Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Khảo sát nhóm động từ chỉ hướng vận động trong tiếng Hán (so sánh với tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 151 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN








TRỊNH MINH HẢI




Khảo sát nhóm động từ chỉ hướng vận động
trong tiếng Hán (so sánh với tiếng Việt)





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC









HÀ NỘI, 2008



QUY ƯỚC VIẾT TẮT


Chủ ngữ : CN
Vị ngữ : VN
Bổ ngữ : BN
Từ chỉ hướng : TCH
Từ chỉ hướng đơn : TCHĐ
Từ chỉ hướng phức : TCHP
Danh từ chỉ nơi chốn : DTNC
Động từ : ĐT




















1
1
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu 5
4. Phương pháp nghiên cứu 6
5. Bố cục của luận văn 7
CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 8
I. Lịch sử vấn đề 8
1. Tình hình nghiên cứu về động từ chỉ hướng trong tiếng Hán 8
2. Tình hình nghiên cứu về động từ chỉ hướng trong tiếng Việt 12
3. Động từ chỉ hướng nhìn từ góc độ ngôn ngữ tri nhận 18
CHƢƠNG 2: MIÊU TẢ CÁC ĐỘNG TỪ CHỈ HƢỚNG TIẾNG HÁN
VỚI VAI TRÒ LÀ ĐỘNG TỪ CHÍNH TRONG CÂU 23
2.1. Đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của động từ chỉ hướng 23
2.1.1. Nghĩa không gian 24
2.1.2. Nghĩa thời gian 41
2.1.3. Nghĩa trạng thái/kết quả 46
2.2. Đặc điểm kết hợp của động từ chỉ hướng 50
2.2.1. Kết hợp với danh từ 51

2.2.2. Kết hợp với động từ 53
2.2.3. Kết hợp với tính từ 55
2.2.4. Kết hợp với các phương vị từ: zhong, qián, shang, wài… 56
2.2.5. Kết hợp với trợ động từ 57


2
2

2.2.6. Kết hợp với phó từ 57
2.2.7. Kết hợp với trợ từ 58
2.2.8. Hình thức lặp của động từ chỉ hướng 59
2.2.9. Động từ chỉ hướng trong các ngữ cố định 61
2.3. Đặc điểm chức năng ngữ pháp của động từ chỉ hướng 65
2.3.1. Là một bộ phận của đoản ngữ 65
2.2.2. Là thành phần câu 69
2.3.3. Là câu độc lập 69
CHƢƠNG 3: MIÊU TẢ CÁC ĐỘNG TỪ CHỈ HƢỚNG TIẾNG HÁN
VỚI VAI TRÒ LÀ TỪ PHỤ TRONG CÂU 72
3.1. Đặc điểm ngữ nghĩa 74
3.1.1. Nghĩa chỉ hướng 75
3.1.2. Nghĩa kết quả 81
3.1.3. Nghĩa trạng thái 91
3.2. Đặc điểm kết hợp của từ chỉ hướng 99
3.2.1. Kết hợp với danh từ 99
3.2.2. Kết hợp với động từ 100
3.2.3. Kết hợp với tính từ 105
3.2.4. Khi xuất hiện trong các ngữ cố định (cụm từ, thành ngữ, tục ngữ) - 105
3.3. Đặc điểm chức năng cú pháp của từ chỉ hướng 107
3.3.1. Làm bổ ngữ 108

