Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Hoán dụ trong tiếng Anh và việc chuyển dịch hoán dụ tiếng Anh sang tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 124 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN PHƯƠNG CHUNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



HOÁN DỤ TRONG TIẾNG ANH VÀ VIỆC CHUYỂN
DỊCH HOÁN DỤ TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT

(TRÊN CỨ LIỆU CÁC HOÁN DỤ CÓ PHẠM
TRÙ NGUỒN LÀ TỪ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI)




MÃ SỐ: 60 22 01



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN HỒNG CỔN







HÀ NỘI, 2007









2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN




NGUYỄN PHƯƠNG CHUNG



HOÁN DỤ TRONG TIẾNG ANH VÀ VIỆC CHUYỂN
DỊCH HOÁN DỤ TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT



(TRÊN CỨ LIỆU CÁC HOÁN DỤ CÓ PHẠM
TRÙ NGUỒN LÀ TỪ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI)




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC













HÀ NỘI, 2007

MỤC LỤC
Mở đầu………………………………………………………………… 1
Chương 1. Lịch sử vấn đề và cơ sở lý thuyết…………………….….4
1. Lịch sử vấn đề ………………………………………………… 4
Tình hình nghiên cứu hoán dụ trong tiếng Anh ………………… …4
Tình hình nghiên cứu hoán dụ trong tiếng Việt ………………… 13

2. Hoán dụ và các khái niệm liên quan đến hoán dụ ………… 17
Khái niệm hoán dụ ……….……………………………………… 17
Phân biệt hoán dụ với ẩn dụ và cải dung ………………………….21
3. Tiểu kết ………………………………………………………… 24
Chương 2. Khảo sát các hoán dụ có phạm trù nguồn là từ chỉ bộ
phận cơ thể người trong tiếng Anh (có liên hệ với tiếng Việt)… 25
1. Mô tả đặc điểm cấu tạo của các hoán dụ có chứa từ chỉ bộ phận cơ
thể người trong tiếng Anh. ………………… 25
1.1. Hoán dụ là từ độc lập ………………………………………… 26
1.2. Hoán dụ là từ ghép …………………………………………… 27
1.3. Hoán dụ là ngữ cố định …………………………………………28
2. Mô tả nghĩa hoán dụ có chứa các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong
tiếng Anh (có liên hệ với tiếng Việt) ……………….……………….31
2.1. Eye ……… ………………………………………………… 31
2.2. Ear ………………………………………………………… 38
2.3. Head …………………………………………………………. 42
2.4. Tongue ………………………………… 49
2.5. Mouth …………………………………………………… 54
2.6. Lip …… …………………………………………………… 60
3. Tiểu kết ………………………………………………………… 64

Chương III. Các cách chuyển dịch hoán dụ từ tiếng Anh sang tiếng
Việt 67
1. Khái quát về các cách chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt …67
1.1. Chuyển dịch tương đương ……………………………………… 68
1.2. Chuyển dịch không tương đương ………………………………….72
2. Cách chuyển dịch hoán dụ có phạm trù nguồn là từ chỉ bộ phận cơ thể
người từ tiếng Anh sang tiếng Việt …………………………………. 77
2.1. Chuyển dịch tương đương ……………………………………….77
2.2. Chuyển dịch không tương đương ……………………………… 86

3. Tiểu kết …………………………………………………………….90
Kết luận …………………………………………………………… 91
Tài liệu tham khảo …………………………………………………….94
Nguồn tư liệu ……………………………………………………….101







1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoán dụ là một trong nhiều biện pháp tu từ được sử dụng phổ biến
trong tất cả các ngôn ngữ kể cả tiếng Anh và tiếng Việt. Có thể nói, trong
cuộc sống hàng ngày chúng ta sử dụng khá nhiều hoán dụ. Đây là một
cách mà người nói dùng để truyền đạt tư tưởng, tình cảm của mình. Hoán
dụ xuất hiện ở tất cả các trường từ vựng khác nhau nhưng có lẽ phổ biến
nhất đó chính là các từ trong trường từ vựng chỉ bộ phận cơ thể người. Lý
do hoán dụ xuất hiện nhiều ở trường từ vựng này vì con người là trung
tâm của vũ trụ và con người luôn lấy mình làm trung tâm để nhận thức
thế giới.
Hơn thế nữa, hoán dụ là một trong những yếu tố tạo nên bản sắc của
ngôn ngữ. Trong tiếng Việt cũng như trong tiếng Anh, hoán dụ là một
trong những biện pháp tu từ được sử dụng khá nhiều. Việc xử lý hay
chuyển dịch các hoán dụ từ tiếng Anh sang tiếng Việt thường gặp khó
khăn chính do người dịch cố gắng giữ đặc trưng của ngôn ngữ. Khi dịch
từ tiếng Anh sang tiếng Việt việc tìm các tương đương hoán dụ một cách
chính xác thường là rất khó.

Ngoài ra, là một người học ngoại ngữ, tôi thấy hoán dụ có vai trò
quan trọng trong khi sử dụng ngoại ngữ giao tiếp với người nước ngoài.
Khi còn là sinh viên, tôi chỉ học tiếng Anh qua sách vở, thầy cô, bạn bè,
và hầu như không có cơ hội giao tiếp với người Anh. Cho đến khi ra
trường và trở thành một giáo viên ngoại ngữ (dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài), tôi mới có nhiều cơ hội tiếp xúc với người Anh và những
khiếm khuyết trong ngôn ngữ giao tiếp bắt đầu xuất hiện. Do thiếu vốn từ
ngữ, đặc biệt là thiếu kiến thức về hoán dụ, đôi khi tôi đã có những hiểu
nhầm trong giao tiếp hoặc không diễn đạt được chính xác suy nghĩ và ý
mình muốn biểu đạt. Trong quá trình giảng dạy tôi thấy rằng việc hiểu
biết sâu về hoán dụ và cách sử dụng chúng là rất cần thiết cho sinh viên

2
để họ biết được những cách nói thực tế mà người Việt vẫn sử dụng.
Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn đề tài này làm đề tài luận văn
cao học của mình.

2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là hoán dụ có phạm trù
nguồn là các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Anh (có so sánh với
tiếng Việt). Tuy nhiên, do số lượng các hoán dụ trong tiếng Anh lại khá
lớn nên trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ xem xét các hoán dụ
chứa các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Anh ở sáu từ chính là
eye, ear, lip, head, mouth và tongue.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
- Làm sáng tỏ đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của hoán dụ trong
tiếng Anh thông qua các hoán dụ chứa từ chỉ bộ phận cơ thể
người.

