yếu tố ngầm ẩn giữa các phát ngôn mới là nhân
13


tố quyết định xem các diễn ngôn hội thoại/các cặp thoại Hỏi - Đáp đó có
mạch lạc hay khơng.
1.3. Mạch lạc diễn ngôn
Với cách hiểu chung nhất, mạch lạc tồn tại trong ba phạm vi khái
quát nhất là: mạch lạc trong quan hệ nghĩa – logic giữa các từ ngữ trong
văn bản, mạch lạc trong quan hệ giữa văn bản với ngữ cảnh tình huống,
mạch lạc trong quan hệ giữa các hành động nói (mạch lạc trong diễn ngơn).
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ xin đi vào nghiên cứu phạm vi
mạch lạc trong các diễn ngôn hội thoại, cụ thể hơn là các cặp thoại Hỏi –
Đáp của một số tác phẩm văn học hiện đại.
Trong câu nói diễn đạt các hành động nói nối tiếp nhau một cách
chấp nhận được có thể chứa những từ ngữ cho thấy chúng liên kết với
nhau, cũng có thể khơng chứa những từ ngữ liên kết chúng, nhưng chúng
vẫn có thể đi được với nhau. Khả năng cùng đi với nhau của các hành động
nói như vậy được gọi là khả năng dung hợp nhau của các hành động nói.
Ví dụ:
- Hơm nay em cho anh ăn món gì đấy?
- Anh đi mà hỏi con Liên ấy!
Rõ ràng ở đây người trả lời không đáp trực tiếp vào hành động hỏi
có chủ hướng của người hỏi mà lại đáp vào chính việc hỏi của người hỏi.
Đứng ở phương diện từ ngữ thì hai phát ngơn này có vẻ khơng ăn nhập với
nhau nhưng xét về khả năng dung hợp giữa các hành động nói thì rất mạch

lạc. Vì phát ngơn của người hỏi là một hành động hỏi và phát ngôn của
người trả lời là một hành động trả lời.
1.4. Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi – Đáp
* Cặp thoại Hỏi – Đáp
Cặp thoại Hỏi – Đáp có đầy đủ các tính chất và đặc điểm của một
cặp thoại thơng thường và xảy ra khi người nói đưa ra lời trao là một câu

14


hỏi và người nghe có sự phản ứng lại. Cả hai làm thành một chu trình giao
tiếp khép kín.
Về cơ bản, hỏi là tìm kiếm thơng tin, khi chưa biết một vấn đề X
nào đó thì chúng ta đặt câu hỏi về X và mong muốn được cung cấp thông
tin về X. Thơng tin về X đó có thể được xác định ngay trong cấu trúc câu
hỏi bởi các tiểu từ hỏi như ai, cái gì, ở đâu… X cũng có thể được xác định
thơng qua các cấu trúc ngữ pháp như “Có X hay khơng?”, khi đó câu trả
lời có thể là “có X” hoặc “khơng có X”.
Như vậy, dạng chính thức của một cặp thoại Hỏi – Đáp là:
Hỏi: tìm thơng tin về X
Đáp: cung cấp thơng tin về X
Tuy nhiên cần phải hiểu ý nghĩa cụm từ “cung cấp thông tin về X” ở
đây theo nghĩa rộng. Trong thực tế không phải lúc nào chúng ta cũng có thể
nhận được một câu trả lời truyền đạt trọn vẹn thơng tin về sự thật, sự tình X
nào đó mà ta đã đề cập trong câu hỏi. Nhiều lúc lời đáp có thể chỉ là những
phát ngơn được người nói phát ra để phản ứng lại những phát ngơn trước
đó. Nguyên nhân của những phản ứng này rất đa dạng, người hỏi không
đúng với cương vị câu hỏi được đặt ra, người hỏi có thái độ khơng thích
hợp trong hành vi hỏi, câu hỏi đặt ra nhưng lại sai về tiền giả định… Thậm
chí ở một số trường hợp, lời đáp dường như khơng có sự “ăn khớp” với câu

hỏi song người nghe vẫn có thể hiểu, tiếp nhận và đáp trả lại để duy trì
cuộc thoại. Trong tất cả các trường hợp, hình thức của những lời đáp này
cũng rất khác nhau: có thể là câu trần thuật, câu cảm thán, câu hỏi… Đơi
khi, lời đáp cịn được đưa ra dưới hình thức các cử chỉ, điệu bộ hay sự im lặng.
Chúng tôi nhận thấy rằng xảy ra hai khả năng đối với lời đáp:
- Trường hợp 1: lời đáp là sự trả lời vào vấn đề được hỏi.
- Trường hợp 2: lời đáp là sự phản ứng lại với phát ngơn hỏi. Sự
phản ứng này có thể được diễn đạt bằng các phương tiện ngôn ngữ hoặc phi
ngôn ngữ (cử chỉ, điệu bộ, sự im lặng).
15