3.3.2. Là trạng ngữ 111
PHẦN BA: KẾT LUẬN 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO 117
PHỤ LỤC 123


3
3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Có thể nói rằng nhận thức chung về hướng của các dân tộc trên thế giới
cơ bản là giống nhau. Trong ngôn ngữ của các nước đều có các từ chỉ hướng
của bầu trời và trái đất như Đông, Tây, Nam, Bắc, các từ ngữ biểu thị hướng
ở trạng thái tĩnh như: trên, dưới, trong, ngoài … cũng như các hướng di
chuyển chung trong không gian như ra, vào, lên, xuống, … Tuy nhiên, đi vào
những biểu hiện cụ thể liên quan đến các hoạt động di chuyển trong phạm vi
địa lý của mỗi dân tộc và mỗi khu vực, cũng như cách thức biểu thị hướng
cho các hoạt động di chuyển thì giữa các dân tộc lại có những cách nhìn nhận
và phản ánh khác nhau. Những nhân tố về địa lý, lịch sử, xã hội … có những
ảnh hưởng rất lớn và để lại những dấu ấn khá đậm trong cách sử dụng các từ
chỉ hướng của nhiều dân tộc. Tuy nhiên ngoài những tác động khách quan
của xã hội, bản thân các ngôn ngữ đều có những quy luật riêng trong việc tổ
chức các đơn vị để điều chỉnh cấu trúc nội bộ của mình và phản ánh tư duy
về hướng theo kiểu của dân tộc mình. Luận văn của chúng tôi tập trung vào
nghiên cứu việc sử dụng các động từ chuyển động có hướng, các cách thức
biểu hiện ý nghĩa hướng trong tiếng Hán so sánh với tiếng Việt để thấy được
những đặc thù riêng của mỗi dân tộc trong vấn đề này như thế nào.
Để định hướng trong không gian, các ngôn ngữ trên thế giới dùng rất

nhiều phương tiện biểu đạt. Một trong những phương tiện biểu đạt sự định
hướng không gian trong tiếng Hán là động từ chỉ hướng. Đây cũng là nhóm
từ được sử dụng phổ biến trong các ngôn ngữ đặc biệt là trong một số ngôn
ngữ đơn lập không biến hình của khu vực Đông Nam Á như tiếng Việt, tiếng
Thái, tiếng Khmer, để biểu thị phương hướng của hành động.


4
4
Là một giáo viên dạy ngoại ngữ (dạy tiếng Hán cho người Việt và
tiếng Việt cho người nước ngoài - đặc biệt là người Trung Quốc) tôi thấy các
động từ chỉ hướng này được dùng rất cơ động và xuất hiện với tần số rất cao
(cả trong văn nói lẫn văn viết). Mặt khác, hình thức và ý nghĩa của các cấu
trúc này vô cùng phức tạp, khiến người học gặp rất nhiều khó khăn khi sử
dụng. Trong quá trình giảng dạy tôi nhận ra rằng việc hiểu biết sâu hơn về ý
nghĩa cũng như cách thức sử dụng những động từ thuộc nhóm này một cách
chính xác là rất cần thiết cho sinh viên để họ có thể vận dụng dễ dàng khi nói
cũng như khi viết.
Chính vì những lý do trên mà tôi đã chọn đề tài này làm đề tài luận văn
cao học của mình để có thể nói rõ được đặc điểm cú pháp, ngữ nghĩa của
chúng một cách đầy đủ. Ở một chừng mực nào đó có thể tiến hành so sánh
các vấn đề liên quan của tiếng Hán và tiếng Việt, từ đó có thể phân tích lỗi
dùng sai động từ chỉ hướng của người nước ngoài khi học tiếng Việt.
Ngoài những mục tiêu đó, chúng tôi hy vọng đề tài mình lựa chọn đi
vào những khía cạnh mới và có những đóng góp lý luận thực tiễn ở phạm vi
liên quan nhất là khi tiếng Việt được nhiều người Trung Quốc học và sử dụng
như hiện nay.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Tên đề tài cho thấy chỉ có những động từ có ý nghĩa chỉ hướng của

hành động như 来(lái)-đến,去(qù)-đi, 上(shàng)-lên, 下(xìa)-xuống,
进(jìn)-vào,出(chu)-ra, 回(húi)-về, 过(guò)-qua/sang, 起(qi)-
lên, 开(kai)-ra, 到 (dào)-đến, 上来(shàng lái), 上去(shàng qù),
下来(xià lái), 下去 (xià qù), 进来 (jìn lái), 进去 (jìn qù), 出来 (chu
lái),出去 (chu qù),回来 (húi lái),回去 (húi qù),过来 (guò lái),过去
(guò qù),起来 (qi lái),到…来 (dào lái),到…去 (dào qù), 来到 (lái