- Tìm hiểu sự giống nhau và khác nhau trong nghĩa hoán dụ của các
từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người của tiếng Anh và tiếng Việt.
- Xem xét cách thức chuyển dịch các hoán dụ chỉ bộ phận cơ thể
người từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
Để thực hiện các mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
- Tổng quan các lý thuyết về hoán dụ trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Trên cơ sở đó, xác định các khái niệm , tiêu chí nhận diện hoán dụ
và phương pháp tiếp cận hoán dụ.
- Tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa hoán dụ có phạm trù nguồn là từ chỉ
bộ phận cơ thể người trong tiếng Anh (có so sánh với tiếng Việt).
- Khảo sát cách chuyển dịch tương đương các hoán dụ có phạm trù

3
nguồn là từ chỉ bộ phận cơ thể người từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Ngoài các phương pháp luận chung là diễn dịch và qui nạp, luận
văn đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học
khác nhau như:
- Phương pháp mô tả, phân tích cấu trúc, phân tích ngữ nghĩa, so
sánh đối chiếu và thống kê.
- Tư liệu của luận văn bao gồm 145 hoán dụ chứa các từ ngữ chỉ bộ
phận cơ thể người được lấy từ các từ điển và một số văn bản tiếng
Anh và tiếng Việt. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một số tư liệu
được lấy từ Internet, khẩu ngữ hoặc từ công trình nghiên cứu của
các tác giả đi trước.

5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo thì luận

văn gồm có ba chương chính.
- Chương 1: Lịch sử vấn đề và cơ sở lý thuyết.
- Chương 2: Khảo sát đặc điểm cấu tạo và nghĩa các hoán dụ có
phạm trù nguồn là từ chỉ bộ phận cơ thể người.
- Chương 3: Cách chuyển dịch hoán dụ từ tiếng Anh sang tiếng Việt
(trên cứ liệu các hoán dụ có phạm trù nguồn là từ chỉ bộ phận cơ thể
người).






4
CHƢƠNG 1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tình hình nghiên cứu hoán dụ trong tiếng Anh
Cùng với ẩn dụ, hoán dụ là một trong hai phương thức chuyển
nghĩa của từ phổ biến và lâu đời nhất trong ngôn ngữ. Từ thời cổ đại đến
nay, hoán dụ vẫn được các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Theo
Stanford [73], các nhà ngôn ngữ học cổ đại như: “Herodotus và
Thucydides, và sau này là Plato đều đã sử dụng từ μεтоν

εν để đặt tên
cho một sự vật mới hay đổi tên cho một sự vật nào đó, và theo cách nói bị
động là sự vật đó được nhận một cái tên mới. Tuy vậy, trong tất cả ngữ
cảnh của từ μεтоν

εν thì không có một nét nghĩa nào liên quan đến thuật
ngữ mà giờ đây được gọi là hoán dụ, mà chỉ là một kiểu cụ thể của ẩn

dụ”.

1.1.1. Hoán dụ trong ngôn ngữ học truyền thống
Những nhà nghiên cứu tiêu biểu về hoán dụ ở phương Tây là hai
nhà tu từ học và triết học Hy Lạp cổ đại là Isocrate và Aristotle. Mặc dù
các nhà triết học này nhận thấy có hiện tượng hoán dụ nhưng họ vẫn xếp
hoán dụ là một loại trong ẩn dụ chứ không tách riêng hoán dụ thành một
phương thức mới trong tu từ học.
Isocrate, nhà triết học đầu tiên cố gắng phân biệt ngôn ngữ thơ ca
và ngôn ngữ phi thơ ca. Ông cũng vẫn chú ý đến ẩn dụ hơn là hoán dụ.
Ông cho rằng các nhà văn không có đặc quyền sử dụng các cấu trúc ngôn
ngữ giống như các nhà thơ để thu hút sự chú ý của người nhận thông tin
giao tiếp từ chính thông tin đó. Sở dĩ như vậy là vì các nhà văn luôn luôn
tuân theo các khuôn (forms) và các từ ngữ đã được mọi người trong xã
hội sử dụng một cách chính xác và chúng có liên quan đến những vấn đề
mà họ đề cập. Theo Isocrate, ẩn dụ là điểm khác biệt của ngôn ngữ thơ ca
vì nó có thể chuyển tải được các kinh nghiệm đầu tiên về thế giới và cung

5
cấp các kiến thức con người tri nhận về thế giới. Như vậy, Isocrate đã lấy
phương thức ẩn dụ làm tiêu chí để phân biệt ngôn ngữ thơ ca và phi thơ
ca mà không đề cập một chút nào đến phương thức hoán dụ.
So với các nhà tu từ học và triết học thời kỳ này, Aristotle là người
đã nhìn nhận rõ hơn về hiện tượng hoán dụ trong ngành tu từ học. Trong
tác phẩm “Poetics and Rhetoric”, Aristotle đã giải quyết một số quan hệ
hoán dụ theo cách thức của ẩn dụ chứ chưa sử dụng chính xác thuật ngữ
“metonymy” (hoán dụ). Cũng trong tác phẩm này, ông cho rằng: “Ẩn dụ
là một thuật ngữ lạ vì nó được dùng cho cả hiện tượng dùng một sự vật
này để nói đến một sự vật khác hoặc từ một thực thể này tới một thực thể
khác mà có sự tương đồng với nhau” [40].