Trong cả hai trường hợp lời đáp kể trên, cặp thoại Hỏi – Đáp vẫn duy
trì được yếu tố người nghe hiểu và tiếp nhận những phát ngơn mà người
nói phát ra. Đảm bảo cho yếu tố đó chính là bởi giữa lời trao và lời đáp của
cặp thoại có sự mạch lạc. Đây cũng chính là vấn đề mà chúng tơi sẽ đi sâu
vào tìm hiểu trong những chương sau.
* Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi - Đáp
Bất cứ một câu hỏi nào khi được phát ngôn ra đều tiền giả định trong
đó những câu trả lời. Nhiệm vụ của người nghe là phải tìm ra lời đáp tương
ứng với một (một số) tiền giả định đó, giúp hình thành một cái “mạch”
xuyên suốt câu hỏi và câu đáp. Đó chính là sự mạch lạc giữa các cặp thoại
Hỏi – Đáp.
Đối với các cặp thoại Hỏi – Đáp mà lời đáp thuộc vào trường hợp
thứ nhất trong hai trường hợp kể trên, chúng tơi tạm gọi đó là các cặp thoại
Hỏi – Đáp tương hợp. Mạch lạc giữa các cặp thoại này thể hiện ở chỗ câu
đáp đã sử dụng các phương tiện ngôn ngữ hiển ngôn để lấp đầy điểm hỏi
trong câu hỏi, đồng nhất một sự tình, sự vật nào đó với đối tượng nghi vấn
mà câu hỏi đặt ra. Khi đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy có sự tương hợp giữa
hai phát ngơn hỏi và đáp, người nghe dễ dàng hiểu được câu hỏi của người

nói và từ đó đưa ra các lời đáp phù hợp.
Đối với các cặp thoại Hỏi – Đáp mà lời đáp thuộc vào trường hợp
thứ hai, chúng tôi cũng xin được quy ước gọi là các cặp thoại Hỏi – Đáp
không tương hợp. Trong thực tế cuộc sống, những cặp thoại này xuất hiện
rất nhiều, rất đa dạng, phong phú. Trong một số trường hợp phát ngôn hỏi
và phát ngơn đáp dường như khơng hề có sự ăn nhập với nhau, giữa chúng
thiếu vắng hoàn toàn các phương tiện liên kết hiển ngơn song lời đáp vẫn
chính là câu trả lời xác đáng, cần thiết cho câu hỏi. Khi đó, sự mạch lạc
giữa các phát ngơn trong cặp thoại khơng dễ dàng tìm được bởi các phương
tiện ngơn ngữ hiển ngôn nữa mà như nằm sâu ở một tầng ngầm ẩn, một nấc

16


nghĩa nào đó mà phải vận dụng các kiến thức ngôn ngữ về tiền giả định, về
hàm ý… chúng ta mới có thể phát hiện ra được.
Như trên đã trình bày, tác giả Diệp Quang Ban trong cơng trình
nghiên cứu “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt” đã khái quát mạch lạc
thành ba kiểu: mạch lạc trong triển khai mệnh đề, mạch lạc trong hành
động ngôn ngữ và mạch lạc theo nguyên tắc cộng tác. Trong phạm vi luận
văn này, chúng tôi sử dụng cách phân chia mạch lạc của Diệp Quang Ban
như kim chỉ nam, như phương pháp phân tích khi nghiên cứu mạch lạc ở
các cặp thoại Hỏi – Đáp. Tuy nhiên, theo quan niệm của Diệp Quang Ban
thì mạch lạc trong triển khai mệnh đề bao gồm có mạch lạc thể hiện trong
tính thống nhất đề tài - chủ đề, mạch lạc thể hiện trong tính hợp lý logic của
sự triển khai mệnh đề, mạch lạc thể hiện trong trình tự hợp lý giữa các câu
(mệnh đề). Theo ơng, tính thống nhất đề tài - chủ đề có tầm quan trọng nhất
định đối với việc tạo lập và giải quyết văn bản. Tính thống nhất đề tài - chủ
đề chính là kết quả của mạch lạc, sự vi phạm tính thống nhất này được cụ
thể hố thành sự vi phạm tính hợp lý của sự triển khai mệnh đề.