5
5
dào) trong tiếng Hán và các biểu hiện tương đương trong tiếng Việt như: ra,
vào, lên, xuống, sang, qua, về, lại, đi, đến, tới … mới là đối tượng nghiên
cứu. Trong tiếng Việt còn có rất nhiều từ đồng âm với những động từ chỉ
hướng trên nhưng không biểu thị hướng của hành động như “đi” trong ăn
đi , những từ này không nằm trong phần nghiên cứu của tôi. Với phạm vi
nghiên cứu của luận văn, tôi chỉ xin đề cập đến ý nghĩa gốc và ý nghĩa
chuyển dịch của các động từ này cũng như một số cách dùng cố định đặc thù.
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu
Luận văn được thực hiện với mục đích khai thác tìm hiểu những động
từ chỉ hướng vận động, phân tích các mối quan hệ giữa các thành tố của kết
cấu để đi đến nhận xét chung. Từ đó tìm hiểu nghĩa của các động từ chỉ
hướng để thấy được những nét đặc trưng văn hoá, tư duy của người Trung
Quốc. Chúng tôi khai thác triệt để những khía cạnh ngữ nghĩa của động từ chỉ
hướng để sử dụng một cách hiệu quả trong giao tiếp, hiểu đúng và biết cách
dùng chính xác trong văn bản viết cũng như trong giao tiếp tiếng Việt, một
ngôn ngữ đang được nhiều người nước ngoài học và sử dụng.
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi tiến hành thống kê, tập hợp tư
liệu từ hai tác phẩm văn học của hai nhà văn nổi tiếng: AQ chính truyện của
Lỗ Tấn, Tường Lạc Đà của Lão Xá và bản dịch tiếng Việt của hai tác phẩm
này. Đây là hai tác phẩm được nhiều độc giả biết đến, đặc biệt là chúng được

giảng dạy trong các trường học cho người theo học tiếng Hán. Sau khi tập
hợp tạm đủ, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích về đặc điểm ngữ nghĩa , đặc
điểm kết hợp và cấu trúc ngữ pháp của nhóm từ này.
Kết cấu, ngữ nghĩa của động từ chỉ hướng trong tiếng Hán và hình thức
tương ứng trong tiếng Việt có nhiều điểm không giống nhau, có những điểm
đan xen với nhau, cho nên khi sử dụng đôi khi người học thấy khó khăn. Mục
đích của đề tài là làm sáng tỏ đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của động từ chỉ


6
6
hướng trong tiếng Hán với các biểu hiện tương đương trong tiếng Việt; tìm
hiểu các nét tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ này đồng thời xem xét
cách chuyển dịch các từ chỉ hướng từ tiếng Hán sang tiếng Việt để vận dụng
vào việc dạy tiếng Trung cho sinh viên Việt Nam. Nắm vững cách dùng động
từ chỉ hướng là một việc rất quan trọng đối với những người làm công việc
giảng dạy ngoại ngữ. Chúng tôi cần phải hiểu rõ những khó khăn mà người
học thường mắc phải, giúp họ tự tin hơn khi gặp phải các trường hợp đặc
biệt.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Từ việc phân tích đặc điểm ngữ nghĩa, đặc điểm kết hợp và chức năng
ngữ pháp của các động từ chỉ hướng, chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống kê để lấy tư liệu về từ chỉ
hướng trong tiếng Việt từ hai tác phẩm văn học.
Như vậy ngoài các phương pháp luận chung là quy nạp, luận văn đã sử
dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu thường gặp trong ngôn ngữ học
như: phương pháp miêu tả (thao tác phân tích cấu trúc, thao tác phân tích ngữ
nghĩa, thao tác thống kê), so sánh đối chiếu… Cùng với việc quan sát cách sử
dụng từ chỉ hướng trong giao tiếp cũng như trong sách báo hàng ngày, chúng
tôi tập hợp tư liệu chủ yếu từ hai tác phẩm văn học của hai nhà văn nổi tiếng:

AQ chính truyện của Lỗ Tấn, Tường Lạc Đà của Lão Xá và bản dịch tiếng
Việt. Ngoài ra luận văn cũng sử dụng một số tư liệu được lấy từ các giáo
trình, các sách ngữ pháp, từ những công trình nghiên cứu của các tác giả đi
trước ….
Từ hai tác phẩm tiếng Trung và hai bản dịch tiếng Việt nói trên, chúng
tôi đã tiến hành thống kê phân loại ra được 3700 phiếu. Mỗi phiếu là một câu
có chứa ít nhất một động từ chỉ hướng. Trong 3700 phiếu tư liệu, chúng tôi
lấy ra khoảng 330 phiếu điển hình để đưa vào luận văn. Hơn 330 phiếu này là