Aristotle phân biệt bốn kiểu ẩn dụ khác nhau. Kiểu ẩn dụ đầu tiên
và thứ hai là phép cải dung hiện nay, kiểu ẩn dụ thứ ba chính là hoán dụ
và chỉ có kiểu thứ tư được coi là ẩn dụ. Aristotle đưa ra các ví dụ về ẩn dụ
dựa trên quan hệ hoán dụ, tuy vậy ông không hề coi đó là hoán dụ. Chúng
ta cùng xem xét một ví dụ mà Aristotle cho là ẩn dụ. Ví dụ:
(1) A cup is to Dionysus what a shield is to Ares.
(Cái cốc đối với Dionysus là cái khiên đối với Ares)
Ví dụ trên được Aristole coi là một ví dụ của phương thức ẩn dụ
nhưng trên thực tế nó lại là hoán dụ. Quan hệ hoán dụ ở đây trước tiên là
dựa trên quan hệ tương cận (contiguty), trong đó các từ “cốc”(cup) và
“rượu”(wine) được nhận biết trên quan hệ vật chứa đựng và cái được
chứa đựng. Vì thế khi ta nói cốc của Dionysus nghĩa là ta đề cập đến hành
động uống trong cái cốc và cái mà ta uống đó chính là rượu. Tương tự
như vậy thì Dinoysus là người làm ra rượu và đấy chính là quan hệ hoán
dụ giữa người tạo tác và vật tạo tác. Tương tự với cách lập luận như trên
thì khiên biểu tượng cho chiến tranh. Ares là người làm ra khiên và do đó
đây cũng là quan hệ giữa người tạo tác và vật tạo tác. Ở đây cũng xảy ra
quan hệ hoán dụ giữa vật chứa đựng và cái chứa đựng - cái khiên chứa

6
đựng chiến tranh. Như vậy toàn bộ quá trình chuyển nghĩa này về cơ bản
là giống với phép hoán dụ. Phương thức ẩn dụ chỉ xuất hiện sau khi các
quan hệ về hoán dụ đã được giải quyết. Ẩn dụ ở đây là sự so sánh giữa
cốc của Dinoysus (Dinoysus’cup) cũng giống như khiên của Ares
(Ares’shield).
Như vậy trong thời kỳ ngôn ngữ học truyền thống các nhà nghiên
cứu mới chỉ xem xét đến hiện tượng ẩn dụ và coi hoán dụ là một loại của
ẩn dụ chứ chưa tách riêng hoán dụ như là phương thức riêng biệt. Trong
thời kỳ tiếp theo hoán dụ được nghiên cứu sâu hơn.


1.1.2. Hoán dụ trong ngôn ngữ học cấu trúc
Bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ 20 đã xuất hiện nhiều lý
thuyết ngôn ngữ học về hoán dụ. Những lý thuyết này gắn liền với tên
tuổi các nhà ngôn ngữ học hoặc các nhà tu từ học nổi tiếng như :
Jakobson, Ullman.
Trong bài “Two Aspects of Language and Two Types of Aphasic
Disturbances”, Roman Jakobson [58] đã xem xét văn học dưới góc độ
ngôn ngữ để phân tích và giúp ngành văn học trở nên chính xác hơn và
khách quan hơn. Bài viết của Jakobson đã làm dấy lên một mối quan tâm
đáng kể và thu hút sự chú ý của giới ngôn ngữ và giới văn học về vai trò
của hai phạm trù ngôn ngữ học là hoán dụ và ẩn dụ trong sự phát triển
diễn ngôn.
Lý thuyết của Jakobson về hoán dụ và ẩn dụ đưa ra một cách xử lý
có tính chuyên môn cao vấn đề các hiện tượng lộn xộn (disorders) trong
ngôn ngữ (Jakobson’s theory of metonymy and metaphor comes in a
highly technical treatment of the subject of language disoders). Jakobson
đã xây dựng lý thuyết riêng của mình dựa trên các nguyên tắc “lựa chọn”
(selection) và “kết hợp” (combination) có liên quan đến hai khái niệm của
Saussure là quan hệ hệ hình và quan hệ ngữ đoạn. Jakobson chia các phép

7
chuyển nghĩa thành hai loại là ẩn dụ và hoán dụ (bao gồm cả cải dung) và
cho rằng hoán dụ hình thành là dựa trên quan hệ tương cận (contiguity)
còn ẩn dụ là quan hệ tương đồng (similarity).
Một tác giả khác là Stephen Ullmann đã giới thiệu một lý thuyết
hoán dụ trong hai cuốn sách về ngữ nghĩa: “Principles of Semantic” [74]
và “Semantic: An Introduction to the Science of Meaning” [75]. Tác giả
xây dựng lý thuyết về này khi ông nghiên cứu về vấn đề chuyển nghĩa
của hoán dụ và ông cho rằng trong hoán dụ có hai quan hệ, đó là quan hệ
tương đồng và quan hệ tương cận. Theo Ullmann thì quan hệ tương cận

có thể là sự lân cận giữa các cảm nhận hoặc giữa các tên riêng. Ví dụ:
(2) “That girl’s mother tongue is French”.
(Tiếng mẹ đẻ của cô ấy là tiếng Pháp)
Trong ví dụ này, lưỡi được coi là bộ phận chủ đạo của hoạt động
nói năng vậy nó có quan hệ tương cận với mother tongue (tiếng mẹ đẻ).
Loại quan hệ tương cận thứ hai là quan hệ giữa các tên riêng Ullmann
cho rằng hoán dụ thì không phong phú như ẩn dụ vì nó không tạo ra mối
quan hệ mới mà nó chỉ tạo từ mới dựa trên quan hệ của các từ có liên
quan với nhau.
Ullman cũng cố gắng phân loại hoán dụ dựa trên quan hệ tương
cận, ông chia hoán dụ thành hai loại: loại thứ nhất là hoán dụ biến đổi
theo thời gian, ví dụ như sự chuyển nghĩa của từ “coxa” trong tiếng La
tinh có nghĩa là “hip” (mông) thành từ “cussie” trong tiếng Pháp có
nghĩa là “thigh” (đùi) vì hai bộ phận này có quan hệ tương cận với nhau.
Loại hoán dụ thứ hai là dựa trên quan hệ tương cận về thời gian chẳng
hạn như tên gọi cho các bữa ăn trong ngày như ăn sáng, ăn trưa, ăn tối vì
hành động “ăn” xảy ra vào buổi sáng, buổi trưa và buổi tối. Loại hoán dụ
thứ ba mà Ullmann đề cập đến là dựa trên quan hệ bộ phận- chỉnh thể, ví
dụ: từ “redbreast” (ngực đỏ) dùng thay cho từ “robin” (tên một loại
chim) vì con chim này có ngực màu đỏ.

8
Ở đây ta thấy rằng Ullmann không phân biệt hoán dụ và cải dung.
Loại hoán dụ thứ tư theo sự phân biệt của Ullmann là quan hệ tạo nhân-
tạo vật hay quan hệ người sản xuất- vật được sản xuất. Ví dụ:
(3) “One ampere is the current that one volt can send through one
ohm”.
(Một ampe bằng một vôn chạy qua một ôm).
Ở đây tên của ba nhà khoa học phát minh ra các đơn vị này được
đặt tên cho các đơn vị mà họ đã tìm ra. Đó là nhà khoa học người Pháp,

Andre- Marie Ampere, nhà khoa học người Ý, Alessandro Volta và nhà
khoa học người Đức, Georg Ohm.

