Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Khảo sát tầng nghĩa biểu trưng trên ngữ liệu thơ Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 118 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ TRANG


KHẢO SÁT TẦNG NGHĨA BIỂU TRƢNG
TRÊN NGỮ LIỆU THƠ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1975




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC




HÀ NỘI - 2012


2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ TRANG


KHẢO SÁT TẦNG NGHĨA BIỂU TRƢNG
TRÊN NGỮ LIỆU THƠ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Lê Quang Thiêm



HÀ NỘI - 2012

3

MỤC LỤC


Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
4
1. Lý do lựa chọn đề tài
4
2. Mục đích của luận văn
5

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
6
4. Nhiệm vụ của luận văn
7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
7
6. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài
8
7. Bố cục luận văn
10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

11
1.1. Nghĩa của từ là một hệ thống - Cơ cấu nghĩa của từ
11
1.2. Phân tích nghĩa của từ - Hiện tƣợng từ đa nghĩa
11
1.2.1. Phân tích nghĩa của từ
11
1.2.2. Phân loại nghĩa của từ đa nghĩa
15
1.3. Tầng nghĩa biểu trƣng từ vựng và biểu hiện của nó
trong ngôn ngữ thơ ca
18
1.3.1. Tầng nghĩa biểu trưng từ vựng
18
1.3.2. Sự hiện thực hóa của tầng nghĩa biểu trưng trong
ngôn ngữ thơ ca
20

1.4. Hiện tƣợng đồng nghĩa từ vựng và việc xác lập trƣờng
ngữ nghĩa - từ vựng trên cơ sở đồng nghĩa
24
1.4.1. Các cách quan niệm và hướng khai thác của khóa
luận
24

4

1.4.2. Loạt đồng nghĩa
27
CHƢƠNG 2
NGHĨA BIỂU TƢỢNG VỀ ĐẤT NƢỚC

29
2.1. Đặt vấn đề
29
2.2. Nhận xét chung về khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về
đất nƣớc của các đơn vị từ vựng
30
2.3. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc của từ
“đất”
33
2.4. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc của từ
“nước”
38
2.5. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc của từ
“non”, “núi”
43
2.6. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc của từ

“sông”
46
CHƢƠNG 3
NGHĨA BIỂU TƢỢNG VỀ CON NGƢỜI

52
3.1. Nhận xét chung về khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về
con ngƣời của các đơn vị từ vựng
52
3.2. Các nét nghĩa biểu tƣợng về con ngƣời đƣợc nhắc đến
trong thơ ca Việt Nam 1930 - 1975
53
3.2.1. Nghĩa biểu tượng về hoạt động của con người
53
3.2.2. Nghĩa biểu tượng về tình cảm của con người
55
3.2.3. Nghĩa biểu tượng về lý tưởng, ý chí, trí tuệ của con
người
58
3.3. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về con ngƣời của một
số đơn vị từ vựng
60
3.3.1. Khả năng tạo nghĩa biểu tượng về con người của từ
60

5

“tay”
3.3.2. Khả năng tạo nghĩa biểu tượng về con người của từ
“lòng”

68
KẾT LUẬN
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
80
NGUỒN TƢ LIỆU
83
PHỤ LỤC



6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nằm trong địa hạt của ngữ nghĩa học - một địa hạt rất khó và hết sức
trừu tƣợng trong phạm vi nghiên cứu ngôn ngữ học, trƣờng ngữ nghĩa - từ
vựng là một vấn đề không hoàn toàn mới mẻ nhƣng hầu nhƣ chƣa có đƣợc
những kiến giải thật sự thấu đáo và thuyết phục. Các kiến giải trƣớc đây phần
lớn đều đi theo hƣớng cấu trúc luận, coi thành phần nghĩa của từ là một kết
cấu “đông cứng”, từ đó đặt chúng vào những trƣờng nghĩa cố định nào đó mà
không hề có sự dịch chuyển, linh động. Trên thực tế, nghĩa của từ lại là một
hệ thống tƣơng đối “động”, phát triển cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
hoạt động ngôn ngữ, hàng loạt nghĩa mới đƣợc nảy sinh, nghĩa cũ có thể dần
bị lãng quên, gây ảnh hƣởng trực tiếp đến hệ thống ngữ nghĩa của từ và tiếp
đó là các mối quan hệ ngữ nghĩa của nó với các đơn vị khác trong hệ thống từ
vựng; vì thế các trƣờng nghĩa mà từ có khả năng tham gia không thể là cố
định.
Đặc biệt, trong các tác phẩm văn chƣơng nghệ thuật thì tình hình này
lại càng rõ. Bởi lẽ, khi đi vào chức năng làm chất liệu để xây dựng hình tƣợng

nghệ thuật, truyền tải tƣ tƣởng, quan điểm thẩm mĩ thì các từ ngữ đều trở
thành những tín hiệu nghệ thuật, tín hiệu thẩm mĩ. Chúng đƣợc gạn lọc, tỉa
gọt hết sức kĩ càng và hầu hết chúng đều có khả năng thể hiện những nghĩa
hoàn toàn mới mẻ. Việc tri nhận ngữ nghĩa của những tín hiệu thẩm mĩ cũng
nhƣ khám phá nội dung, ý nghĩa của các tác phẩm văn chƣơng không thể chỉ
dựa vào nghĩa hệ thống đơn thuần, thông thƣờng của chúng trong các từ điển
mà phải dựa vào khả năng liên tƣởng, sáng tạo và những hiểu biết văn hóa, xã
hội của ngƣời tiếp nhận. Càng có nhiều nghĩa mới đƣợc hình thành thì từ càng
có khả năng tham gia nhiều trƣờng nghĩa khác nhau. Về phía trƣờng ngữ

