Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Cảnh huống đa ngữ trên địa bàn huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 166 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN HOÀNG LAN



ÂCẢNH HUỐNG ĐA NGỮ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀ AN, TỈNH CAO BẰNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC





Hµ Néi – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN HOÀNG LAN


ÂCẢNH HUỐNG ĐA NGỮ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀ AN, TỈNH CAO BẰNG


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
M· sè: 60.22.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN VĂN KHANG








HÀ NỘI – 2010




1
MỤC LỤC
Trang

MỤC LỤC
1

QUY ƢỚC VIẾT TẮT
4

DANH MỤC CÁC BẢNG
5

MỞ ĐẦU
6
1.
Lí do chọn đề tài, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
6
2.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
10
3.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
13
4.
Phƣơng pháp nghiên cứu
14
5.
Bố cục luận văn
15


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
16
1.1.
Một số vấn đề cơ bản về hiện tƣợng đa ngữ
16

1.1.1. Khái niệm đa ngữ xã hội
16

1.1.2. Nguyên nhân nảy sinh hiện tƣợng đa ngữ xã hội
19
1.2.
Khái niệm cảnh huống ngôn ngữ
20

1.2.1. Định nghĩa cảnh huống ngôn ngữ
20

1.2.2. Cảnh huống ngôn ngữ của địa bàn khảo sát
21
1.3
Tiểu kết Chƣơng 1
31

Chƣơng 2
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG GIAO TIẾP
TẠI HUYỆN HOÀ AN, TỈNH CAO BẰNG
32

2.1.
Giới hạn đối tƣợng khảo sát
32
2.2.
Ý thức tự giác tộc ngƣời và vấn đề tiếng mẹ đẻ trên địa bàn
36

2.2.1. Ý thức tự giác tộc ngƣời
36

2.2.2. Tình hình tự nhận tiếng mẹ đẻ
39

2
2.3.
Năng lực ngôn ngữ của ngƣời dân trên địa bàn
42

2.3.1. Năng lực ngôn ngữ của ngƣời dân từ góc độ giới tính
42

2.3.2. Năng lực ngôn ngữ của ngƣời dân từ góc độ dân tộc
46

2.3.3. Năng lực ngôn ngữ của ngƣời dân theo độ tuổi
49
2.4.
Đặc điểm giao tiếp ngôn ngữ trong gia đình
52


2.4.1. Ngôn ngữ thƣờng dùng để giao tiếp với ngƣời thân
53

2.4.2. Ngôn ngữ thƣờng dùng để giao tiếp với khách
58
2.5.
Đặc điểm giao tiếp ngôn ngữ ngoài xã hội
63

2.5.1. Ngôn ngữ dùng trong giao tiếp hành chính (quy thức)
63

2.5.2. Ngôn ngữ dùng trong giao tiếp phi quy thức
67
2.6.
Đặc điểm giao tiếp trong một số trƣờng hợp khác
70
2.7.
Tiểu kết Chƣơng 2
73

Chƣơng 3
TÌNH HÌNH GIÁO DỤC NGÔN NGỮ
TẠI HUYỆN HOÀ AN, TỈNH CAO BẰNG
75
3.1.
Khái quát về đối tƣợng khảo sát
75

3.1.1. Một số nét về giáo dục huyện Hoà An và xã Bình Dƣơng

75

3.1.2. Phạm vi đối tƣợng khảo sát
79
3.2.
Năng lực ngôn ngữ của học sinh
81

3.2.1. Năng lực ngôn ngữ của học sinh mẫu giáo
81

3.2.2. Năng lực ngôn ngữ của học sinh tiểu học
84

3.2.3. Năng lực ngôn ngữ của học sinh trung học cơ sở
87
3.3.
Đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của học sinh trên địa bàn
92
3.4.
Những nhân tố ảnh hƣởng đến năng lực và đặc điểm sử dụng
ngôn ngữ của học sinh
93
3.5.
Thái độ ngôn ngữ của học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh
về việc sử dụng ngôn ngữ trong nhà trƣờng
95

3.5.1. Khái niệm về thái độ ngôn ngữ
95


3

3.5.2. Ý kiến của học sinh về việc sử dụng ngôn ngữ trong nhà
trƣờng
96

3.5.3. Ý kiến của giáo viên về việc sử dụng ngôn ngữ trong nhà
trƣờng
99

3.5.4. Ý kiến của phụ huynh học sinh về việc sử dụng ngôn ngữ
trong nhà trƣờng
101
3.6.
Tiểu kết Chƣơng 3
104

KẾT LUẬN
106

TÀI LIỆU THAM KHẢO
109

PHỤ LỤC
114

























4




QUY ƢỚC VIẾT TẮT



Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ
DT
Dân tộc
GS
Giáo sƣ
HS
Học sinh
PTCS
Phổ thông cơ sở
SL
Số lƣợng

Trình độ
THCS
Trung học cơ sở
TL
Tỉ lệ











5





DANH MỤC CÁC BẢNG



Bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Dân số theo thành phần dân tộc tỉnh Cao Bằng
24
1.2
Dân số theo thành phần dân tộc bản Khuổi Rỳ
27
1.3
Trình độ học vấn bản Khuổi Rỳ
29
2.1
Thành phần dân tộc theo giới tính của đối tƣợng khảo sát
33
2.2
Thành phần dân tộc theo độ tuổi của đối tƣợng khảo sát
33
2.3
Giới tính phân chia theo độ tuổi của đối tƣợng khảo sát
34
2.4
Trình độ học vấn của đối tƣợng khảo sát

34
3.1
Mạng lƣới trƣờng học huyện Hoà An
76
3.2
Số lƣợng học sinh các cấp học huyện Hoà An
77
3.3
Giới tính và thành phần dân tộc của học sinh
80
3.4
Khả năng thành thạo tiếng Việt của học sinh tiểu học
86
3.5
Tỉ lệ các phƣơng tiện truyền thông trong gia đình học sinh
94