1.1.3. Hoán dụ trong ngôn ngữ học tri nhận
Một trong những nhà ngôn ngữ nghiên cứu sâu về hoán dụ theo
hướng tri nhận trong ngôn ngữ học hiện đại là Lakoff. Lý thuyết về hoán
dụ của Lakoff lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm “Metaphors We live
by” [60]. Lakoff và Johnson đã định nghĩa về hoán dụ như sau:
“ Hoán dụ là việc sử dụng một sự vật qui chiếu đến một sự vật
khác mà chúng có liên quan với nhau”. Họ cũng cố gắng phân biệt hoán
dụ với hiện tượng nhân hóa (personification) vì hiện tượng này thường bị
coi nhầm là hoán dụ. Lý do có sự nhầm lẫn này là do nhân hóa là cái gì
đó hữu sinh hay được hình thành từ một cái gì đó vô sinh hoặc phi chủ
thể. Đây là một khía cạnh thông thường của hiện tượng hoán dụ. Ví dụ:
(4) “The Times has not arrived at the press conference yet.”
(Phóng viên báo Times chưa đến cuộc họp báo)
Ví dụ này được coi là hiện tượng hoán dụ vì theo lập luận ở trên thì
“The Times” được dùng để ám chỉ một sự vật nào đó hoặc cái gì đó chứ
không là nó. Sự ám chỉ đó chính là chủ thể, là con người có liên quan đến
sự vật. Sự khác biệt mà Lakoff và Johnson nhận thấy giữa nhân hóa và

9
hoán dụ chính là nhân hóa không đề cập đến con người. Chúng ta hãy
xem xét một ví dụ khác:
(5) “Inflation robbed me of my savings”
(Lạm phát đã cướp hết tiền tiết kiệm của tôi)
Từ “inflation” được dùng để chỉ thuộc tính của sự vật và chủ thể
không phải là người. Chính từ lý do trên, Lakoff và Johnson đã giữ
nguyên quan điểm coi ” ẩn dụ là phương thức chủ yếu tri nhận một sự vật
mà có liên quan đến sự vật khác và chức năng chính của ẩn dụ là “tri

nhận” (understanding). Trong khi đó, hoán dụ lại có chức năng “qui
chiếu” (reference) vì nó cho phép ta sử dụng một sự vật này thay thế cho
một sự vật khác” [60].
Từ quan điểm trên ta thấy Lakoff và Johnson đã coi chức năng của
hoán dụ chỉ là phép chuyển nghĩa qui chiếu. Nhưng nếu hoán dụ chỉ là
qui chiếu thì nó đã không còn trong phạm vi của quá trình nhận thức vì
nó không giúp ta có thêm tri nhận mới về sự vật. Vì vậy, sau này Lakoff
và Johnson đã thừa nhận rằng hoán dụ không chỉ có chức năng là qui
chiếu mà còn có chức năng trong việc tri nhận thế giới quan của con
người. Để minh họa cho hướng tri nhận của hoán dụ, Lakoff và Johnson
đưa ra ví dụ như sau:
(6) “We need some good heads”
(Chúng ta cần một vài cái đầu tốt)
Trong ví dụ này “đầu” (head) là từ chỉ bộ phận trên cơ thể người
dùng để chỉ người vì vậy đây là mối quan hệ bộ phận- chỉnh thể (đầu- cơ
thể người). Nhưng chúng ta đều biết rằng chức năng của hóan dụ không
chỉ dừng lại ở mức độ qui chiếu mà nó còn mở rộng đến mức độ tri nhận
vì cách dùng từ “đầu” (head) thay cho “người” (people) trong ví dụ này
không phải là ngẫu nhiên. Trên thực tế nó có mục đích là muốn thông báo
rằng:”chúng tôi cần người thông minh” chứ không phải người nào cũng
được. Như vậy ba từ “thông minh”, “đầu” và “người” thay thế cho nhau

10
trong mối quan hệ tương cận và chúng nhân đôi ý nghĩa. “Đầu” (head)
thay cho “thông minh” (intelligence) vì thông minh là một thuộc tính của
bộ não người mà não người lại nằm ở đầu và đầu được coi là bộ phận
quan trọng nhất của con người. Chính vì vậy “đầu” qui chiếu đến
“người”. Để làm rõ thêm lập luận trên, Lakoff và Johnson đưa ra thêm
một số ví dụ như sau:
(7) I have been reading Shakespeare.

(Tôi đang đọc sách của Shakespeare)
(8) Table 10 is waiting for the order.
(Khách ở bàn số 10 đang đợi gọi món)
(9) The hamsanwich wants his check.
(Khách ăn bánh mì kẹp thịt muốn thanh toán)

Hai tác giả khác cũng nghiên cứu sâu về hoán dụ theo hướng
ngôn ngữ học tri nhận là Radden và Kovecses. Ngay từ đầu tác phẩm
“Towards a Theory of Metonymy” [69], Radden và Kovecses đã nói rõ
mục đích của họ là muốn đưa ra một khung khái niệm cụ thể cho hoán dụ
và họ cũng xem xét quan điểm truyền thống về hoán dụ. Họ cho rằng lý
thuyết của họ vượt ra khỏi khái niệm truyền thống về hoán dụ. Radden và
Kovecses chỉ ra bốn nhược điểm cơ bản của quan điểm truyền thống về
hoán dụ. Thứ nhất là coi hoán dụ như là một hiện tượng ngoại biên của
ngôn ngữ. Quan điểm này bị các nhà nghiên cứu theo quan điểm tri nhận
phản đối bởi vì theo ngôn ngữ học tri nhận thì hoán dụ là một khái niệm
cơ bản của tự nhiên. Nhược điểm thứ hai là quan hệ tự nhiên bên trong
hoán dụ. Trong khi hai tác giả này cho rằng tiêu chuẩn của mối quan hệ
tương cận giữa các sự vật là điều không phải tranh cãi thì họ lại đặt câu
hỏi liệu thuật ngữ này đã đủ rõ ràng chưa để nhận diện. Nhược điểm thứ
ba của quan điểm truyền thống về hoán dụ mà Radden và Kovecses đề
cập tới là tiêu chuẩn phân biệt hoán dụ, coi hoán dụ chỉ có chức năng qui