7

nghĩa - từ vựng thì trƣờng sẽ đƣợc mở rộng, đa dạng và sinh động vì có sự
tham gia của nhiều hệ thống nghĩa khác nhau của các đơn vị từ vựng.
Xuất phát từ thực tiễn đó, luận văn của chúng tôi đi vào khảo sát, tìm
hiểu về tầng nghĩa biểu trƣng - một bộ phận của trƣờng ngữ nghĩa từ vựng
trên ngữ liệu thơ Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975 nhƣ một thử nghiệm hƣớng
tiếp cận mới trong ngôn ngữ học hiện nay - hƣớng tri nhận luận, chức năng
luận. Theo hƣớng khai thác này, chúng tôi hi vọng góp phần đƣa ra một cách
hiểu mới mẻ, sinh động và thuyết phục hơn về trƣờng ngữ nghĩa - từ vựng,
đặc biệt là tầng nghĩa biểu trƣng.
2. Mục đích của luận văn
Luận văn này tiếp cận lí thuyết trƣờng ngữ nghĩa mà cụ thể là trƣờng
ngữ nghĩa - từ vựng ở một hƣớng tiếp cận mới, lấy quan điểm ba tầng nghĩa,
sáu kiểu chức năng từ vựng của tác giả Lê Quang Thiêm làm cơ sở nền tảng
để quy tụ các đơn vị đồng nghĩa, xác lập trƣờng ngữ nghĩa từ vựng, phân tầng
các đơn vị đó và đi sâu phân tích tầng nghĩa biểu trƣng cùng những kết hợp,
cấu trúc đan xen văn hóa tạo nên tầng nghĩa biểu trƣng này. Chúng tôi mong
muốn bằng phƣơng pháp tiếp cận này sẽ chứng minh đƣợc sự mở rộng của
trƣờng ngữ nghĩa - từ vựng, chứng minh sự sắp xếp, tổ chức của các đơn vị từ,

các lớp từ trong trƣờng ngữ nghĩa là hoàn toàn có quy luật. Đặc biệt, đối với
tầng nghĩa biểu trƣng, nghĩa của từ là kết quả của một loạt các kết hợp về cấu
trúc trong hệ thống ngôn ngữ và có sự thể hiện văn hóa của ngƣời Việt, của
riêng nhà thơ khi sử dụng chất liệu ngôn ngữ để tạo nên hình tƣợng nghệ
thuật.
Qua khảo sát và thống kê, chúng tôi cố gắng xác lập, đi sâu miêu tả và
bƣớc đầu giải thích sự tồn tại nghĩa của các đơn vị từ vựng cũng nhƣ các mối
quan hệ chằng chịt, phức tạp giữa chúng trong ngữ nghĩa. Thông qua đó góp

8

phần hiểu thêm đƣợc chức năng thẩm mĩ, chức năng nghệ thuật của từ ngữ
trong thơ ca.
Những điều này không nằm ngoài mục đích cuối cùng của luận văn là
nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tín hiệu ngôn ngữ và tín hiệu thơ ca,
tìm hiểu và tiếp cận văn học bằng lí thuyết ngôn ngữ học. Cụ thể hơn là nhằm
hiểu đƣợc nghĩa của các đơn vị từ vựng trong thơ ca. Chúng ta không thể hiểu
đƣợc nghĩa của từ nói chung và nghĩa biểu trƣng của từ nói riêng trong thế tồn
tại độc lập mình nó, mà cần phải bóc tách các lớp nghĩa của từ trong mối quan
hệ với những đơn vị từ khác cùng trƣờng nghĩa và trong mối quan hệ với nền
văn hóa chung của cộng đồng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi là tầng nghĩa biểu trƣng, tập trung
vào những hình tƣợng nghệ thuật mang tính điển hình và là nguồn cảm hứng
cơ bản của thơ Việt Nam trong suốt giai đoạn 1930 - 1975 gắn liền hoàn cảnh
lịch sử đặc biệt của đất nƣớc với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng
luồng tƣ tƣởng mới và đây cũng là quãng thời gian diễn ra hai cuộc kháng
chiến trƣờng kỳ và oanh liệt của dân tộc, đó là: nghĩa biểu tƣợng về đất nước,
về con người; theo đó, luận văn tập hợp và phân tích các đơn vị từ có hàm
chứa tầng nghĩa biểu trƣng, xác lập các đơn vị có nghĩa biểu trƣng giống nhau

(tạo ra trƣờng đồng nghĩa) và sự chuyển hóa về nghĩa biểu tƣợng giữa các đơn
vị từ, nhằm chứng minh một đơn vị từ có thể tham gia nhiều trƣờng nghĩa
khác nhau (xét trên sự tƣơng đồng về nghĩa biểu trƣng) để xác lập trục đa
nghĩa của từ.
Nguồn tƣ liệu mà chúng tôi lựa chọn để khảo sát, phân tích là những
bài thơ nổi bật của một số nhà thơ tiêu biểu của khuynh hƣớng thơ mang âm
hƣởng cách mạng trong giai đoạn 1930 - 1975 nhƣ: Tố Hữu, Chế Lan Viên,
Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Tế Hanh, Lê Anh Xuân, Giang

9

Nam… Từ đó, luận văn lần lƣợt quy tụ các hệ thống nghĩa của các đơn vị từ
vựng theo tiêu chí đồng nhất ở tầng nghĩa biểu trƣng.
4. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn này tập trung vào những điểm sau:
- Hệ thống hóa các quan niệm khác nhau về nghĩa của từ và đặc biệt
chú ý tới các quan niệm về các thành phần nghĩa của từ, đa nghĩa, đồng nghĩa.
Quan trọng hơn, luận văn bƣớc đầu xác lập tầng nghĩa biểu trƣng dựa trên
quan hệ đa nghĩa và đồng nghĩa của các đơn vị từ.
- Khảo sát, xác lập, đi sâu miêu tả và bƣớc đầu giải thích các hiện
tƣợng ngữ nghĩa xảy ra bên trong từng trƣờng nghĩa trong thơ Việt Nam giai
đoạn này. Ở mức độ sâu hơn, chúng tôi nhận diện và miêu tả các nghĩa khác
nhau của các đơn vị từ thuộc tầng nghĩa biểu trƣng của một trƣờng nghĩa nhất
định. Tiếp cận theo bề rộng và bề sâu nhƣ vậy sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn
tổng quan về phạm vi hoạt động của tầng nghĩa biểu trƣng trong từng trƣờng
nghĩa; đồng thời nhìn nhận một cách thấu đáo, chi tiết về kết cấu ngữ nghĩa
của từng đơn vị từ vựng trong tầng nghĩa, trƣờng nghĩa.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích đề ra, trong khi nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng
các phƣơng pháp cơ bản sau:

- Phƣơng pháp liệt kê: Chúng tôi tiến hành khảo sát tầng nghĩa biểu
trƣng thuộc trƣờng ngữ nghĩa từ vựng về một số hình tƣợng trong thơ Việt
Nam 1930 - 1975 qua việc liệt kê, phân lớp các đơn vị từ vựng theo tiêu chí
đồng nhất. Thông qua khảo sát việc xuất hiện, tần suất xuất hiện của từng đơn
vị từ trong lớp từ vựng chứa chúng để đƣa ra những nhận xét về năng lực hoạt
động của các đơn vị và các lớp này.