6
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Nằm ở ngã ba đƣờng của Đông Nam Á - nơi cửa ngõ nối Đông
Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, giữa văn minh Trung Hoa phía
bắc và văn minh Ấn Độ phía tây, Việt Nam sớm trở thành nơi sinh tụ, gặp

gỡ, tiếp xúc giữa các bộ lạc, bộ tộc thuộc nhiều thành phần nhân chủng,
ngôn ngữ và văn hóa khác nhau. Theo tài liệu chính thức, trên lãnh thổ Việt
Nam hiện có 54 dân tộc cùng sinh sống [4, tr. 1]. Trong đó dân tộc Kinh
chiếm 86.8% dân số cả nƣớc, sống tập trung chủ yếu ở vùng châu thổ sông
Hồng, các đồng bằng ven biển miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long và
các thành phố lớn. 53 dân tộc khác, tổng cộng hơn 13 triệu ngƣời, phân bố
chủ yếu trên các vùng núi (chiếm 2/3 lãnh thổ), trải dài từ Bắc vào Nam
[44, tr. 15]. Có thể nói, lịch sử của đất nƣớc Việt Nam gắn liền với quá
trình cộng cƣ, đan xen cả về kinh tế-chính trị và văn hóa-xã hội của các dân
tộc sinh sống trên lãnh thổ qua nhiều thế kỉ. Điều này tạo nên bức tranh dân
tộc-văn hóa-ngôn ngữ vô cùng đa dạng, phong phú và cũng không kém
phần phức tạp trên đất nƣớc Việt Nam.
Cho đến nay vẫn chƣa có một con số chính xác, đủ sức thuyết phục về
số lƣợng các ngôn ngữ ở Việt Nam, nhiều trƣờng hợp chƣa xác định rõ đó là
ngôn ngữ dân tộc hay chỉ là một biến thể địa phƣơng (phƣơng ngữ) nhƣng
trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta thấy sự có mặt đầy đủ của các họ ngôn ngữ
quan trọng nhất ngữ hệ Đông Nam Á là: Nam Á, Thái-Kađai, Nam Đảo,
Mông-Dao, Hán-Tạng. Sự hội tụ này, nói nhƣ nhà ngôn ngữ học ngƣời Nga
V.B. Kasevich, đã tạo nên “một thiên đƣờng ngôn ngữ học” trên đất nƣớc
Việt Nam, thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
học trên thế giới.

7
Trong Lời nói đầu cuốn “Language in contact” của U.Weinreich, A.
Martinet đã viết: “Bây giờ đã đến lúc chúng ta phải nhấn mạnh rằng: Một
cộng đồng ngôn ngữ không bao giờ đồng nhất và khép kín” [dẫn theo 16, tr. 1].
Thật vậy, các cộng đồng ngôn ngữ trên lãnh thổ Việt Nam, dù có cùng nguồn
gốc hay không thì trong quá trình tiếp xúc lâu dài, những ảnh hƣởng, tác động
qua lại lẫn nhau trên nhiều cấp độ, từ ngữ âm đến từ vựng, ngữ pháp là điều
không tránh khỏi và ảnh hƣởng đó có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Ở mặt

tích cực, sự tiếp xúc ngôn ngữ sẽ góp phần làm phong phú hơn vốn từ vựng
của các ngôn ngữ; nhiều cách diễn đạt mới, nhiều cấu trúc ngôn ngữ mới cũng
sẽ đƣợc hình thành. Bên cạnh những mặt tích cực, sự tiếp xúc ngôn ngữ, trong
một chừng mực nào đó cũng có thể tạo ra những ảnh hƣởng tiêu cực. Vì có sự
khác biệt giữa các ngôn ngữ, giữa các cộng đồng dân tộc sử dụng các ngôn
ngữ khác nhau trên một địa bàn nhất định nên việc giao lƣu văn hóa, tình cảm
giữa các dân tộc bị hạn chế; việc truyền đạt chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đến đồng bào các dân tộc là hết sức
khó khăn; việc ứng dụng các thành tựu khoa học cũng nhƣ việc bảo tồn, giữ
gìn những giá trị văn hóa truyền thống gặp rất nhiều trở ngại… Chính vì vậy,
trong chiến lƣợc phát triển của mỗi quốc gia không thể thiếu đƣợc chính sách
dân tộc (trong đó có chính sách ngôn ngữ) đúng đắn, để định hƣớng cho sự
phát triển của các dân tộc cũng nhƣ sự phát triển của các ngôn ngữ trên lãnh
thổ quốc gia đó.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của ngôn ngữ trong bối cảnh quốc gia
đa dân tộc, đa ngôn ngữ, Đảng và Nhà nƣớc ta khi đề ra các chính sách phát
triển cho đồng bào các dân tộc thiểu số đã sớm chú trọng đến chính sách ngôn
ngữ. Ngay từ năm 1935, trong Nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu
số tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng đã xác định: “Mỗi dân tộc… được dùng
tiếng mẹ đẻ của mình trong sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hóa của mình”

8
[14, tr. 73]. Chủ trƣơng đó đã đƣợc quán triệt xuyên suốt các giai đoạn cách
mạng của dân tộc, cụ thể: Nghị quyết Hội nghị trung ƣơng lần thứ V, khoá
VIII của Đảng xác định: “… Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các
dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích
thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng
thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình” [13, tr. 65-66]; Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Ngoài tiếng phổ
thông, các dân tộc có chữ viết riêng được khuyến khích học chữ dân tộc…

dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của các dân tộc có chữ viết trên các
phương tiện thông tin đại chúng ở vùng dân tộc” [15, tr. 115].
Chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng về bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ
viết các dân tộc thiểu số đã đƣợc thể chế hoá trong Hiến pháp, các luật và
nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Điều 5 Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 viết: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán
truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình” [21, tr. 138]. Các bộ luật, các luật
nhƣ: Luật giáo dục, Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Bộ luật tố tụng hình sự,
Luật toà án, Luật báo chí, Luật xuất bản… đều ghi nhận rõ ràng, cụ thể về
quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số.
Năm 1961, Chính phủ có Nghị định số 206/CP ngày 27/11/1961 phê
chuẩn các phƣơng án chữ Tày - Nùng, chữ Mèo, chữ Thái cải tiến đồng
thời quy định phạm vi, mức độ sử dụng 3 thứ chữ đó. Năm 1969, Hội đồng
Chính phủ ra Quyết định số 153/CP ngày 20/8/1969 về việc xây dựng, cải
tiến và sử dụng chữ viết các dân tộc thiểu số trong đó xác định cụ thể trách
nhiệm của các ngành và các địa phƣơng trong việc xây dựng và phổ biến
chữ dân tộc. Ngày 22/2/1980, Hội đồng Chính phủ tiếp tục có Quyết định
số 53/CP về chủ trƣơng đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số. Quyết