11
chiếu. Họ cho rằng quan điểm này đã dẫn đến giả thuyết sai lầm rằng
hoán dụ chỉ là sự thay thế giữa các sự vật với nhau. Theo lập luận của hai
nhà ngôn ngữ học này thì hoán dụ sẽ xuất hiện “ở cấp độ khái niệm (phân
loại, lý luận ngôn ngữ)” hay “ở các cấp độ khác nhau của ngôn ngữ (từ
vựng học, cú pháp học, ngữ pháp học và diễn ngôn) và như là một sự liên
kết các khái niệm bản thể (khái niệm, công thức và các sự kiện)”. Nhược

điểm cuối cùng của quan điểm truyền thống là cách định nghĩa hoán dụ:
“hoán dụ là một sự thay thế”.
Radden và Kovecses lập luận rằng “hoán dụ không chỉ là sự thay
thế của một sự vật này cho một sự vật khác mà còn kết nối chúng để tạo
nên một nghĩa mới” [69]. Từ việc chỉ ra những nhược điểm trên hai tác
giả này đã đưa ra một định nghĩa về hoán dụ như sau: “Hoán dụ là một
quá trình tri nhận mà trong đó một sự vật, khái niệm được gọi là phương
tiện- cung cấp một cách tiếp cận tinh thần tới một sự vật, khái niệm được
gọi là mục đích trong cùng một mẫu tri nhận ý niệm hóa (idealised
cognitive models)” [69].

Một nhà ngôn ngữ học tri nhận khác cũng rất quan tâm đến hoán
dụ là Fauconnier. Fauconnier [51] với lý thuyết không gian tinh thần
(mental spaces) chú trọng nghiên cứu vào ẩn dụ, hoán dụ và những biện
pháp tu từ khác. Fauconnier đã cho rằng “các biện pháp tu từ trên cần
được coi là trung tâm và có ảnh hưởng sâu rộng hơn những gì mà chúng
vẫn được coi là”. Ông cũng đưa ra các thuật ngữ liên quan đến hoán dụ.
Ông gọi yếu tố a là “nguồn” (trigger), yếu tố b là “ reference” (qui
chiếu) và chức năng ngữ dụng là “liên kết” (connector). Ông đã định
nghĩa không gian tinh thần như sau: “không gian tinh thần tạo ra sự khác
biệt giữa các cấu trúc ngôn ngữ nhưng nó lại được tạo dựng trên bất kỳ
diễn ngôn nào theo sự sắp xếp của các biểu hiện ngôn ngữ” (He then
defines mental space as “constructs distintict from linguistic structures

12
but built up in any discourse according to guidelines provided by the
linguistic expressions). Khái niệm của Fauconnier về không gian tinh
thần là một quá trình tạo nghĩa liên tục và tương đối giống với khái niệm
về hoán dụ. Khả năng nhận diện được xem như là thuộc tính chính của
quá trình hoán dụ.

Trên thực tế, Fauconnier cho rằng khả năng ngữ dụng cũng có thể
nối các yếu tố với nhau từ các không gian khác nhau. Khái niệm hóa của
Fauconnier dẫn tới lý thuyết về hoán dụ và coi hoán dụ như là một quá
trình kết nối chức năng ngữ dụng của diễn ngôn cung cấp hàng loạt sự kết
nối giữa các yếu tố trong cùng không gian và cũng nối các yếu tố ở các
không gian khác nhau. Ví dụ:
(10) Plato is the red book, Homer is the black book.
(Plato là quyển sách màu đỏ, còn Homer là quyển màu đen)
Trong ví dụ này, sự kết nối là giữa các yếu tố trong cùng một
không gian. Sự kết nối ở đây là giữa tác giả và tác phẩm. Hai yếu tố này
cùng ở trong một không gian tinh thần. Một ví dụ khác minh họa cho sự
kết nối giữa các yếu tố ở không gian khác nhau.Ví dụ:
(11) In that movie, Cleopatra is Liz Taylor.
(Trong bộ phim ấy, Cleopatra là Liz Taylor)
Sự kết nối trong ví dụ này là giữa nhân vật và diễn viên. Hai yếu tố
này ở hai không gian tinh thần khác nhau.


13
Trên đây chúng tôi đã điểm lại một số cách tiếp cận về hoán dụ
trong ngôn ngữ học truyền thống, ngôn ngữ học cấu trúc và ngôn ngữ học
tri nhận với các nhà ngôn ngữ học tiêu biểu như: Aristole, Isocrate,
Jakobson, Ullmann, Lakoff, Fauconnier, Radden và Kovecses. Luận văn
xin rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, các nhà ngôn ngữ học trên đã cố gắng phân biệt sự khác
biệt giữa hoán dụ và ẩn dụ cũng như với các phép chuyển nghĩa khác.
Thứ hai, họ sử dụng nhiều lý thuyết, mô hình khác nhau để định
nghĩa và giải thích hoán dụ. Jakobson đã đưa ra khái niệm “tương cận” để
phân biệt hoán dụ và ẩn dụ. Trong khi đó, Ullmann cũng sử dụng khái
niệm “tương cận” để nói về hoán dụ nhưng ông lại xem xét hoán dụ khi

ông nghiên cứu về phép chuyển nghĩa. Còn Lakoff thì đã coi hoán dụ là
một phép chuyển nghĩa qui chiếu. Hay Fauconnier sử dụng lý thuyết
không gian tinh thần để định nghĩa hoán dụ. Tuy nhiên, có thể nói cho
đến nay các nhà ngôn ngữ học vẫn chưa hoàn toàn làm rõ được bản chất
của khái niệm hoán dụ và đưa ra một định nghĩa đầy đủ và chính xác về
hoán dụ.
Trên đây là tình hình nghiên cứu hoán dụ trong tiếng Anh, ở phần
tiếp theo chúng tôi xin điểm qua tình hình nghiên cứu hoán dụ trong tiếng
Việt.