10

- Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa và ngữ dụng: Luận văn sử dụng
phƣơng pháp này để phân tích những biểu hiện nghĩa biểu trƣng của các đơn
vị từ vựng, phân tích mối quan hệ giữa hình thức và nội dung, nội dung trong
quan hệ với ngữ cảnh, văn cảnh và rộng hơn là xác định quan hệ ngữ nghĩa
giữa các đơn vị từ vựng với nhau để tạo ra nghĩa biểu trƣng.
- Phƣơng pháp miêu tả: Phƣơng pháp này đƣợc vận dụng nhằm mục
đích miêu tả các nghĩa của các tín hiệu nghệ thuật trong các tác phẩm thơ ca
cách mạng. Đồng thời, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này để miêu tả sự
biểu hiện của tầng nghĩa biểu trƣng qua hoạt động của đơn vị từ vựng trong
ngữ cảnh, văn cảnh.
- Phƣơng pháp so sánh và phƣơng pháp đối chiếu: Trên cơ sở sự giống
nhau và khác nhau giữa các nghĩa mà từ biểu đạt qua các ngữ cảnh, văn cảnh,
chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu các nghĩa để thiết lập trƣờng nghĩa.
Chúng tôi đã sử dụng những thủ pháp, thao tác trong quá trình tiến
hành luận văn nhằm đạt đƣợc những mục đích nêu trên là: tổng hợp, phân lớp
và liệt kê nhằm tập hợp các ngữ cảnh khác nhau, trong các tác phẩm thơ ca
khác nhau của các từ ngữ, phân loại các ngữ cảnh có chứa cùng một nghĩa
hoặc nét nghĩa, xác lập trƣờng nghĩa để rút ra thông tin định tính. Các thao tác
lập mô hình trực quan đƣợc sử dụng bổ sung, hỗ trợ cho việc miêu tả sự hành
chức của từ và các cơ chế phát sinh nghĩa của từ.
6. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài

Về mặt lí luận, luận văn là sự mở rộng phạm vi khảo sát và đi sâu thêm
một bƣớc nghiên cứu so với khóa luận tốt nghiệp đại học “Bƣớc đầu khảo sát
trƣờng ngữ nghĩa - từ vựng về đất nƣớc trong một số bài thơ Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1975”. Vì thế, luận văn này tiếp tục góp phần làm sáng tỏ quan
điểm về trƣờng nghĩa, tầng nghĩa mà cụ thể là tầng nghĩa biểu trƣng của
trƣờng ngữ nghĩa từ vựng theo hƣớng tiếp cận chức năng luận, tri nhận luận.

11

Quá đó, luận văn giúp hiểu rõ hơn về nghĩa của các đơn vị từ vựng, nhất là
nghĩa biểu trƣng trong các tác phẩm văn chƣơng nghệ thuật thông qua việc
bóc tách từng lớp nghĩa, tầng nghĩa trong từng ngữ cảnh, văn cảnh mà từ hoạt
động. Bởi lẽ từ không tồn tại độc lập mà nó luôn tồn tại trong mối quan hệ với
các đơn vị khác.
Nếu nhƣ một kí hiệu ngôn ngữ thƣờng có sự thống nhất giữa cái biểu
đạt và cái đƣợc biểu đạt thì trong thơ không phải bao giờ cũng thế. Cái biểu
đạt trong thơ chẳng qua là lớp kính bên ngoài bao bọc một thế giới hình tƣợng
muôn hình muôn dạng. Nếu không hiểu đƣợc điều đó, ngƣời tiếp nhận sẽ bỏ
qua những giá trị đích thực của ngôn từ cũng nhƣ những giá trị độc đáo, kì
diệu mà ngƣời nghệ sĩ ngôn từ tạo ra từ năng lực sáng tạo nghệ thuật của
mình.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn hƣớng vào những
ứng dụng sau:
- Hoàn thiện hệ thống nghĩa của từ, làm cơ sở tiến đến quy tụ một cách
đầy đủ, sinh động nhất trƣờng ngữ nghĩa.
- Đối chiếu với các từ điển tiếng Việt, xem xét các nghĩa của từ ngữ
đƣợc bộc lộ trong các tác phẩm văn học nghệ thuật đã đƣợc khái quát trong
các từ điển hay chƣa, bổ sung vào hệ thống nghĩa của từ trong từ điển.
- Tìm hiểu những nghĩa mới (chủ yếu là nghĩa biểu trƣng) của từ ngữ
trong tác phẩm văn học nghệ thuật có nằm trong thói quen sử dụng ngôn ngữ

hằng ngày của cộng đồng ngôn ngữ hay không. Những nghĩa mới đó đƣợc sử
dụng phổ biến trong cộng đồng ngôn ngữ hay chúng chỉ có giá trị trong văn
thơ.
Vì thế, những kết quả thống kê đƣợc, miêu tả đƣợc góp phần tìm hiểu
mối quan hệ giữa hệ thống nghĩa nội tại tiềm tàng trong bản thân từ ngữ với

12

hệ thống nghĩa của từ đƣợc khái quát trong từ điển tiếng Việt và sự biểu hiện
của chúng trong văn học nghệ thuật, có sự so sánh, đối chiếu với thói quen sử
dụng ngôn ngữ hằng ngày.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có bố cục gồm ba chƣơng:
- Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết và định hƣớng nghiên cứu
- Chƣơng 2: Nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc
- Chƣơng 3: Nghĩa biểu tƣợng về con ngƣời.