9
định nêu rõ: “Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện giao lưu không thể thiếu được giữa
các địa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa phương và
các dân tộc có thể phát triển đồng đều các mặt kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ
thuật… tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quyền bình đẳng
dân tộc. Vì vậy, mọi công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và quyền lợi học tập và
sử dụng tiếng và chữ phổ thông.
Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là vốn
quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả nước. Ở các

vùng dân tộc thiểu số, tiếng và chữ dân tộc được dùng đồng thời với tiếng và
chữ phổ thông.
Cùng với chữ phổ thông, chữ dân tộc tham gia vào nhiều mặt hoạt
động ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là trong việc giữ gìn và phát
triển vốn văn hoá của các dân tộc. Vì thế, đi đôi với việc hoàn thành phổ cập
tiếng và chữ phổ thông, cần ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số xây dựng mới
hoặc cải tiến chữ viết của từng dân tộc…”.
Nhìn chung, có thể khẳng định rằng chính sách của Đảng Cộng sản và
Nhà nƣớc Việt Nam đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là đúng và căn bản.
Nó đã đáp ứng đƣợc các vấn đề dân tộc và ngôn ngữ ở Việt Nam trong công
cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc. Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện vẫn còn nhiều điều bất cập: "Các chủ trương của Đảng và Nhà nước về
ngôn ngữ dân tộc thường chỉ dừng lại ở những tư tưởng, những luận điểm
chung nhất, thiếu hẳn các kế hoạch, các chương trình mục tiêu và hệ thống
các biện pháp cụ thể cùng các hình thức tổ chức thực hiện thích hợp với từng
khu vực, từng dân tộc, đặc biệt là thiếu hẳn một đội ngũ cán bộ được chuẩn bị
về kiến thức và phương pháp, sau cùng là một chế độ kiểm tra, đánh giá ở
cấp Nhà nước, để triển khai" [52, tr. 30].

10
Để khắc phục những bất cập ấy, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nƣớc phải đi đôi với những nghiên cứu, khảo sát thực tế về
các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ các dân tộc thiểu số để ngôn ngữ các dân
tộc thiểu số có sự ổn định, vững chắc, tạo tiền đề cho những lĩnh vực khác
nhƣ kinh tế, văn hóa… ngày càng đạt đƣợc nhiều thành tựu. Luận văn cao học
về Cảnh huống đa ngữ trên địa bàn huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng đƣợc
lựa chọn nhằm mục đích đó. Thông qua khảo sát tình hình đa ngữ tại một địa
bàn cụ thể, luận văn góp phần làm rõ thêm các lí thuyết ngôn ngữ học xã hội
của hiện tƣợng đa ngữ vốn phát triển mạnh trong và ngoài nƣớc những năm
gần đây; khảo sát và tìm ra những nhân tố xã hội ảnh hƣởng đến quá trình tiếp

xúc giữa các ngôn ngữ ở Việt Nam nói chung và ảnh hƣởng đến chất lƣợng
giáo dục đa ngữ tại địa phƣơng nói riêng. Đề tài cũng nhằm góp một phần
phục vụ cho những chính sách ngôn ngữ và dân tộc đang là vấn đề mà Đảng
và Nhà nƣớc ta hết sức quan tâm. Với những mục đích đó, luận văn xác định
những nhiệm vụ sau:
1/ Hệ thống hóa lí luận của ngôn ngữ học xã hội về đa ngữ.
2/ Giới thiệu khái quát về đặc điểm ngôn ngữ-xã hội huyện Hòa An,
tỉnh Cao Bằng.
3/ Khảo sát đặc điểm tình hình sử dụng ngôn ngữ tại huyện Hòa An, tỉnh
Cao Bằng.
4/ Khảo sát đặc điểm tình hình giáo dục ngôn ngữ tại huyện Hòa An,
tỉnh Cao Bằng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đa ngữ là hiện tƣợng ngôn ngữ phổ biến ở các quốc gia trên thế giới
Hiện tƣợng này ở Việt Nam đã từng đƣợc nghiên cứu nhiều và cũng đã có
những thành tựu bƣớc đầu đáng kể. Các công trình, từ lí luận đến thực tiễn,
từ khái quát đến cụ thể, từ đơn giản đến phức tạp đã mở ra không gian đầy

11
màu sắc, phong phú, đa dạng nhƣng cũng không kém phần phức tạp về
hiện tƣợng đa ngữ.
Ngay từ rất sớm, trong địa hạt nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu
số đã có sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu, với nhiều công trình có giá trị
nhƣ: Giới thiệu một bức tranh chung về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam (Phạm Đức Dƣơng, 1978; Hoàng Tuệ, 1981; Nhƣ Ý, 1992; Trần Trí
Dõi, 1997;…); Nghiên cứu, khảo sát cảnh huống ngôn ngữ và chính sách
ngôn ngữ ở Việt Nam (Hoàng Văn Hành, 2002; Lý Toàn Thắng - Nguyễn
Văn Lợi, 2002; Nguyễn Văn Khang, 2003); Nghiên cứu về chữ viết của ngôn
ngữ các dân tộc thiểu số (Hoàng Văn Mãn, 1959; Hoàng Tuệ, 1985; Tạ Văn
Thông, 2002); Khảo sát vấn đề giáo dục song ngữ vùng dân tộc thiểu số Việt