7
7
330 câu có những đặc điểm mà luận văn đã đề cập đến trong chương hai và
chương ba. Chúng tôi phân loại các câu này thành hai loại lớn như luận văn
đã khảo sát: Động từ chỉ hướng với vai trò là chính tố và phụ tố. Từ hai loại
trên, các động từ chỉ hướng này cũng được chia tiếp thành các loại nhỏ hơn
theo đúng như nội dung luận văn đã tiến hành phân loại khảo sát.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được chia làm
ba chương chính như sau:
Chương 1: Lịch sử vấn đề và cơ sở lý thuyết có liên quan đến đề tài.
Chương 2: Miêu tả các động từ chỉ hướng tiếng Hán với vai trò là động từ
chính trong câu (so sánh với tiếng Việt)
Chương 3: Miêu tả các động từ chỉ hướng tiếng Hán với vai trò là từ phụ
trong câu (so sánh với tiếng Việt)


















8
8
CHƢƠNG I: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
I. Lịch sử vấn đề
Các ngôn ngữ trên thế giới có các phương thức biểu đạt sự định hướng
không gian khác nhau. Trong đó thường được nhắc đến nhiều hơn cả là các
động từ chỉ hướng vận động trong không gian. Động từ chỉ hướng là những
từ biểu thị phương hướng của chuyển động. Thuật ngữ này được giới nghiên
cứu ngôn ngữ học thế giới quan tâm. Nhóm động từ này là một trong những
công cụ từ vựng biểu đạt quan hệ không gian rất hữu hiệu đặc biệt trong tiếng
Hán và tiếng Việt – hai ngôn ngữ có cùng loại hình với nhau Trước khi đi
sâu phân tích đặc trưng của hệ thống từ loại này chúng ta sẽ tìm hiểu các
thành tựu nghiên cứu có liên quan của các nhà Hán ngữ học, Việt ngữ học.
1. Tình hình nghiên cứu về động từ chỉ hƣớng trong tiếng Hán
Cho đến nay, hầu như các sách ngữ pháp, sách giáo khoa đều gọi các từ
biểu thị hướng như 来 (lái) - đến,去 (qù) - đi , 上 (shàng) - lên,下
(xìa) - xuống,进 (jìn) - vào, 出 (chu) - ra, 回 (húi) - về, 过

(guò) - qua/sang, 起 (qi) - lên, 开 (kai) - ra, 到 (dào) - đến,
上来 (shànglái),上去 (shàng qù), 下来 (xià lái), 下去 (xià qù), 进来
(jìn lái), 进去 (jìn qù), 出来(chu lái),出去(chu qù),回来(húi
lái),回去 (húi qù),过来 (guò lái),过去 (guò qù),起来 (qi lái),到…来
(dào lái),到… 去 (dào qù), 来到 (lái dào) trong tiếng Hán là động từ chỉ
hướng, đồng thời coi chúng như một tiểu loại hay một loại phụ của động từ.
Động từ chỉ hướng là một từ loại khá đặc thù trong tiếng Hán vì thế nó gây
được nhiều sự chú ý của các nhà Hán ngữ học. Trong hệ thống từ loại tiếng
Hán từ chỉ hướng là loại động từ có tần số xuất hiện khá cao, ngoài những đặc
điểm cơ bản của động từ, chúng cũng có những cá tính riêng của mình, những


9
9
loại từ này số lượng có hạn. Theo các nghiên cứu của các học giả ngữ pháp
Hán ngữ như Lục Kiệm Minh [39], Lưu Nguyệt Hoa [37] và một số học giả
khác thì động từ chỉ hướng trong tiếng Hán có tổng cộng là 24 từ, đại thể
phân thành các nhóm sau:
- Nhóm 1: 来 (lái), 去 (qù).
- Nhóm 2: 上 (shàng),下 (xìa),进 (jìn),出 (chu),回 (húi),过
(guò),起 (qỉ),开 (kai),到 (dào).
- Nhóm 3: 上来 (shàng lái), 上去 (shàng qù), 下来 (xìa lái), 下去 (xià
qù), 进来 (jin lái), 进去 (jin qù), 出来 (chu lái), 出去 (chu qù), 回来
(húi lái),回去 (húi qù), 过来 (guò lái),过去 (guò qù), 起来 (qi lái).
Theo các nhà Hán ngữ học này thì động từ chỉ hướng trong tiếng Hán
là một loại từ đặc biệt, được sử dụng rộng rãi, ngữ pháp khá phức tạp. Có
động từ chỉ hướng đơn âm tiết như ở nhóm 1, nhóm 2; hoặc song âm tiết như
ở nhóm 3. Nhóm 3 bao gồm các từ được tạo thành từ sự kết hợp của nhóm 1
và nhóm 2.
Khi nghiên cứu về ý nghĩa của bổ ngữ chỉ hướng, rất nhiều học giả đều