13

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

1.1. Nghĩa của từ là một hệ thống - Cơ cấu nghĩa của từ
Tín hiệu ngôn ngữ là một tín hiệu đặc biệt, nếu nhƣ giữa cái biểu hiện
và cái đƣợc biểu hiện của các tín hiệu thông thƣờng có quan hệ 1-1, tức là
một hình thức chỉ biểu hiện cho một nội dung nhất định thì quan hệ giữa vỏ
ngữ âm của ngôn ngữ (cái biểu hiện) với nội dung nghĩa (cái đƣợc biểu hiện)
không phải là quan hệ 1-1. Một vỏ ngữ âm có thể diễn tả nhiều nội dung khác
nhau. Vì thế, một từ có thể có một hoặc nhiều nghĩa khác nhau, nhƣng đó

không phải là một tổ chức lộn xộn. Đối với từ đa nghĩa, các nghĩa của từ có
quan hệ với nhau, đƣợc sắp xếp theo những cơ cấu, tổ chức nhất định. Mỗi
nghĩa lại có các thành tố nghĩa nhỏ hơn đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất
định.
Nhƣ vậy, nghĩa của từ là một hệ thống. Xét nghĩa của từ là xác định
xem từ đó có bao nhiêu nghĩa, mỗi nghĩa có bao nhiêu thành tố nhỏ hơn và tất
cả chúng đƣợc sắp xếp trong quan hệ với nhau nhƣ thế nào.
Xét trong một trƣờng từ vựng, bản thân mỗi từ đa nghĩa tạo nên một
một trục ngữ nghĩa mà ở đó các nghĩa luôn tồn tại một mối liên hệ nhất định
nào đó. Nói cách khác, khi xét toàn bộ thành phần nghĩa của từ đa nghĩa và
mối liên hệ giữa từng nét nghĩa với những nghĩa bên trong từ và với những
nghĩa của từ khác, ta có thể tập hợp thành một trƣờng nghĩa rộng hơn, đầy đủ
hơn nhiều khi xét một nghĩa nào đó của từ.
1.2. Phân tích nghĩa của từ - Hiện tƣợng từ đa nghĩa
1.2.1. Phân tích nghĩa của từ

14

Về vấn đề thành phần ngữ nghĩa của từ, đã có rất nhiều luận giải khác
nhau, tùy theo cách quan niệm về nghĩa của từ:
Với quan niệm nghĩa của từ là quan hệ giữa từ với cái mà nó biểu thị,
Nguyễn Thiện Giáp [9] cho rằng nghĩa của từ là một đối tượng phức tạp,
bao gồm một số thành tố đơn giản hơn như sau: nghĩa sở chỉ, nghĩa sở biểu,
nghĩa sở dụng, nghĩa kết cấu. Trong đó:
- Nghĩa sở chỉ (referentive meaning): Là quan hệ giữa từ với đối tƣợng
mà từ biểu hiện. Đối tƣợng mà từ biểu thị không phải chỉ là các sự vật mà còn
là quá trình, tính chất hoặc hiện tƣợng thực tế nào đó; các đối tƣợng này có
thể ngoài ngôn ngữ hoặc trong ngôn ngữ. Đối tƣợng mà từ biểu thị đƣợc gọi
là “cái sở chỉ” của từ.
- Nghĩa sở biểu (significative meaning): Là quan hệ giữa từ với biểu

tƣợng, khái niệm. Khái niệm hoặc biểu tƣợng có quan hệ với từ đƣợc gọi là
“cái sở biểu”. Cái sở biểu và cái sở chỉ có quan hệ chặt chẽ với nhau, cái sở
biểu là sự phản ánh của cái sở chỉ trong nhận thức của con ngƣời. Tuy nhiên,
giữa chúng lại có sự khác nhau rất lớn. Mỗi cái sở biểu có thể ứng với nhiều
cái sở chỉ khác nhau, tức là nó có quan hệ với cả một lớp hạng đối tƣợng
trong thực tế. Ngƣợc lại, một cái sở chỉ duy nhất có thể thuộc vào những cái
sở biểu khác nhau, bởi vì cùng một sự vật tùy theo đặc trƣng của mình có thể
tham gia vào một số lớp khác nhau.
Quan hệ ngữ âm của từ với cái sở biểu, tức là nghĩa sở biểu của từ đó,
trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định là cái có tính chất ổn định. Vì
vậy, nghĩa sở biể thuộc vào hệ thống ngôn ngữ.
Nghĩa sở chỉ thể hiện ra khi sử dụng các từ trong lời nói. Nó không có
tính ổn định bởi vì bản thân mối quan hệ của từ với cái sở chỉ có thể thay đổi
tùy theo hoàn cảnh nói năng cụ thể.

15

- Nghĩa sở dụng (pragmatical meaning): Là quan hệ của từ với ngƣời
sử dụng (ngƣời nói, ngƣời viết, ngƣời nghe, ngƣời đọc). Ngƣời sử dụng ngôn
ngữ hoàn toàn không thờ ơ đối với những từ ngƣời đƣợc dùng. Họ có thể bộc
lộ thái độ chủ quan của mình đối với từ ngữ và qua đó tới cái sở biểu và sở
chỉ của từ ngữ.
- Nghĩa kết cấu (structural meaning): Mỗi từ đều nằm trong một hệ
thống từ vựng, có quan hệ đa dạng và phức tạp với những từ khác. Quan hệ
giữa từ và những từ khác trong nghĩa sở biểu trong các ngôn ngữ đều có quan
hệ với việc nhận thức hiện thực khách quan. Theo đó, mỗi từ có giá trị riêng
của mình trong hệ thống nhờ quan hệ đối vị với các từ khác; quan hệ của từ
với các từ khác trên trục đối vị (trục dọc) đƣợc gọi là nghĩa khu biệt hay giá
trị. Ngoài ra, từ còn có quan hệ với các từ khác trên trục nối tiếp (trục ngang)
để tạo ra nghĩa cú pháp hay ngữ trị của từ.

Đỗ Hữu Châu [1] lại tập trung phân tích nghĩa và các nhân tố hình
thành nghĩa thông qua hình tháp nghĩa; trong đó ông đã phân biệt “nhân tố
nghĩa” và “nghĩa”, đồng thời thừa nhận nghĩa của từ là một thực thể tinh thần
cùng với phương diện hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ. Ông
cho rằng: số lƣợng kiểu nghĩa sẽ tăng lên tùy theo số lượng những nhân tố
được phát hiện. Trong phạm vi quan sát nghĩa từ vựng, các loại nghĩa mà ông
nêu ra bao gồm: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu thái:
- Nghĩa biểu vật: Sự vật, hiện tƣợng, đặc điểm… ngoài ngôn ngữ, đƣợc
từ biểu thị tạo nên nghĩa biểu vật của từ. Nghĩa biểu vật không phải là sự vật,
hiện tƣợng y nhƣ chúng có thực trong thực tế mà chỉ là sự phản ánh sự vật,
hiện tƣợng… trong thực tế vào ngôn ngữ. Vì vậy, nó có ý nghĩa khái quát.
- Nghĩa biểu niệm: Là tập hợp một số nét nghĩa chung và riêng, khái
quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có
một quan hệ nhất định. Tập hợp này ứng với một hoặc một số ý nghĩa biểu vật