Nam (Trần Trí Dõi, 2003; Đinh Lê Thƣ, 2005; Bùi Ngọc Diệp, 1999); Nghiên
cứu vấn đề sử dụng ngôn ngữ và giao tiếp trong xã hội đa ngữ ở vùng dân tộc
thiểu số Việt Nam (Nguyễn Văn Khang, 2003; Nguyễn Thị Thanh Bình,
2004; Nguyễn Hữu Hoành, 2002; Tạ Văn Thông, 2002);…
Dựa trên những lí luận chung về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, nhiều
ngôn ngữ các dân tộc đã đƣợc quan tâm nghiên cứu. Có thể nói rằng, hầu nhƣ
các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở nƣớc ta đều đã đƣợc quan tâm, dù ít, dù
nhiều. Có thể kể đến các công trình nhƣ: Tiếng Tày Nùng (Hoàng Văn Ma,
2002; Lục Văn Pảo, 1970; Vƣơng Toàn, 1986; Đặng Thanh Phƣơng, 2001);
Tiếng Thái (Tòng Kim Ân, 1977; Hoàng Văn Ma, 1986; Trần Trí Dõi, 1998;
Vũ Bá Hùng - Phạm Văn Hảo - Hà Quang Năng, 2002); Tiếng Bru-Vân Kiều
(Hoàng Văn Ma - Tạ Văn Thông, 1998); tiếng KaTu (Nguyễn Hữu Hoành -
Nguyễn Văn Lợi, 1998); Tiếng Khmer (Phan Xuân Biên, 1995); Tiếng
Mƣờng (Nguyễn Văn Tài, 1992; Nguyễn Văn Khang, 2002)…
Cùng với việc nghiên cứu, thực hiện chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc

12
về bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết dân tộc, việc biên soạn sách giáo
khoa ngôn ngữ dân tộc hoặc các từ điển song ngữ tiếng Việt - tiếng dân tộc
thiểu số cũng lần lƣợt đƣợc xuất bản. Ví dụ: Từ điển Thái - Việt của Tòng
Kim Ân, 1990; Từ điển Tày - Nùng - Việt của Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo,
Hoàng Chí, 1971; Từ điển Việt - Tày - Nùng của Hoàng Văn Ma, Lục Văn
Pảo, 1984; Từ điển Chăm - Việt của Bùi Khánh Thế (chủ biên), 1996); Từ
điển Việt - Mông của Phan Xuân Thành, 1999; Từ điển Mƣờng - Việt của
Nguyễn Văn Khang (chủ biên), 2003…
Các công trình kể trên vừa cho ta thấy đƣợc phần nào bức tranh đa ngữ
ở các vùng dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam, đồng thời các công trình
ấy cũng đóng góp rất nhiều những giải pháp, kiến nghị thiết thực cho sự
nghiệp phát triển giáo dục, văn hoá vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Điều
đặc biệt là nhiều công trình đã có sự tham gia tích cực của các nhà nghiên cứu

ngƣời dân tộc mà những đóng góp của họ không chỉ có giá trị thực tiễn mà
còn có giá trị khoa học cao.
Tuy nhiên, phải nhìn nhận một thực tế là so với các đề tài ngôn ngữ
học nói chung, số lƣợng các đề tài nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc còn quá ít.
Hơn nữa, ngay trong các đề tài nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc thì các đề tài
thuộc phân ngành ngôn ngữ học xã hội lại càng ít hơn. Bởi thế, mặc dù
không phải là một đề tài mới nhƣng với việc khảo sát tình hình sử dụng
ngôn ngữ trên một địa bàn chƣa có nghiên cứu nào trƣớc đây tìm hiểu, đề tài
luận văn của chúng tôi sẽ đóng góp thêm những tƣ liệu cụ thể cho những
nghiên cứu ở tầm vĩ mô - những nghiên cứu sẽ góp phần giúp Đảng và Nhà
nƣớc hoạch định đƣợc chính sách bảo tồn, phát huy ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số cũng nhƣ đề ra đƣợc những chiến lƣợc phát triển chung cho các dân
tộc thiểu số trên đất nƣớc Việt Nam.

13
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhƣ đã nói ở trên, luận văn của chúng tôi tập trung xem xét cảnh huống
đa ngữ ngôn ngữ trên địa bàn huyện Hòa An thuộc tỉnh Cao Bằng - một tỉnh
miền núi, biên giới còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế xã hội
cũng nhƣ văn hóa, ngôn ngữ Địa bàn Hòa An mà chúng tôi chọn khảo sát là
một huyện trung tâm của tỉnh, có diện tích rộng, tập trung nhiều thành phần
dân tộc, đặc biệt là Tày, Nùng, Mông… Tuy vậy, do hạn chế trong khuôn khổ
một luận văn, chúng tôi không chọn đối tƣợng khảo sát là toàn địa bàn huyện
Hòa An mà tập trung vào xem xét cảnh huống đa ngữ tại xã Bình Dƣơng - xã
đặc biệt khó khăn của huyện và trực tiếp là bản Khuổi Rỳ. Việc lựa chọn địa
bàn nghiên cứu ngoài những lí do cá nhân, chúng tôi còn thấy nhiều điểm thú
vị, đáng quan tâm trong cảnh huống ngôn ngữ nói chung và ở từng cá nhân đa
ngữ nói riêng trên địa bàn (Xem mục 2.1).
Đối tƣợng mà chúng tôi chọn khảo sát tình hình giáo dục đa ngữ trên

địa bàn là toàn bộ học sinh và giáo viên Trƣờng PTCS Bình Dƣơng, xã Bình
Dƣơng. Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát việc sử dụng ngôn ngữ ở
lứa tuổi tiền học đƣờng tại lớp mẫu giáo của xã (với 26 học sinh) để thấy
đƣợc quá trình phát triển của giáo dục đa ngữ, cũng nhƣ tìm ra giải pháp thích
hợp nhất cho giáo dục đa ngữ trên địa bàn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở khoanh vùng những đối tƣợng khảo sát nhƣ trên, chúng tôi
tiến hành khảo sát theo những phạm vi chủ yếu sau:
1/ Khảo sát ý thức tự giác tộc ngƣời, năng lực ngôn ngữ, đặc điểm giao
tiếp ngôn ngữ trong gia đình và ngoài xã hội của ngƣời dân bản Khuổi Rỳ.
2/ Khảo sát thực tế của ngôn ngữ dạy học trong nhà trƣờng, khả năng