1.2. Tình hình nghiên cứu hoán dụ trong tiếng Việt
Nghĩa của từ được chia thành hai loại: nghĩa từ vựng và nghĩa tu
từ. Nghĩa từ vựng là nghĩa đã được cố định và phổ biến trong toàn dân.
Nghĩa tu từ là nghĩa chưa cố định, mang tính chất cá nhân và tạm thời,
được sử dụng nhằm làm cho sự diễn đạt tăng tính hình ảnh, tính biểu cảm
và thêm sinh động. Hiện tượng đa nghĩa là kết quả của sự chuyển biến ý
nghĩa của từ. Hoán dụ được coi là phương thức chuyển nghĩa nhưng dựa
trên quy luật liên tưởng tương cận. Ở Việt Nam, hoán dụ cũng được

14
nghiên cứu, tuy nhiên số lượng các bài nghiên cứu vẫn chưa nhiều và
thường được các nhà ngôn ngữ học xem xét trên hai phương diện chính là
tu từ ngữ nghĩa và từ vựng còn phương diện nghiên cứu hoán dụ về mặt
tri nhận thì ở Việt nam chưa được nghiên cứu nhiều. Dưới đây, chúng tôi
sẽ điểm lại hai hướng nghiên cứu chủ yếu này về hoán dụ trong tiếng
Việt.

1.2.1. Hoán dụ là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa
Các nhà ngôn ngữ học như Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa, Cù
Đình Tú, Hữu Đạt là những người chủ yếu nghiên cứu hoán dụ tu từ và

coi hoán dụ như một biện pháp tu từ- ngữ nghĩa.
Trong tác phẩm “Phong cách học Tiếng Việt” [9], Đinh Trọng Lạc
và Nguyễn Thái Hòa đã xếp hoán dụ trong nhóm hoán dụ. Vì theo hai tác
giả này thì các biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong nhóm hoán dụ này bao
gồm hoán dụ, cải dung, cải số là phương thức chuyển nghĩa dựa trên cơ
sở liên tưởng kế cận. Hai tác giả này cho rằng, hoán dụ xuất hiện thường
xuyên ở khắp mọi nơi. Chẳng hạn, khi muốn gọi tên một người nào đó
mà ta không biết tên, hoặc muốn tránh, ta có thể nói:
(12) Hỡi cô yếm thắm lòa xòa,
Lại đây đập đất trồng cà với anh.

Trong tác phẩm “Phong cách học Tiếng Việt” [9], Đinh Trọng Lạc
cũng đã phân loại hoán dụ theo hai loại là hoán dụ từ vựng và hoán dụ tu
từ. Hoán dụ từ vựng là hoán dụ trong đó tên gọi của một khách thể
(thường là tên riêng) được chuyển sang chỉ một khác thể khác. Ví dụ:
(13) Anh ấy có một đôi adidas (nghĩa là một đôi giày adidas).
Còn hoán dụ tu từ là hoán dụ hiện thực hóa mối liên hệ mới mẻ, bất
ngờ giữa hai khách thể. Ví dụ:

15
(14) Hai chữ sáng lòng của Tiếng Việt ta rất hay, trong lòng có sáng thì
mắt mới sáng. Mắt sáng nhờ lòng sáng, lòng càng sáng, mắt càng sáng thì
càng nhìn rõ cái mới.
(Phạm Văn Đồng)
Mắt sáng có nghĩa là nhận thức mới thêm, đứng đắn hơn. Lòng sáng
có nghĩa là tình cảm tốt đẹp, cao quý. Cái mới, cái bất ngờ, cái sâu sắc
trong cách diễn đạt còn ở chỗ tác giả vạch ra mối quan hệ biện chứng
giữa con mắt và tấm lòng. Lòng có sáng thì mắt mới sáng có nghĩa là tình
cảm tốt đẹp cao quý thì nhận thức xã hội mới có thể đúng đắn, minh
bạch.

Hữu Đạt cũng xếp hoán dụ trong nhóm các biện pháp tu từ ngữ
nghĩa. Theo ông, hoán dụ là biện pháp được sử dụng thường xuyên và
phổ biến nhất. Đây là biện pháp phổ dụng ở tất cả mọi phong cách chức
năng, đặc biệt là ở các phong cách khẩu ngữ, phong cách báo chí và
phong cách nghệ thuật. Ngoài ra tác giả cũng chý ý đến việc phân biệt
hoán dụ với các kiểu lời nói có hình ảnh được diễn tả bằng cách mở rộng
định ngữ. Chẳng hạn, cùng là cách nói về đặc điểm sự vật nhưng bản chất
lại khác nhau. Ví dụ:
(15) Thằng mũi lõ đã làm hại dân mình
(16) Anh tóc quăn đứng dậy
Ở ví dụ (15) “thằng mũi lõ” là hoán dụ vì được hiểu là bọn Tây (giặc
Pháp). Còn ở ví dụ (16) “anh tóc quăn” không phải là hoán dụ mà chỉ là
một cách nói hình ảnh, cách hiểu hoán dụ phải có sự trừu tượng hóa. Với
lý do như trên, tác giả cũng đưa ra một số trường hợp không phải là hoán
dụ như: anh bộ đội, bà bộ trưởng, cô thắt giải lưng xanh, cầu ái ân…. và
để hiểu phương thức hoán dụ thì cần chú ý đến các mối quan hệ liên quan
đến sự chuyển nghĩa.

16
Tóm lại, hoán dụ tu từ trong tiếng Việt được một số nhà ngôn ngữ coi
là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa và được phân biệt với ẩn dụ, cải dung,
cải số…

1.2.2. Hoán dụ là một phương thức chuyển nghĩa từ vựng.
Bên cạnh hoán dụ tu từ, các nhà Việt ngữ học cũng quan tâm
nghiên cứu các hoán dụ từ vựng. Theo Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu,
Hoàng Trọng Phiến: “ Hoán dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa
trên mối liên hệ logic giữa các đối tượng được gọi tên” [20].
Định nghĩa này có thể được thuyết minh lại như sau: Giả sử ta có
từ T là tên gọi của đối tượng Đ1 và từ này có nghĩa S1. Khi cần gọi tên

cho một đối tượng Đ2 mà giữa Đ2 và Đ1 có mối liên hệ logic nào đó
(như liên hệ giữa bộ phận với toàn thể, giữa nguyên liệu với sản phẩm tạo
thành chẳng hạn) thì người ta có thể dùng T để gọi tên luôn cho cả Đ2.
Lúc này từ T được xây dựng thêm, được cấp thêm một nghĩa S2. Người
ta bảo như thế là đã có một phép chuyển nghĩa hoán dụ. Ví dụ:
(17) Vụng vá vai tài vá nách.
Trong ví dụ này ta thấy rằng vai và nách là hai từ thay thế cho vai
áo và nách áo. Trong trường hợp lấy bộ phận thân thể để gọi tên bộ phận
trang phục tương ứng.
Như vậy hoán dụ cũng là đối tượng nghiên cứu của từ vựng học.
Hoán dụ từ vựng là nguồn tạo nên vốn từ vựng mới nhưng chỉ là tên gọi
chứ không phải là loại hoán dụ tạo ra sắc thái ý nghĩa mới, nó không tác
động vào trực giác để gợi mở mà tác động vào cách nhìn để chỉ suất.
Theo góc độ này, trong tiếng Việt, hoán dụ mới chỉ được nghiên cứu,
khảo sát ở đơn vị từ vựng.
2. HOÁN DỤ VÀ CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN HOÁN
DỤ