16

của từ. Tập hợp các nét nghĩa phạm trù, khái quát chung cho nhiều từ đƣợc
gọi là cấu trúc biểu niệm.
- Nghĩa biểu thái: Thuộc phạm vi biểu thái của từ là các nhân tố đánh
giá nhƣ: to, nhỏ, mạnh, yếu…; các nhân tố cảm xúc nhƣ: dễ chịu, sợ hãi…;
các nhân tố thái độ nhƣ: yêu, ghét, mến, thương… mà từ gợi ra cho ngƣời nói
và ngƣời nghe.
Ba thành phần ý nghĩa trên đƣợc gọi chung là nghĩa từ vựng. Ngoài ra,
từ còn có nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp của từ.
Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến [5]
thì lại cho rằng nghĩa của từ là những liên hệ phản ánh được xác lập trong
nhận thức của chúng ta giữa từ với những cái mà từ chỉ ra (những cái mà nó
làm tín hiệu cho). Các tác giả quan niệm, nghĩa của từ gồm những thành phần
sau: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm. Ngoài hai thành phần nghĩa trên, các tác

giả còn nói đến hai thành phần nghĩa khác là: nghĩa ngữ dụng, nghĩa cấu trúc.
Theo đó:
- Nghĩa biểu vật: Là liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện tƣợng, thuộc
tính, hoạt động…) mà nó chỉ ra. Bản thân sự vật, hiện tƣợng, thuộc tính, hoạt
động đó ngƣời ta gọi là biểu vật hay cái biểu vật.
- Nghĩa biểu niệm: Là liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm, nếu
chúng ta không cần phân biệt nghiêm ngặt mấy tên gọi này). Cái ý đó ngƣời
ta gọi là cái biểu niệm hoặc biểu niệm (sự phản ánh các thuộc tính của biểu
vật vào trong ý thức của con ngƣời).
- Ngoài hai thành phần này, các tác giả còn nói đến hai thành phần
nghĩa khác là:
+ Nghĩa ngữ dụng (còn được gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa hàm chỉ): Là
mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm xúc của ngƣời nói.

17

+ Nghĩa cấu trúc: Là mối quan hệ giữa từ với từ khác trong hệ thống từ
vựng, trên cả hai trục đối vị và trục ngữ đoạn.
Nhƣ vậy, xét bản chất nghĩa và loại nghĩa tức là đi vào phân biệt nghĩa
từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Nghĩa từ vựng đƣợc phân thành nghĩa biểu vật
(nghĩa sở chỉ) và nghĩa biểu niệm (nghĩa sở biểu). Để tiến sâu hơn một bƣớc
trong tìm hiểu các thành phần nghĩa của từ đa nghĩa, các tác giả đi sâu phân
loại nghĩa trong hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa.
1.2.2. Phân loại nghĩa của từ đa nghĩa
Các nhà Việt ngữ học đã có những cách phân loại khác nhau đối với hệ
thống nghĩa của từ đa nghĩa. Có thể kể đến một số hƣớng nhƣ sau:
- Ở mặt lịch đại, các tác giả chia nghĩa của từ đa nghĩa thành nghĩa gốc
và nghĩa phái sinh. Nghĩa gốc là nghĩa đầu tiên, nghĩa có trƣớc, trên cơ sở
nghĩa đó phái sinh ra nhiều nghĩa khác. Nghĩa phái sinh là nghĩa đƣợc hình
thành trên cơ sở nghĩa gốc, trong quá trình sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ.

- Ở mặt đồng đại, các tác giả cũng đƣa ra nhiều cách giải quyết khác
nhau về nghĩa của từ đa nghĩa. Có thể kể đến một số lƣỡng phân nhƣ: nghĩa
tự do - nghĩa hạn chế, nghĩa trực tiếp - nghĩa chuyển tiếp, nghĩa thường trực -
nghĩa không thường trực [5, tr.173-176]. Bên cạnh đó còn có các lƣỡng phân
nhƣ: nghĩa cổ - nghĩa hiện dùng, nghĩa địa phương - nghĩa toàn dân, nghĩa
chính - nghĩa phụ… [1, tr.152-155].
Về cơ bản, các tác giả đã phân loại hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa theo
hƣớng lưỡng phân nghĩa. Điều này dẫn đến một hệ quả là: Trong trƣờng hợp
nhiều nghĩa phái sinh, nhiều nghĩa không cơ bản, nhiều nghĩa phụ thì sự phân
biệt không đƣợc chỉ rõ, không đƣợc gọi tên, không xác lập cho nó một vị thế
tƣơng ứng, không có sự định loại cho bộ phận nhiều nghĩa còn lại của từ…
Lƣỡng phân thì không đủ thang độ để phân biệt tính đa dạng ngữ nghĩa từ

18

vựng [23, tr.119]. Do đó, theo chúng tôi, phương pháp lưỡng phân không còn
là một thước đo đầy đủ cho việc nghiên cứu hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa.
Với mong muốn mở rộng khung phân loại hệ thống nghĩa của từ đa
nghĩa, nhằm đƣa ra những miêu tả, phân tích cụ thể, chi tiết hơn nữa về hệ
thống nghĩa hết sức đa dạng này, tác giả Lê Quang Thiêm [23] đã đƣa ra quan
niệm nghĩa là nội dung được xác định hình thành nhờ chức năng thì nội dung
ngữ nghĩa (phổ nghĩa) của từ bao gồm “chuỗi chức năng” mà từ bộc lộ trong
văn cảnh, ngữ cảnh mà chúng xuất hiện cũng nhƣ trong các kiểu tạo cấu trúc
ngôn ngữ. Từ đó, tác giả phân cấu trúc nghĩa của từ thành các tầng nghĩa, kiểu
nghĩa chức năng từ vựng gồm ba tầng, sáu kiểu. Cụ thể hơn, phổ nghĩa của từ
đƣợc trải dài từ cực duy lý khoa học đến cực biểu cảm, biểu trưng, biểu tượng
của tín hiệu:








Chúng ta lần lƣợt đi vào tìm hiểu sáu kiểu nghĩa trong ba tầng nghĩa từ
vựng nói trên:
- Về tầng nghĩa trí tuệ:
+ Nghĩa biểu niệm: Là nghĩa của từ mà có nội dung tƣơng hợp với các
khái niệm khoa học. Nó là nội dung mà tƣ duy con ngƣời nhận thức phản ánh
- Tầng nghĩa trí tuệ Nghĩa biểu niệm - Khái niệm khoa học (scientific concept)
(intellectual stratum) Nghĩa biểu hiện Ý niệm quy ƣớc
Giá trị hệ thống
- Tầng nghĩa thực tiễn Nghĩa biểu thị (denotational meaning)
(pragtical stratum) Nghĩa biểu chỉ (designated meaning)
- Tầng nghĩa biểu trƣng Nghĩa biểu trƣng (symbolized meaning)
(symbolized stratum) Nghĩa biểu tƣợng (imaginative meaning)