14
tiếp thu và sử dụng ngôn ngữ của học sinh, thái độ ngôn ngữ của học sinh và
phụ huynh học sinh về vấn đề dạy học tiếng Việt và tiếng dân tộc hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp điều tra điền dã
Đề tài luận văn của chúng tôi liên quan đến những đối tƣợng ở một địa
bàn cụ thể, bởi vậy yêu cầu không thể thiếu đó là phải khảo sát trực tiếp, tiến
hành điều tra điền dã thực tế để thu thập các tƣ liệu liên quan đến cảnh huống
ngôn ngữ ở địa bàn.
Phƣơng pháp đầu tiên và cũng là phƣơng pháp cơ sở cho toàn bộ luận
văn là phƣơng pháp điều tra điền dã. Trƣớc tiên, chúng tôi điều tra sơ bộ để
xác định quy mô đối tƣợng khảo sát, chuẩn bị đầy đủ phiếu khảo sát theo từng
đối tƣợng. Sau đó chúng tôi tiến hành phát phiếu điều tra đến từng đối tƣợng
và hƣớng dẫn họ điền đầy đủ thông tin vào các phiếu khảo sát.
Bên cạnh đó, luận văn còn tiếp cận vấn đề thông qua phƣơng pháp
phỏng vấn sâu một số đối tƣợng tiêu biểu cho một số vấn đề liên quan đến đề
tài: Trên cơ sở tiến hành điều tra sơ bộ và điều tra bằng phiếu hỏi với từng đối
tƣợng, chúng tôi chọn ra một số đối tƣợng quan trọng và tiến hành tiếp xúc

với họ để lấy thông tin. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu tuy ít nhiều mang tính
chủ quan, võ đoán của ngƣời miêu tả nhƣng đây là hƣớng tiếp cận quan trọng
để từ đó rút ra những kết luận, vừa có thể minh họa, vừa có thể kiểm chứng
những kết quả thu đƣợc từ các phiếu hỏi. Việc tiếp xúc, phỏng vấn đối tƣợng
học sinh lớp 1, 2 mất rất nhiều thời gian và công sức. Các em có khả năng sử
dụng tiếng Việt còn hạn chế, lại ít giao tiếp với ngƣời ngoài nên rất rụt rè,
chúng tôi phải nhờ đến giáo viên sử dụng đa ngữ mới hỏi đƣợc tình hình sử
dụng ngôn ngữ của các đối tƣợng này.

15
4.2. Phương pháp xử lí tư liệu
Bƣớc tiếp theo, dựa trên mục đích, yêu cầu của đề tài luận văn, chúng
tôi tiếp tục thống kê các thông tin về năng lực ngôn ngữ, đặc điểm giao tiếp, ý
thức tự giác tộc ngƣời… theo các tiêu chí thành phần dân tộc, giới tính, độ
tuổi… Cuối cùng, chúng tôi phân tích và so sánh các số liệu để làm nổi bật
cảnh huống đa ngữ của địa bàn nghiên cứu.
Tóm lại, những phƣơng pháp chính mà chúng tôi sử dụng trong luận
văn này là:
1. Phƣơng pháp điều tra điền dã.
2. Phƣơng pháp thống kê.
3. Phƣơng pháp miêu tả.
4. Phƣơng pháp phân tích.
5. Phƣơng pháp so sánh.
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn của chúng tôi thể
hiện trong 3 chƣơng chính sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận
Chƣơng 2: Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp tại huyện Hoà
An, tỉnh Cao Bằng
Chƣơng 3: Tình hình giáo dục ngôn ngữ tại huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng








16
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Nhƣ đã nói ở phần mở đầu, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa
ngôn ngữ. Đặc điểm nổi bật của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam nói chung
và khu vực miền núi phía Bắc nói riêng là tình trạng cƣ trú xen kẽ, “hầu như
không có một nơi nào với diện tích vài ba trăm km chỉ có một dân tộc cư trú:
số xã thuần nhất một dân tộc cũng rất ít, chiếm chưa đến 3% số xã trong khu
vực” [7, tr. 84]. Do đặc điểm cƣ trú nhƣ vậy nên các cộng đồng dân tộc trên
có những tiếp xúc về nhiều mặt, trong đó phải kể đến mặt ngôn ngữ. Và kết
quả là nhiều khu vực đa ngữ đƣợc hình thành, trong đó có địa bàn mà luận
văn chúng tôi chọn khảo sát. Trƣớc khi đi vào những phân tích cụ thể về cảnh
huống đa ngữ trên địa bàn, chúng tôi muốn làm rõ một số vấn đề lí luận liên
quan đến đề tài và bối cảnh kinh tế-xã hội tác động đến cảnh huống đa ngữ
trên địa bàn huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
1.1. Một số vấn đề cơ bản về hiện tƣợng đa ngữ
1.1.1. Khái niệm đa ngữ xã hội
Cùng với khái niệm song ngữ, khi xu hƣớng ngƣời biết không chỉ hai mà
trên hai ngôn ngữ ngày càng tăng, đặc biệt là khi chuyên ngành ngôn ngữ học
xã hội ra đời thì khái niệm đa ngữ cũng xuất hiện. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
thuật ngữ “song ngữ” và “đa ngữ” có nội hàm tƣơng đƣơng nhau. Khi sử dụng
“song ngữ” cũng chính là “đa ngữ” (chứ không phải với nghĩa đen “song” là
“hai”), ngƣợc lại, khi sử dụng “đa ngữ” cũng chính là “song ngữ” [25, tr. 50].
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “đa ngữ” với ý nghĩa nhƣ vậy.

Khái niệm đa ngữ xã hội, theo cách hiểu chung nhất là hiện tƣợng biểu
thị khả năng của một ngƣời biết và có thể sử dụng hai hoặc trên hai ngôn ngữ
trong quá trình giao tiếp. Đây là hiện tƣợng phổ biến ở nhiều vùng trên địa
bàn các dân tộc thiểu số ở nƣớc ta. Ví dụ nhƣ ngƣời Tày ở huyện Hòa An,