17
Khái niệm hoán dụ
2.1.1. Các định nghĩa về hoán dụ trong tiếng Anh
Thuật ngữ đầu tiên dùng cho hoán dụ được Herodotus và
Thucydidies sử dụng và sau này Plato cũng sử dụng là μεтоν

εν - từ này
có nghĩa là dùng để gọi tên mới, đổi tên của một sự vật và theo thể bị
dộng là được nhận một tên mới. Nhưng không ngữ cảnh nào của từ cho
thấy nghĩa của thuật ngữ μεтоν

εν mà sau này được gắn tên là hoán dụ-

một loại đặc biệt của ẩn dụ. Các nhà triết học cổ đại mới chỉ nhận diện
được ẩn dụ chứ chưa đưa ra được khái niệm hoán dụ hoặc là họ coi hoán
dụ là một loại ẩn dụ.
Một định nghĩa đầu tiên về hoán dụ được Auctor đưa ra là: “Hoán
dụ là hiện tượng một từ được tạo ra từ sự gần gũi với một sự vật nào đó
hoặc liên quan đến một cụm từ mà có nghĩa liên quan đến nhưng không
được gọi đúng tên của nó”. (The figure which draw from an object closely
a kin or associated an expression suggesting the object meant, but not
called by its own name).[42].
Trong định nghĩa về hoán dụ của Actor cần chú ý đến một số điểm
sau: Thứ nhất là trong định nghĩa nhắc đến khái niệm “drawing” (tạo ra)
theo quá trình nhận thức và khái niệm này giống như khái niệm
“abstracting” (trừu tượng hóa). Thứ hai là hai khái niệm “closeness” (sự
gần gũi), hay “association” (sự liên hợp) tương tự với khái niệm
“neighbouring” (láng giềng). Đây chính là một đặc trưng cơ bản của hoán
dụ và trên thực tế nó giúp hoán dụ được phân biệt với biện pháp tu từ
khác.
Đến thời kỳ ngôn ngữ học cấu trúc, khái niệm được sử dụng nhiều
để phân biệt hoán dụ với những biện pháp tu từ khác là “contiguity” (sự
tương cận). Khái niệm này được Jakobson đề cập trong tác phẩm “ Two
Aspects of Language and Two Types of Aphasic Disturbances”. Ông coi
khái niệm này như là tiêu chí phân biệt giữa hoán dụ và ẩn dụ. Khái niệm

18
này cũng được nhóm nhà nghiên cứu Groupe mu sử dụng khi nghiên cứu
về hoán dụ. Nhóm nghiên cứu này cho rằng tiêu chuẩn “tương cận” có
thể chưa đầy đủ và vì thế nó không thể “là một điểm khởi đầu cho một lý
thuyết đầy đủ về hoán dụ” [58]. Tuy nhiên nó vẫn là một tiêu chuẩn hữu
ích để phân biệt chính hoán dụ và những cái khác.
Trong các nghiên cứu của mình, nhóm Groupe mu cũng cố gắng

đưa ra một định nghĩa về hoán dụ và các tiêu chuẩn để phân biệt hoán dụ
với ẩn dụ, với cải dung. Nhóm Groupe mu cũng đưa ra một khái niệm
khác để phân biệt hoán dụ là “connotation” (nghĩa bóng). Theo đó, coi ẩn
dụ là nghĩa đen và hoán dụ là nghĩa bóng. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu
này cũng không đưa ra được một định nghĩa đầy đủ về hoán dụ.
Hoán dụ không những được xem xét và nghiên cứu dưới góc độ
ngôn ngữ mà nó cũng được xem xét và nghiên cứu dưới góc độ tri nhận.
Trong ngôn ngữ học tri nhận thì hoán dụ được coi là một thuộc tính của
tri nhận. Hoán dụ là cái gì đó mà chúng ta dễ hiểu và tiếp nhận và sử
dụng chúng để thay thế cho một sự vật khác.
Trong các lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận có một định nghĩa về
hoán dụ được coi là một định nghĩa chuẩn, do Radden và Kovecses đề
xuất. Họ định nghĩa hoán dụ như sau: “ Hoán dụ là một quá trình tri nhận
mà trong đó một sự thể khái niệm (vehicle) cung cấp một sự tiếp cận tinh
thần tới một sự thể khái niệm khác (target) trong cùng một mẫu tri nhận ý
niệm” [69]. Như vậy, trong định nghĩa này xuất hiện một số khái niệm
như: phương tiện (vehicle), đích (target) và mô hình tri nhận ý niệm
(idealized cognitive models- ICM). Mô hình tri nhận ý niệm (ICM) được
Lakoff đề xuất và được các nhà ngôn ngữ tri nhận ủng hộ.
Bên cạnh đó cũng có một số cách định nghĩa và giải thích về hoán
dụ như sau trong một số từ điển. Theo American Heritage Dictionary
online thì: “Hoán dụ là một hình thái tu từ mà trong đó một từ hay một
ngữ được thay thế cho một từ hay một ngữ khá có liên quan với chúng”.