nhất trí về ý nghĩa chỉ hướng của động từ chỉ hướng đặt sau động từ chính
làm bổ ngữ. Trong [34], Đinh Thanh Thụ nhấn mạnh: trong các loại hình ý
nghĩa của bổ ngữ, động từ chỉ hướng đảm nhiệm thành phần đứng sau trung
tâm, chỉ phương hướng, bổ sung và nói rõ sự biến hóa của hành vi động tác
hay trạng thái.
Trong nghiên cứu của mình, Lưu Nguyệt Hoa [37] có chỉ ra rằng từ chỉ
hướng trong cấu trúc động bổ có ba ý nghĩa ngữ pháp. Đó là nghĩa không
gian, nghĩa kết quả, và nghĩa trạng thái, đồng thời tác giả cũng đã chỉ ra tiêu
chí về mặt hình thức ngữ pháp để phân biệt loại ý nghĩa này. Một số nhà
nghiên cứu khác đã quy nạp được bảy loại nghĩa của bổ ngữ chỉ hướng và
đặc điểm hình thức ngữ pháp của đoản ngữ chỉ hướng.


10
10
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu miêu tả và giải thích rất tỉ mỉ
cặn kẽ cấu trúc ĐT +TCH. Lã Thúc Tương [36] đã đề cập đến cấu trúc từ chỉ
hướng đi sau động từ, miêu tả cấu trúc này từ phương diện phân bố.
Trong các nghiên cứu về động từ chỉ hướng ở vị trí sau động từ, rất
nhiều học giả nhất trí về ý nghĩa chỉ hướng của động từ nhưng quan điểm về
ý nghĩa ngoài nghĩa chỉ hướng lại rất khác nhau. Những từ nói trên không
phải lúc nào cũng biểu thị nghĩa phương hướng, có lúc nghĩa của chúng
tương đối thực, tự do và linh hoạt, có lúc lại nửa thực nửa hư, kết chặt và
định vị, dường như ở giữa hai loại.
Trần Mạo Lai [44] đã chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng này đồng thời
cũng chỉ ra phương pháp nghiên cứu động từ chỉ hướng. Trần Mạo Lai cho
rằng hướng của động từ chỉ hướng ở vị trí này xét về mặt ý nghĩa có ít nhất 3
loại nghĩa: nghĩa phương hướng không gian, nghĩa kết quả và nghĩa động
thái. Lưu Nguyệt Hoa [37] cũng đã chỉ ra tiêu chí về mặt hình thức ngữ pháp
để phân biệt 3 loại ý nghĩa: nghĩa phương hướng, nghĩa kết quả và nghĩa

trạng thái này.
Theo các nhà Hán ngữ học thì nghĩa của động từ chỉ hướng ở vị trí bổ
ngữ là vô cùng phức tạp, ngoài nghĩa cơ bản (nghĩa chỉ hướng) ra, đều là
nghĩa đã bị hư hoá từ nghĩa gốc, thậm chí mức độ chênh lệch khá nhiều, khó
mà nắm vững được. Bên cạnh đó, tiếng Hán thiếu sự biến hoá hình thái, sử
dụng cùng một hình thức để biểu thị ý nghĩa khác nhau, vì thế rất khó lấy tiêu
chuẩn hình thức đơn giản mà có hiệu quả để phân biệt ý nghĩa của những từ
này. Vì vậy, việc xuất hiện các ý kiến khác nhau trong nghiên cứu về ý nghĩa
của động từ chỉ hướng là điều khó tránh khỏi.
Cũng có nhà nghiên cứu đã phân ra động từ chỉ hướng ở vị trí bổ ngữ
có bổ ngữ chỉ hướng đơn và bổ ngữ chỉ hướng phức, trong đó bổ ngữ chỉ
hướng phức ngoài việc là các bổ ngữ chỉ phương hướng ra còn là các bổ ngữ

×