17
tỉnh Cao Bằng ngoài biết tiếng Tày còn biết tiếng Việt, thậm chí là tiếng
Nùng, tiếng Mông. Hiện tƣợng này đƣợc hình thành một cách tự nhiên theo
nhu cầu của đời sống, đặc biệt là nhu cầu giao tiếp trong bối cảnh kinh tế xã
hội mở cửa nhƣ hiện nay.
Trƣớc đây, khi nói đến đa ngữ, ngƣời ta chỉ tập trung vào các cá nhân
đa ngữ. Phan Ngọc và Phạm Đức Dƣơng (1983) khi dẫn ra quan niệm của các
nhà ngôn ngữ học Nga, Mỹ, Tiệp Khắc (cũ) đã mô tả hiện tƣợng đa ngữ nhƣ
sau: Đó là hiện tƣợng một ngƣời biết tiếng mẹ đẻ A, nhờ biết ít nhiều về ngôn
ngữ B mà có thể giao tiếp với một tộc ngƣời khác chỉ nói đƣợc ngôn ngữ B.
Nhờ biết đƣợc hai ngôn ngữ nên ngƣời đó đƣợc gọi là ngƣời đa ngữ và sự
giao tiếp của họ là giao tiếp đa ngữ [37, tr. 22-23]. Nói cách khác, nghiên cứu
đa ngữ theo hƣớng này chủ yếu tập trung vào các cá nhân đa ngữ - là các cá
nhân có khả năng sử dụng luân phiên hai hoặc trên hai ngôn ngữ. Với từng cá
nhân đa ngữ, ngƣời ta lại chia khả năng đa ngữ thành hai loại là đa ngữ hoàn
toàn và đa ngữ không hoàn toàn.
Đa ngữ hoàn toàn (hay còn gọi là đa ngữ đầy đủ) là khả năng nắm bắt
đƣợc một cách chủ động, tự do nhƣ nhau hai ngôn ngữ đến mức có thể tƣ duy
trực tiếp bằng từng ngôn ngữ mà không cần dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn
ngữ khác [25, tr. 40]. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những ngƣời thuộc loại đa
ngữ hoàn toàn là rất hiếm. Theo Gai xingzhi (1997), chỉ có những trẻ em ngay
từ khi sinh ra ở môi trƣờng đa ngữ thì mới hi vọng là ngƣời đa ngữ hoàn toàn
[dẫn theo 24, tr. 40].
Đa ngữ không hoàn toàn (hay còn gọi là đa ngữ bộ phận) là trong từng
phạm vi cơ bản, ngƣời sử dụng có thể trình bày đƣợc ý nghĩ của mình mà ngƣời

khác hiểu đƣợc, cảm thụ đƣợc, đồng thời có thể hiểu đƣợc ngƣời khác trình bày
bằng hai ngôn ngữ đó [25, tr. 40-41]. Đây là kiểu đa ngữ phổ biến ở nhiều quốc
gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ trên thế giới.

18
Mỗi cá nhân đa ngữ (dù là đa ngữ hoàn toàn hay đa ngữ bộ phận) đều
phải thuộc những cộng đồng đa ngữ. Vì vậy, nói đến hiện tƣợng đa ngữ,
không thể không đề cập đến các cộng đồng đa ngữ - là nơi mà các cá nhân đa
ngữ có thể sử dụng những ngôn ngữ mà họ cùng biết để giao tiếp với nhau,
phục vụ nhu cầu giao lƣu, trao đổi về kinh tế, văn hóa, chính trị. Hệ quả của
việc giao tiếp này là các ngôn ngữ trong cộng đồng đó cũng sẽ tƣơng tác với
nhau, tạo nên hiện tƣợng đa ngữ xã hội. Cho nên, đa ngữ xã hội có thể đƣợc
hiểu là hai hoặc trên hai ngôn ngữ cùng hành chức trong một cộng đồng.
Ngoài khái niệm hiện tƣợng đa ngữ, cá nhân đa ngữ, cộng đồng đa ngữ
đã tìm hiểu ở trên, trong một xã hội đa ngữ, với sự di chuyển, hội nhập theo
thời gian, việc xác định tiếng mẹ đẻ cho thế hệ sau cũng là điều hết sức quan
trọng nhƣng lại không hề đơn giản. Ngôn ngữ nào đƣợc coi là tiếng mẹ đẻ?
Tiếng mẹ đẻ đƣợc xác định bằng cách nào? Từ trƣớc đến nay, đã có rất nhiều
quan niệm khác nhau về thuật ngữ tƣởng chừng nhƣ đơn giản này.
Theo tổ chức giáo dục văn hoá và khoa học của Liên hiệp quốc
(UNESCO), tiếng mẹ đẻ là “ngôn ngữ mà con người học được trong những
năm đầu của đời mình và thường trở thành công cụ tư duy và truyền thống tự
nhiên”, tiếng mẹ đẻ “không cần phải là thứ tiếng mà cha mẹ đứa trẻ dùng,
cũng không cần phải là ngôn ngữ đầu tiên mà đứa trẻ học để nói bởi vì có
những hoàn cảnh đặc biệt làm cho nó vào một tuổi rất sớm đã bỏ một phần
hay bỏ hoàn toàn ngôn ngữ đó” [dẫn theo 24; tr. 45]
GS. Nguyễn Văn Khang trong tài liệu [24; tr. 43] cho rằng: “tiếng mẹ
đẻ là tiếng của dân tộc mình… là ngôn ngữ thứ nhất của mình”.
Để xem xét vấn đề tự nhận tiếng mẹ đẻ tại địa bàn khảo sát, trong luận
văn này, chúng tôi dựa trên cách hiểu tiếng mẹ đẻ là “ngôn ngữ được con

người sử dụng từ thủa nhỏ bằng cách bắt chước người lớn chung quanh
mình; đối lập với tiếng nước ngoài”, là “ngôn ngữ của bản thân dân tộc được