19

bản chất các hiện tƣợng, các quá trình, thuộc tính. Ví dụ: Nghĩa của từ nước:
chất lỏng không màu, không mùi, trong suốt, sôi ở 100 độ C.
+ Nghĩa biểu hiện: Là một nội dung trừu tƣợng, khái quát thể hiện
trong tín hiệu ngôn ngữ. Nội dung này bao gồm hai nội dung cụ thể hơn: khái
niệm quy ước là nội dung khái quát thuộc tính dấu hiệu đối tƣợng đƣợc biểu
hiện một cách đời thƣờng có tính chủ quan, không hoàn toàn thể hiện bản chất
và nghĩa hệ thống đƣợc xác lập trong quan hệ với từ khác trong nhóm, trong
trƣờng.
- Về tầng nghĩa thực tiễn:
+ Nghĩa biểu thị: Nghĩa biểu thị có tính cụ thể lời nói, đƣợc dùng trong
thực tiễn đời sống khi câu nói liên quan đến sự vật, hoạt động, tính chất mà từ

biểu thị. Nói đến nghĩa biểu thị là ta có thể hình dung sự vật, hành động theo
một mặt, một thuộc tính, công dụng cụ thể nào đó. Nghĩa biểu thị của từ nước
là chất lỏng nói chung; ví dụ: nước chè, nước mắt, nước sông…
+ Nghĩa biểu chỉ: Nghĩa biểu chỉ có nội dung chỉ ra, quy chiếu đến mà
nội dung nghĩa ít phản ánh, biểu thị, ánh xạ nét gì, thuộc tính nào của sự vật,
hiện tƣợng mà nhƣ là từ thay thế, dán nhãn. Kiểu nghĩa này thể hiện nhƣ các
từ chỉ xuất: này, kia, ấy, đấy…; các đại từ: tôi, ta, nó, y…
- Về tầng nghĩa biểu trưng:
+ Nghĩa biểu trưng: Là loại nghĩa dành cho nội dung nghĩa của những
từ mà hình thức ngữ âm (mô phỏng âm thanh) hoặc hình thức cấu âm (mô
phỏng cấu hình) có liên hệ đến nội dung đƣợc biểu hiện của từ.
+ Nghĩa biểu tượng: Là nghĩa có đƣợc do hình dung, tƣởng tƣợng.
Có thể nói, với quan niệm về ba tầng nghĩa, sáu kiểu nghĩa chức năng
từ vựng nhƣ vậy, nghĩa của từ không chỉ đƣợc xem xét trong thế lƣỡng phân
nhƣ những quan niệm trƣớc đó. Đây là một sự đổi mới, mở rộng quan niệm

20

về nghĩa, nó đã dung hòa và kiến giải đƣợc những nội dung thuộc hai cực đối
lập nhau: khoa học và viễn tưởng, hai khả năng biểu đạt của kí hiệu: tạo hình
và biểu hiện, miêu tả và tri giác. Theo đó, ta cũng thấy rõ hơn về sự phong
phú, đa dạng và đầy ý nghĩa trong nghĩa chức năng từ vựng.
Chúng tôi lựa chọn cách phân loại thành phần nghĩa từ vựng của tác giả
Lê Quang Thiêm làm hƣớng tiếp cận trƣờng ngữ nghĩa và cũng làm hƣớng
khai thác chung cho luận văn này. Bởi lẽ, với ba tầng, sáu kiểu nghĩa chức
năng từ vựng, nghĩa của từ đƣợc khai thác một cách triệt để từng vỉa lớp
nghĩa đƣợc lần lƣợt bóc tách chứ không chỉ riêng một thành phần nghĩa nào.
Càng đi sâu bóc tách từng kiểu nghĩa, tầng nghĩa của đơn vị từ này và xác lập
đƣợc mối liên hệ của nó với các tầng nghĩa, kiểu nghĩa của các đơn vị từ khác
trong hệ thống từ vựng thì các trƣờng ngữ nghĩa đƣợc thiết lập và mở rộng

thêm ra, phong phú hơn gấp nhiều lần. Vì thế, chúng tôi có đƣợc cơ sở đa
dạng, phong phú và khá đầy đủ để tập hợp đƣợc nhiều nhất hệ thống nghĩa
của từ, góp phần mở rộng đến mức tối đa trƣờng ngữ nghĩa và đồng thời thấy
đƣợc khả năng bộc lộ các nghĩa mới - cũ khác nhau của từ thông qua những
ngữ cảnh, văn cảnh khác nhau mà chúng xuất hiện. Trong luận văn này,
chúng tôi sẽ tìm hiểu kĩ về tầng nghĩa biểu trƣng mà cụ thể là nghĩa biểu
tƣợng của từ trong việc xây dựng hình tƣợng của tác phẩm văn học nghệ thuật,
cụ thể là trong các sáng tác thơ.
1.3. Tầng nghĩa biểu trƣng từ vựng và biểu hiện của nó trong ngôn
ngữ thơ ca
1.3.1. Tầng nghĩa biểu trưng từ vựng
Nói đến nghĩa biểu trƣng là nói tới các mức độ của sự hình dung, tƣởng
tƣợng mà con ngƣời có thể nhận đƣợc khi liên hệ nghĩa với hình thức biểu
hiện của từ hoặc các phạm vi tồn tại khác trong cuộc sống.