Mạch lạc trong tính hợp lý logic của sự triển khai mệnh đề: sự vi
phạm tính logic trong triển khai mệnh đề ở đây làm cho câu (mệnh đề cuối
cùng) không “ăn nhập” được với phần văn bản đi trước, tức là không mạch
lạc với phần văn bản đi trước.
Mạch lạc thể hiện trong trình tự hợp lý logic giữa các câu (mệnh đề):
giữa các sự việc chứa trong các câu (mệnh đề) có thể có mối quan hệ
nguyên nhân hoặc quan hệ giữa các mệnh đề trong lập luận.
Luận văn của chúng tơi đi vào tìm hiểu mạch lạc diễn ngôn hội thoại,
cụ thể hơn là mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi – Đáp cho nên chúng tơi chỉ
xin đề cập đến khía cạnh mạch lạc trong tính thống nhất chủ đề đề tài, lấy
đó là cơ sở giải thuyết cho nội dung chương hai, còn hai khía cạnh sau
thiên về nghiên cứu mạch lạc trong các văn bản viết nên không thuộc phạm
vi nghiên cứu của chúng tôi.
17


Như chúng ta đã biết, cặp thoại Hỏi – Đáp tương hợp là cặp thoại mà
lời đáp trả lời trực tiếp vào vấn đề được hỏi, lấp đầy điểm hỏi được nêu ra
trong câu hỏi. Mạch lạc của cặp thoại này rất dễ thấy do các yếu tố ngôn
ngữ hiển ngôn, các phương tiện liên kết ngữ kết học được sử dụng trực
tiếp, hay nói cách khác là có sự thống nhất trong chủ đề, đề tài giữa phát
ngôn hỏi và phát ngơn đáp, người nói hỏi gì thì người nghe đáp trực tiếp
vào vấn đề người nói quan tâm, tức là họ cùng nói về một chủ đề, đề tài,
tạo nên mạch lạc cho cặp thoại. Mạch lạc trong các cặp thoại Hỏi – Đáp
tương hợp giải thuyết theo tính thống nhất đề tài - chủ đề sẽ được chúng tơi
trình bày rõ hơn trong chương 2 của luận văn.
Tuy nhiên không phải lúc nào câu trả lời cũng giải đáp trực tiếp vấn
đề người nói quan tâm, khơng phải lúc nào câu hỏi và câu đáp cũng tương
hợp, cũng thống nhất về chủ đề, đề tài. Có khi người nghe không trả lời câu
hỏi mà sử dụng các phương thức khác như hỏi lại, nói tránh đi, phủ định

câu hỏi… Có khi người nghe sử dụng các phương tiện ngơn ngữ hàm ngơn,
tiền giả định, thậm chí có khi người nghe không trả lời mà dùng các động
tác, điệu bộ, cử chỉ để đáp lời người nói. Nhìn chung trường hợp cặp thoại
Hỏi – Đáp không tương hợp là vơ cùng đa dạng phong phú và nó cũng
chính là vấn đề chúng tơi quan tâm trình bày ở chương 3. Nói theo Diệp
Quang Ban: “trong những cặp thoại dạng này thì nội dung từ ngữ của câu
khơng giữ vai trò đáng kể trong việc xem xét mạch lạc mà sự dung hợp
giữa các hành động nói mới là vấn đề quan tâm”. Người nói và người nghe
có thể không trực tiếp đề cập đến cùng một đề tài nhưng các hành động nói
có sự dung hợp, chấp nhận nhau thì cặp thoại vẫn có mạch lạc.
2. Vấn đề hội thoại
2.1. Lý thuyết hành vi ngơn ngữ
Theo Austin, có ba loại hành vi ngôn ngữ trong một phát ngôn là
hành vi tạo lời, hành vi tại lời và hành vi mượn lời.
18



×