19
nói đến, phân biệt với những ngôn ngữ khác; còn gọi là bản ngữ” [59; tr.
290]. Tiếng mẹ đẻ ở đây thực sự là công cụ của tƣ duy và công cụ giao tiếp chủ
yếu của các đối tƣợng trong các môi trƣờng nhất định nhƣ gia đình, làng bản…
1.1.2. Nguyên nhân nảy sinh hiện tượng đa ngữ xã hội
Đa ngữ là hiện tƣợng ngôn ngữ học chịu ảnh hƣởng của nhiều nhân tố
trong và ngoài ngôn ngữ nhƣ sự cộng cƣ giữa các dân tộc, vấn đề giáo dục đa
ngữ, mối quan hệ giữa các ngôn ngữ về loại hình, cội nguồn…
Nguyên nhân đầu tiên, cũng có thể coi là nguồn gốc phát sinh hiện
tƣợng đa ngữ xã hội là tình trạng cƣ trú đan xen, sự cộng cƣ giữa các dân tộc
trên cùng một lãnh thổ nhất định. Sự cộng cƣ này có thể là do biến động của
tình hình chính trị trong một quốc gia đa ngữ, có thể là do chủ trƣơng, chính
sách di dân của chính phủ các quốc gia đó Ở Việt Nam, trong suốt chiều dài
lịch sử đều có sự dịch chuyển của các cộng đồng dân tộc từ nơi cƣ trú này đến
nơi cƣ trú khác trong phạm vi đất nƣớc hoặc từ Việt Nam ra nƣớc ngoài và
ngƣợc lại. Tình trạng này tạo nên môi trƣờng đa ngữ tiếng Việt - tiếng dân
tộc, tiếng dân tộc - tiếng dân tộc hoặc tiếng Việt - tiếng nƣớc ngoài.
Nguyên nhân thứ hai tạo nên hiện tƣợng đa ngữ xã hội là do giáo dục đa
ngữ. Do nhu cầu giao tiếp về kinh tế, chính trị, nhu cầu giao lƣu văn hóa, ngƣời
ta học và biết sử dụng thêm một hoặc nhiều ngôn ngữ khác để làm phƣơng tiện
cho các mục đích của mình. Trên cơ sở nhu cầu của các cá nhân, mỗi quốc gia
đề ra chính sách giáo dục đa ngữ riêng. Trên thế giới, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng
Pháp… từ lâu đã đƣợc coi là những ngôn ngữ giao tiếp phổ biến và chung cho
nhiều quốc gia. Chính vì vậy mà nhiều quốc gia đã tổ chức dạy tiếng Anh, Nga,
Pháp cho học sinh ở nhiều bậc đào tạo khác nhau. Ở Việt Nam, chính sách này
tạo nên hiện tƣợng đa ngữ tiếng Việt - tiếng nƣớc ngoài khá phổ biến. Tuy nhiên,
chúng ta có thể nhận thấy hiện tƣợng đa ngữ phổ biến nhất trên lãnh thổ Việt

Nam là hiện tƣợng tiếng Việt - tiếng dân tộc.

20
Do ý thức đƣợc tầm quan trọng có tính chất chiến lƣợc của vấn đề giáo
dục đa ngữ, nhằm bảo tồn và phát triển ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, Đảng
và Nhà nƣớc ta đã thừa nhận và đảm bảo về mặt pháp lí quyền mỗi dân tộc có
ngôn ngữ riêng của mình, quyền bình đẳng và tự do phát triển của tất cả các
ngôn ngữ của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó chủ trƣơng
của Đảng và Nhà nƣớc cũng khẳng định: “Tiếng Việt là ngôn ngữ chung của
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Mỗi công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và
quyền lợi học tập và sử dụng tiếng và chữ viết phổ thông” (Nghị định số
53/CP của Chính phủ ngày 22/2/1980).
Chính chủ trƣơng này của Đảng và Nhà nƣớc đối với các ngôn ngữ dân
tộc cũng nhƣ tiếng Việt đã tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc sử dụng
tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trong đời sống và trong các hoạt động
xã hội; đồng thời cũng khuyến khích các dân tộc thiểu số học tiếng Việt, tạo
ra các môi trƣờng đa ngữ phổ biến trên lãnh thổ Việt Nam.
1.2. Khái niệm cảnh huống ngôn ngữ
1.2.1. Định nghĩa cảnh huống ngôn ngữ
Nhƣ đã đề cập ở trên, chính sách ngôn ngữ là vấn đề rất quan trọng và
cấp thiết ở mỗi quốc gia đặc biệt là với các quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ.
Tuy nhiên, việc đề ra chính sách ngôn ngữ đòi hỏi phải có sự cân nhắc nhiều
mặt và thận trọng dựa trên thực tế đời sống ngôn ngữ ở quốc gia đó; nói cách
khác là phải xem xét toàn diện cảnh huống ngôn ngữ ở quốc gia đó. Bởi chỉ
có chính sách ngôn ngữ nào tính đến tất cả những nhân tố của cảnh huống
ngôn ngữ thì mới khả thi và cho kết quả tốt.
Theo “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ” thì cảnh huống ngôn ngữ
có thể hiểu là: “Toàn bộ các ngôn ngữ hoặc toàn bộ các hình thức tồn tại của
một ngôn ngữ có quan hệ tương hỗ về mặt lãnh thổ và xã hội, có sự qua lại


21
với nhau về mặt chức năng trong phạm vi một vùng địa lí hoặc một thể thống
nhất về chính trị-hành chính nhất định” [59, tr. 30].
Theo Mikhalchenko, nghiên cứu cảnh huống ngôn ngữ gồm 4 nhân tố,
đó là: 1/ Các nhân tố dân tộc-nhân khẩu (thành phần dân tộc cƣ dân trong khu
vực, cách cƣ trú của những ngƣời thuộc các dân tộc khác nhau, sự phân hóa
xã hội, trình độ học vấn của họ…).
2/ Các nhân tố ngôn ngữ học (trạng thái cấu trúc và chức năng của một
số ngôn ngữ nhƣ sự hiện hữu ở ngôn ngữ này các phong cách chức năng, hệ
thống thuật ngữ, truyền thống chữ viết…).
3/ Các nhân tố vật chất (các cuốn từ điển, sách hội thoại, các tài liệu,
đội ngũ giáo viên, hệ thống các lớp học ngôn ngữ…).
4/ Nhân tố con ngƣời (những định hƣớng có giá trị của ngƣời bản ngữ,
tri năng ngôn ngữ, sự đồng ý học ngôn ngữ mới của họ).
“Cảnh huống ngôn ngữ là sự phân bố đã được hình thành trong suốt thời
gian dài trên một lãnh thổ nhất định, những hình thức tồn tại khác nhau (ngôn ngữ
văn học, khẩu ngữ, các phương ngữ) và những hình thức thể hiện khác nhau (nói và
viết) của các ngôn ngữ đang hành chức trên lãnh thổ này” [Dẫn theo 43, tr. 4].
1.2.2. Cảnh huống ngôn ngữ của địa bàn khảo sát
1.2.2.1. Đặc điểm địa lí tự nhiên tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng là tỉnh miền núi biên giới giữ vị trí cửa ngõ phía Bắc của đất
nƣớc. Vị trí địa lí của Cao Bằng kéo dài từ vĩ độ 230712 đến 222121
Bắc và từ kinh độ 1051615 đến 1065025 Đông. Phía Bắc và Đông Bắc
Cao Bằng giáp Quảng Tây (Trung Quốc) với chiều dài đƣờng biên giới là 311
km. Phía Tây giáp Hà Giang và Tuyên Quang. Phía Nam giáp Bắc Kạn và
Lạng Sơn. Trung tâm của tỉnh cách thủ đô Hà Nội khoảng 280 km.