19
Hay theo định nghĩa của Encrata Dictionary online thì từ hoán dụ trong
tiếng Anh là “metonymy” được cấu tạo từ hai từ là meta và onoma. Từ
meta nghĩa là thay đổi còn onoma nghĩa là tên. Vì vậy, hoán dụ nghĩa là:
“một hình thái tu từ mà trong đó một thuộc tính của sự vật thay thế cho sự
vật ấy”. Một khái niệm khác cũng được sử dụng khá phổ biến đó là

“conventional metonymy” (hoán dụ qui ước). Hoán dụ qui ước được định
nghĩa như sau: “ Hoán dụ được sử dụng rộng rãi phổ biến hàng ngày có ý
nghĩa đặc trưng văn hóa”.Ví dụ:
(18) “We need some new faces around here”
(Chúng ta cần một vài khuôn mặt mới ở đây)

2.1.2. Các định nghĩa về hoán dụ trong Việt ngữ học
Trong Việt ngữ học, các nhà ngôn ngữ học cũng đưa ra một số
định nghĩa về hoán dụ như sau:
Trong tác phẩm “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”,
Đinh Trọng Lạc định nghĩa hoán dụ như sau: “Hoán dụ dưới góc độ là
một biện pháp tu từ ngữ nghĩa thì “hoán dụ là định danh dựa trên mối
quan hệ hiện thực giữa khách thể có tên gọi được chuyển sang dùng cho
khách thể được định danh” [9].
Theo Đỗ Hữu Châu thì: “Phương thức hoán dụ là phương thức lấy
tên gọi A của x để gọi tên y của x và y đi đôi với nhau trong thực tế
khách quan (A là hình thức ngữ âm, x và y là những ý nghĩa biểu vật, A
vốn là tên gọi của x tức là x là ý nghĩa biểu vật chính của A) [7].
Còn Nguyễn Thái Hòa và Đinh Trọng Lạc định nghĩa: “Hoán dụ là
phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một đặc điểm hay một nét tiêu
biểu nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối tượng đó. Hoán dụ là
phương thức sáng tạo nghệ thuật” [9].

20
Theo Hữu Đạt thì: “Hoán dụ là cách tạo tên gọi mới cho đối tượng
dựa trên mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể nhằm diễn tả sinh động
nội dung thông báo mà người nói muốn đề cập” [15].
Một định nghĩa khác về hoán dụ trong www.ctu.edu.vn : “ Hoán
dụ là phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một đặc điểm hay một
nét tiêu biểu nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối tượng đó dựa

vào mối quan hệ liên tưởng logic khách quan giữa hai đối tượng”. Từ
điển wikipedia online thì nhận định rằng: “Biện pháp dùng để tên gọi của
sự vật này để chỉ sự vật khác như lấy tên gọi của cái toàn thể để chỉ cái bộ
phận, lấy tên gọi của cái chứa đựng để gọi cái được chứa đựng và ngược
lại”.
Thông qua các quan niệm về hoán dụ trong tiếng Anh và tiếng Việt
có thể thấy rằng hoán dụ là một hiện tượng khá thú vị trong ngôn ngữ và
nó được sử dụng phổ biến trong khẩu ngữ. Hoán dụ có thể được nghiên
cứu theo các hướng tu từ, từ vựng và tri nhận. Tùy theo từng cách tiếp
cận các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra các định nghĩa khác nhau cũng như
các cách phân loại và giải thích về hoán dụ.
Sau khi điểm qua các hướng nghiên cứu hoán dụ trong tiếng Anh
cũng như trong tiếng Việt. Chúng tôi nhận thấy rằng để có được một cách
nhìn đầy đủ về hoán dụ thì nên xem xét hoán dụ từ nhiều hướng khác
nhau. Các nhà nghiên cứu về hoán dụ đi trước luôn nghiên cứu hoán theo
từng góc độ riêng biệt chứ chưa kết hợp các cách tiếp cận khác nhau để
nghiên cứu hoán dụ. Chính từ lý do trên, chúng tôi khảo sát hoán dụ trên
phương diện là hoán dụ từ vựng và hoán dụ tri nhận trong tiếng Anh.
Luận văn miêu tả các hiện tượng hoán dụ từ vựng trong một số từ điển và
hoán dụ tri nhận trong một số văn bản viết và khẩu ngữ hàng ngày trong
tiếng Anh. Chúng tôi xem xét hoán dụ theo cách: “Hoán dụ là một
phương thức định danh thứ hai cho một sự vật dựa trên mối quan hệ
tương cận”.

21

2.2. Phân biệt hoán dụ với ẩn dụ và cải dung
2.2.1. Hoán dụ và ẩn dụ
Ferdinand de Saussure [71] và Roman Jakobson [58] đã nhận định
rằng phép ẩn dụ (metaphor) và phép hoán dụ (metonymy) dẫn tới cơ cấu

song hành thích ứng để kết tạo thể thức thi ca. Trên trục ẩn dụ, một tín
hiệu được dùng để thay thế cho một tín hiệu khác, căn cứ vào sự lựa chọn
(selection) tương tự giữa hai tín hiệu. Những từ ngữ như "lửa tình",
"trồng cây si", "bị bỏ bùa", "yêu như điên" v.v… đều là những tín hiệu
tương tự, có thể được lựa chọn, thay thế nhau để biểu thị xúc cảm mạnh
mẽ của tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Còn trên trục hoán dụ, một tín hiệu
được tiếp nối với tín hiệu khác để khuếch xung ý nghĩa trong thể kết hợp
(combination): ý nghĩa "tình yêu" được biểu hiệu toàn bộ bằng sự kết hợp
của "thư tình", "lời của hoa", "hẹn hò", "ghen tuông", "nhớ nhung",
"nhẫn cưới", "tơ hồng" v.v. Những tín hiệu trên được hoán dụ để bổ sung
ý nghĩa toàn diện của tình cảm đó. Như vậy, cơ cấu ẩn dụ và hoán dụ có
tác dụng thắt dệt những mối liên hệ mật thiết để tạo thêm chất liệu và
chiều sâu cho thi ca.
Giữa ẩn dụ và hoán dụ có những tính chất giống nhau là: (1) rút
gọn lời nói và tạo hình, (2) vay mượn ngôn ngữ để làm giàu ngôn ngữ,
(3) mang vào ngôn ngữ những yếu tố lạ, tạo bất ngờ, do đó gây cảm xúc,
(4) cùng dựa trên quy luật liên tưởng. Tuy nhiên chúng cũng có những
khác biệt sâu xa như sau: thứ nhất là cơ sở liên tưởng khác nhau. Ẩn dụ
dựa vào sự liên tưởng tương đồng: sự vật chuyển đổi tên gọi và sự vật
được chuyển đổi tên gọi thường khác phạm trù hoàn toàn. Do đó, ta có
thể nói ẩn dụ mang nhiều sắc thái chủ quan hơn.
Hoán dụ dựa vào sự liên tưởng tiếp cận: mối quan hệ giữa sự vật
chuyển đổi tên gọi và sự vật được chuyển đổi tên gọi là có thật, chứ

×