21

Tầng nghĩa biểu trƣng có hai kiểu nghĩa: nghĩa biểu trưng và nghĩa
biểu tượng.
- Nghĩa biểu trưng: Là loại nghĩa dành cho nội dung nghĩa của những
từ mà hình thức ngữ âm (mô phỏng âm thanh) hoặc hình thức cấu âm (mô
phỏng cấu hình) có liên hệ đến nội dung đƣợc biểu hiện của từ. Các từ tự mặt
âm thanh của nó đã nói lên phần nào nội dung biểu đạt; ý nghĩa của từ đã
đƣợc biểu đạt và có thể đƣợc tiếp nhận thông qua vỏ ngữ âm. Những đơn vị
ngôn ngữ mang nghĩa biểu trƣng này đã chứng minh một điều: mối quan hệ
giữa hai mặt âm thanh và ý nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ không hoàn toàn là
võ đoán. Nói cách khác, trong một phạm vi hẹp nào đó, mối quan hệ giữa cái
biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt của tín hiệu ngôn ngữ là có lý do. Những từ
mang nghĩa biểu trƣng là những từ mà ta quen gọi là từ tƣợng thanh và từ
tƣợng hình. Ví dụ: meo meo (mèo), rào rào (mƣa), oang oang (giọng nói),

ngoằn ngoèo (con đƣờng)…
Nghĩa biểu trƣng là kết quả của quá trình biểu trƣng hóa, đó là quá trình
vốn có nguồn gốc tâm lí của nó trong đời sống xã hội và được ghi lại một
cách tế nhị, độc đáo trong ngôn ngữ.
- Nghĩa biểu tượng: Là loại nghĩa có đƣợc do con ngƣời hình dung,
tƣởng tƣợng ra. Trong cuộc sống, có những đối tƣợng đƣợc gọi tên nhƣng
những gì con ngƣời biết về nó chỉ là sự tƣởng tƣợng, sự truyền miệng, mang
tính hoang đƣờng, thần thoại. Đó là trƣờng hợp của những đơn vị ngôn ngữ
mang nghĩa biểu tƣợng, ví dụ: tiên, bụt, rồng, phượng, nhân mã… Nói đến
nghĩa biểu tƣợng, không thể không nhắc đến những đơn vị ngôn ngữ mang
nội dung biểu cảm, nội dung huyền thoại mà một dân tộc ở một thời đại nào
đó, chủ thể ngôn ngữ đã thổi vào, gán vào nội dung với những hình dung,
tƣởng tƣợng. Đó là những hình tƣợng nhƣ mẹ, Tổ quốc, đất nước, quê
hương… Những biểu tƣợng này mang giá trị nhân văn sâu sắc, mang chiều

22

sâu lịch sử, có tính văn hóa - nghệ thuật và đƣợc mã hóa trong tín hiệu ngôn
ngữ, gắn với chức năng thẩm mĩ của từ ngữ. Vì vậy, có ngƣời gọi kiểu nghĩa
này là nghĩa biểu cảm - văn hóa.
Cuộc sống xã hội, nhận thức và tƣ duy của con ngƣời luôn luôn thay
đổi. Vì thế, để đảm nhiệm đƣợc chức năng là công cụ của tƣ duy và là phƣơng
tiện của giao tiếp, ngôn ngữ cũng phải thay đổi theo; hệ quả của nó là làm nảy
sinh những cách thức chuyển nghĩa mới. Vì thế, có những từ vốn đã có một
cơ cấu nghĩa biểu vật lôgíc cụ thể nhƣng trong quá trình sử dụng của con
ngƣời vẫn mang thêm những biểu tƣợng khác. Những nghĩa biểu tƣợng này
có mối liên quan mật thiết với nghĩa biểu vật lôgíc của từ. Ví dụ: Từ xuân
mang nghĩa sự vật thông thƣờng là chỉ mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời
tiết ấm dần lên, thường được coi là mở đầu của một năm đã đƣợc chuyển
nghĩa, biểu tƣợng cho tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc trong các câu thơ nhƣ:

Mùa xuân là tết trồng cây,
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân
(Hồ Chí Minh)
Để nắm bắt và tri nhận đƣợc ý nghĩa thuộc tầng nghĩa biểu trƣng của từ,
ngƣời tiếp nhận ngôn ngữ phải sử dụng khả năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng và
có vốn tri thức văn hóa, lịch sử nhất định. Khi các đơn vị ngôn ngữ mang tầng
nghĩa biểu trƣng, nó không còn là những tín hiệu thông thƣờng mà đã trở
thành tín hiệu thẩm mĩ. Tín hiệu thẩm mĩ là chất liệu của văn học nghệ thuật
và chỉ trong văn học nghệ thuật, tín hiệu ngôn ngữ mới thể hiện hết những giá
trị, tầng nghĩa biểu trƣng của mình.
1.3.2. Sự hiện thực hóa của tầng nghĩa biểu trưng trong ngôn ngữ
thơ ca

23

Ngôn ngữ là hệ thống chất liệu tinh thần đƣợc sử dụng để chuyển tải
hình tƣợng thẩm mĩ của văn học. Hay nói cách khác, văn học sử dụng tín hiệu
thẩm mĩ dƣới hình thức biểu đạt của ngôn ngữ. Đây là phƣơng tiện đặc hữu
của văn học nghệ thuật. Ngôn ngữ là công cụ phổ biến nhất có thể truyền tải
một cách trọn vẹn hiện thực khách quan cũng nhƣ những mặt bên trong của
thực tế (cảm giác, cảm xúc, trạng thái). Bởi vậy, để lĩnh hội đƣợc các tác
phẩm văn chƣơng nghệ thuật, chúng ta phải tìm hiểu giá trị ngữ nghĩa của văn
bản đó, mà trƣớc hết là ngữ nghĩa của từ.
Do đó, có thể khẳng định rằng, thơ ca là môi trƣờng hoạt động đặc biệt
của các tín hiệu ngôn ngữ. Tính đặc biệt của nó so với các môi trƣờng khác
(phong cách chức năng khác) nằm ở khả năng tạo hình tƣợng trên chất liệu
ngôn từ. Nói khác đi, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng, tiên quyết đối với sự
thành công của một tác phẩm văn chƣơng. Để làm đƣợc điều đó, thông
thƣờng, khi đi vào tác phẩm, các kí hiệu ngôn ngữ ngoài việc bộc lộ nghĩa
khái niệm (tầng nghĩa trí tuệ) và nghĩa thông thƣờng (tầng nghĩa thực tiễn), nó

còn bộc lộ những nghĩa thuộc tầng nghĩa biểu trƣng - tầng nghĩa đã đƣợc
ngƣời nghệ sĩ “gắn” lên óc hình dung, tƣởng tƣợng của mình và đƣợc tri nhận
bằng những quan niệm thẩm mĩ, văn hóa chung của cộng đồng. Vì thế, khai
thác tầng nghĩa biểu trƣng của các đơn vị từ vựng sẽ cho chúng ta những kết
quả lí thú và đầy mới lạ. Nói nhƣ vậy để thấy rằng, nghĩa của các đơn vị từ
vựng trong tác phẩm văn chƣơng có thể chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng
thái động; từ dạng khái quát, trừu tƣợng, các đơn vị sang trạng thái cụ thể,
sinh động. Các từ ngữ đƣợc hiện thực hóa các thuộc tính, các đặc điểm hình
tƣợng của mình trong các kết hợp nhất định và thực hiện đƣợc những chức
năng thẩm mĩ đa dạng khi tham gia xây dựng hình tƣợng văn học.
Đặc điểm nổi bật của từ ngữ trong các tác phẩm văn chƣơng là có thể
đƣợc dùng với nghĩa chuyển mới, nghĩa của nó khi tham gia văn bản văn học