22
Diện tích đất tự nhiên của Cao Bằng khoảng 6.690,72 km
2

. Trên toàn
diện tích ấy là những cao nguyên đá vôi xen lẫn núi đất, có độ cao trung bình
trên dƣới 200 m, vùng sát biên có độ cao từ 600 – 1300 m so với mặt nƣớc
biển. Địa hình Cao Bằng chia thành ba vùng rõ rệt. Vùng phía Đông có nhiều
núi đá. Vùng phía Tây là những núi đất xen núi đá. Các hệ thống dãy núi đá
vôi của Cao Bằng phân cách nhau, có phƣơng kéo dài chung theo hƣớng Tây
Bắc - Đông Nam. Điển hình là hệ thống núi cao Bảo Lạc - Nguyên Bình,
Ngân Sơn - Thạch An… Tiểu vùng núi đất chủ yếu là các thung lũng lớn nhƣ
Hòa An, Nguyên Bình, thũng lũng sông Bắc Vọng… Trong đó, đáng chú ý
hơn cả là thung lũng Hòa An - vựa lúa của tỉnh, nằm trong phần phía Bắc của
lòng máng Cao Lạng dài gần 30 km. Tiểu vùng bồn địa phía Đông điển hình
là các núi thấp và rừng rậm. Địa hình chủ yếu là đồi núi của Cao Bằng khiến
cho việc đi lại gặp không ít khó khăn, đặc biệt là ở từng tiểu vùng nhỏ.
Do đặc điểm địa hình miền núi phức tạp nhƣ trên mà mạng sông suối và
hồ của Cao Bằng rất phong phú và đa dạng. Mạng sông suối chính gồm sông
Bằng Giang, sông Gâm, sông Bắc Vọng và sông Quây Sơn. Ngoài những sông
chính, tỉnh Cao Bằng còn có trên 100 sông, suối khác với tổng chiều dài hàng
nghìn km. Bên cạnh hệ thống sông, suối, Cao Bằng còn có các hồ tự nhiên nhƣ
Thang Hẹn, Thang Luồng và nhiều hồ nhân tạo nhƣ: Khuổi Lái, Nà Tấu, Nà
Tẩu Mật độ sông, suối thƣờng tập trung ở những vùng lòng máng, các thung
lũng lớn với lƣu lƣợng nƣớc không ổn định. Mùa mƣa, mực nƣớc song, suối
lên cao hay gây ra lũ lụt còn mùa khô mực nƣớc lại hạ thấp đáng kể. Đặc điểm
này gây ra rất nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế-xã hội Cao Bằng.
Về mặt khí hậu, Cao Bằng là cửa ngõ đón gió mùa Đông Bắc từ Trung
Quốc tràn sang vào mùa đông còn mùa hè lại chịu ảnh hƣởng của gió mùa
Đông Nam. Khí hậu Cao Bằng chia làm hai mùa rõ rệt là mùa mƣa và mùa
khô. Độ ẩm trung bình/tháng là 70 - 80%, thấp nhất là 20 - 30%. Tổng lƣợng

23
nƣớc bốc hơi trung bình/tháng là 50 - 65 mm, thấp nhất là 40 - 50 mm. Tổng

số giờ nắng/tháng là 70 - 90 giờ. Lƣợng mƣa tƣơng đối thấp: từ 1000 -
1900
mm
/năm. Khí hậu khá khắc nghiệt phần nào ảnh hƣởng đến phát triển
nông nghiệp của tỉnh.
Ngoài những đặc điểm trên, Cao Bằng là tỉnh có nguồn tài nguyên
khoáng sản rất phong phú bao gồm cả khoáng sản nội sinh và ngoại sinh, có
mặt gần đầy đủ các loại, đƣợc phân ra các nhóm: Nhóm nhiên liệu (than lửa
dài), nhóm kim loại (kim loại đen: sắt, mangan; kim loại màu: đồng, chì; kim
loại quý hiếm: antimon, thiếc, vonfram ), nhóm á kim, nhóm nƣớc Khoáng
sản là một trong những thế mạnh của Cao Bằng.
Rừng núi Cao Bằng chiếm hơn 90% diện tích toàn tỉnh cũng tạo nên hệ
thống động, thực vật khá đa dạng bao gồm cả thực vật tự nhiên, thực vật trồng
và động vật lớp chim, bò sát
Qua những nét khái quát về địa hình, sông ngòi và khí hậu nhƣ trên,
chúng ta có thể thấy Cao Bằng là địa bàn có điều kiện tự nhiên chứa đựng
nhiều tiềm năng nhƣng cũng có không ít khó khăn. Các tiềm năng sẵn có
trong vùng thì chƣa có điều kiện để khai thác mà những khó khăn lại luôn
luôn tác động và ảnh hƣởng không nhỏ đến đời sống của cộng đồng dân cƣ
đặc biệt là những cƣ dân sinh sống ở vùng sâu, vùng xa. Điều kiện tự nhiên
này đã cản trở và gây ra những ảnh hƣởng tiêu cực đến hoạt động giáo dục,
trong đó có giáo dục ngôn ngữ cho đồng bào dân tộc.
1.2.2.2. Đặc điểm kinh tế-xã hội tỉnh Cao Bằng
a. Dân số và thành phần dân tộc tỉnh Cao Bằng
Tỉnh Cao Bằng gồm 1 thị xã và 12 huyện, là tỉnh có vị trí chiến lƣợc đặc
biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng trong cả nƣớc. Trên
diện tích 6690,72 km
2
đất tự nhiên có dân số 494,742 ngƣời, gồm 26 dân tộc anh

×