24

thƣờng không đồng nhất với nghĩa vốn có, nghĩa tự thân của nó trong hệ
thống ngôn ngữ. Tuy nhiên, những phƣơng thức chuyển nghĩa, những quan hệ
ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng (gọi tắt là những hiện tƣợng ngữ nghĩa từ
vựng) là cơ sở, là cái mẫu tạo ra sự chuyển nghĩa trong văn bản. Tức là, hiện
tƣợng ngữ nghĩa từ vựng và hiện tƣợng từ ngữ trong sử dụng khác nhau về
tính cố định, tính đa phong cách và những quan hệ nhƣ nhau. Vì vậy, nắm
vững những hiện tƣợng ngữ nghĩa, chúng ta sẽ có cơ sở vững vàng để lí giải
các hiện tƣợng ngữ nghĩa trong văn bản văn học.
Ở góc nhìn của văn học nghệ thuật, chất liệu ngôn ngữ đƣợc sử dụng để
thể hiện những giá trị thẩm mĩ sao cho sáng tạo nhất, độc đáo nhất và quan
trọng hơn là đạt đƣợc hiệu quả giao tiếp cao nhất. Chính vì vậy, khi đứng
trƣớc kho từ vựng khổng lồ, nhà văn buộc phải lựa chọn những từ ngữ có khả
năng bộc lộ nghĩa một cách tốt nhất và phải khai thác triệt để giá trị ý nghĩa
của từ, ngữ, đặc biệt là giá trị biểu cảm và tƣợng trƣng. Chẳng những thế,
bằng tài năng của mình, nhà văn còn phải tạo ra những giá trị mới cho những

vỏ âm thanh đã quen thuộc trong đời sống hằng ngày. Nói cách khác, tầng
nghĩa biểu trƣng từ vựng là tầng nghĩa đƣợc sử dụng một cách đa dạng nhất
với nhiều hình thức biến hóa nhất trong văn học. Chính tầng nghĩa này làm
nên nét giá trị độc đáo cho ngôn từ so với các kiểu văn bản chức năng khác.
Và chính trong văn chƣơng nghệ thuật, nội dung nghĩa của từ đƣợc làm giàu
lên, phong phú hơn bằng những liên tƣởng độc đáo và khả năng sáng tạo vô
biên của những ngƣời nghệ sĩ.
Nếu nhƣ một kí hiệu ngôn ngữ thƣờng có sự thống nhất giữa cái biểu
đạt và cái đƣợc biểu đạt thì trong văn học không phải bao giờ cũng thế. Cái
biểu đạt trong văn học (trong thơ) chẳng qua chỉ là lớp kính bên ngoài bao
bọc một thế giới hình tƣợng muôn màu muôn vẻ. Không hiểu đƣợc điều đó
thì ngƣời tiếp nhận sẽ bỏ qua những giá trị đích thực của ngôn từ, những gì

25

độc đáo, kì diệu mà ngƣời nghệ sĩ đã tạo ra từ năng lực sáng tạo nghệ thuật
của mình. Trong thơ sử dụng nhiều từ đa nghĩa tạo nên độ sâu cảm xúc, nhiều
tầng nghĩa và sự biến hóa linh hoạt của câu thơ, hình tƣợng thơ. Do đó, khi
nghiên cứu thơ, chúng ta sẽ thu đƣợc một hệ thống những hình tƣợng mới
đƣợc biểu đạt bằng những kí hiệu ngôn ngữ quen thuộc. Đồng thời, qua đó,
chúng ta thu nhận đƣợc một cơ cấu nghĩa của từ đa dạng, sinh động hơn rất
nhiều lần kết cấu nghĩa đã đƣợc khái quát trong từ điển.
Xét về tầng nghĩa biểu trƣng, tầng nghĩa này có hai kiểu nghĩa chức
năng: nghĩa biểu trưng và nghĩa biểu tượng. Chúng thể hiện tính chất biểu
tƣợng hóa của ngôn từ. Nghĩa biểu trƣng đƣợc hiện thực hóa qua các từ tƣợng
thanh, tƣợng hình. Còn nghĩa biểu tƣợng thì phong phú, đa dạng hơn rất nhiều
lần và cũng khó nắm bắt hơn. Nó tồn tại trong rất nhiều từ ngữ của hệ thống
từ vựng, làm giàu cho nội hàm cái đƣợc biểu hiện của từ. Dƣới hình thức vỏ
âm thanh quen thuộc, nghĩa biểu tƣợng là điều kỳ diệu của ngôn ngữ, thể hiện
sự phát triển cao của trí tuệ con ngƣời và ngôn ngữ đó. Nó đã tạo nên biểu

tƣợng sinh động, có đời sống độc đáo, vận động và phát triển không ngừng,
tạo thành một thế giới riêng. Chính tầng nghĩa này là cơ sở tạo nên những
hình tƣợng nghệ thuật trong thơ văn và cuộc sống. Điều đó cho thấy một xã
hội tồn tại và phát triển không thể thiếu những biểu tƣợng ngôn từ nhƣ thế.
Nghĩa biểu tƣợng từ vựng chứa đƣợc cả một kho tàng về tri thức nhân loại và
dân tộc, nó là một vấn đề lí thú cuốn hút chúng ta; đó là cả một thế giới phong
phú chứa đựng nhiều sự độc đáo vô cùng, vô tận. Nói nhƣ vậy là để thấy đƣợc
tầng nghĩa biểu trƣng là một tầng nghĩa chứa nhiều nội dung nghĩa tiềm tàng,
đây là bộ phận nghĩa linh động nhất, có khả năng cơ động mạnh hơn nhiều
tầng nghĩa khác, nó phụ thuộc vào những mức độ, cơ tầng khác nhau của trí
tƣởng tƣợng ở con ngƣời. Điều này có thể đƣợc hình dung trong trƣờng hợp
từ non, nước trong ví dụ sau đây:

×