Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Khảo sát các phát ngôn hỏi đáp từ góc độ giới tính trên cứ liệu một số tác phẩm văn học trước Cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 129 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ HIỀN


KHẢO SÁT CÁC PHÁT NGÔN HỎI ĐÁP TỪ GÓC ĐỘ GIỚI
TÍNH TRÊN CỨ LIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC
TRƢỚC CÁCH MẠNG


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học


Hà Nội-2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ HIỀN


KHẢO SÁT CÁC PHÁT NGÔN HỎI ĐÁP TỪ GÓC ĐỘ GIỚI
TÍNH TRÊN CỨ LIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC
TRƢỚC CÁCH MẠNG



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 602201

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS.Nguyễn Văn Khang


Hà Nội-2013


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành tới GS.TS. Nguyễn Văn Khang,
ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn và hết lòng giúp đỡ tác giả thực hiện luận văn này.
Cũng nhân đây, tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và các đồng
nghiệp tại Công ty Cổ phần Ứng dụng Công nghệ Truyền thông CTC đã tạo điều kiện
giúp đỡ để tác giả hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tác giả luận văn muốn gửi lời cảm ơn tới toàn thể Gia đình đã ủng
hộ, động viên và giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Hà Nội, ngày 30 tháng 9 năm 2013
Ngƣời thực hiện




Nguyễn Thị Hiền


1

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Mục đích nghiên cứu 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7
6. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
7. Kết cấu của luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG 9
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 9
1.1. Hội thoại và phát ngôn ngôn ngữ 9
1.1.1.Hội thoại 9
1.1.2. Phát ngôn ngôn ngữ 9
1.2. Vấn đề hỏi – đáp 12
1.2.1. Khái quát về câu hỏi 12
1.2.1.2. Đặc điểm về hình thức của câu hỏi 13
1.2.1.3. Đặc điểm về nội dung của câu hỏi 13
1.2.1.4. Phân chia câu hỏi và phương thức biểu hiện hành vi hỏi 14
1.2.2. Khái quát về câu trả lời 16
1.2.2.1. Trả lời trực tiếp 17
1.2.2.2. Trả lời gián tiếp 17
1.3. Chiến lược giao tiếp 18
1.4. Một số vấn đề về giới và giới trong ngôn ngữ 18
1.4.1. Khái niệm về giới 18
1.4.2. Giới trong ngôn ngữ 19
Chƣơng 2: CHỦ ĐỀ VÀ CÁCH XƢNG HÔ TRONG CÁC PHÁT NGÔN HỎI – ĐÁP
ĐỐI VỚI CẶP GIAO TIẾP VỢ CHỒNG QUA MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN TRƢỚC
CÁCH MẠNG 21
2.1. Chủ đề của các phát ngôn hỏi – đáp 21


2

2.1.1. Vợ chồng lao động bình dân 21
2.1.2. Chồng là trí thức, vợ là lao động bình dân 23
2.1.3. Vợ chồng thành thị 24
2.1.4. Vợ chồng quan lại 25
2.2. Xƣng hô trong các phát ngôn hỏi – đáp 26
2.2.1. Vợ chồng lao động bình dân 26
2.2.1.1. Xưng hô trống không 27
2.2.1.2. Xưng hô Mày – tao/ông 27
2.2.1.3. Xưng hô thân mật 30
2.2.2. Chồng là trí thức, vợ là lao động bình dân 31
2.2.2.1. Xưng hô trống không 32
2.2.2.2. Xưng hô mình – em/tôi, người ta 32
2.2.3. Vợ chồng thành thị 33
2.2.3.1. Xưng hô trống không 34
2.2.3.2. Xưng hô cậu/mợ - tôi 34
2.2.3.3. Xưng hô anh - em 35
2.2.4. Vợ chồng quan lại 35
2.2.4.1. Xưng hô trống không 36
2.2.4.2. Xưng hô cậu/mợ - tôi 36
2.2.4.3. Xưng hô ông/bà – tôi 37
2.2.4.4. Xưng hô mày – tao/ông 37
Tiểu kết chƣơng 2 38
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA CÁC PHÁT NGÔN HỎI – ĐÁP ĐỐI VỚI
CẶP GIAO TIẾP VỢ CHỒNG QUA MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN TRƢỚC CÁCH
MẠNG 40
3.1. Phát ngôn hỏi 40
3.1.1. Vợ chồng lao động bình dân 40
3.1.1.1. Câu hỏi đích thực 40

3.1.1.2. Câu hỏi không đích thực 41
3.1.2. Chồng là trí thức, vợ là lao động bình dân 43

3

3.1.2.1. Câu hỏi đích thực 44
3.1.2.2. Câu hỏi không đích thực 46
3.1.3. Vợ chồng thành thị 48
3.1.3.1. Câu hỏi đích thực 48
3.1.3.2. Câu hỏi không đích thực 49
3.1.4. Vợ chồng quan lại 50
3.1.4.1. Câu hỏi đích thực 51
3.1.4.2. Câu hỏi không đích thực 52
3.2. Phát ngôn đáp 55
3.2.1. Vợ chồng lao động bình dân 56
3.2.1.1. Trả lời trực tiếp 56
3.2.1.2. Trả lời gián tiếp 57
3.2.2. Chồng là trí thức, vợ là lao động bình dân 59
3.2.2.1. Trả lời trực tiếp 59
3.2.2.2. Trả lời gián tiếp 60
3.2.3. Vợ chồng thành thị 61
3.2.3.1. Trả lời trực tiếp 61
3.2.3.2. Trả lời gián tiếp 62
3.2.4. Vợ chồng quan lại 63
3.2.4.1. Trả lời trực tiếp 64
3.2.4.2. Trả lời gián tiếp 64
Tiểu kết chƣơng 3 66
PHẦN KẾT LUẬN 66







4

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hỏi – đáp là nhân tố không thể thiếu trong giao tiếp cho dù đó là các cuộc trò
chuyện trực tiếp hàng ngày hay là các kết quả đƣợc thể hiện trên văn bản. Trong những
năm gần đây, vấn đề này đƣợc quan tâm chú ý và đƣợc nghiên cứu trên nhiều bình
diện, trong đó có đóng góp của các nhà ngôn ngữ học xã hội. Dù vậy vẫn còn nhiều câu
hỏi và nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ xung quanh chủ điểm nghiên cứu này.
Thông thƣờng các phát ngôn hỏi – đáp nói chung đƣợc đề cập chủ yếu trong
giao tiếp hàng ngày, dƣới hình thức các cuộc thoại với những bối cảnh giao tiếp khác
nhau mà ít thấy xuất hiện trong các tác phẩm văn học.
Bên cạnh hỏi – đáp, vấn đề giới cũng là một trong những nội dung quan trọng
và không thể thiếu của Ngôn ngữ học xã hội. Tuy nhiên vấn đề giới trong ngôn ngữ ở
Việt Nam có lẽ vẫn cần sự đóng góp của nhiều công trình nghiên cứu hơn nữa. Bài Sự
bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Văn Khang [1998] có thể
đƣợc coi là nghiên cứu đầu tiên trực tiếp bàn tới mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới
tính. Từ đó đến nay cũng xuất hiện thêm một số luận án, luận văn và bài viết có giá trị
liên quan tới vấn đề này nhƣng nhìn chung ngôn ngữ và giới tính vẫn còn là một vấn đề
mở, cần sự đóng góp của nhiều nhà nghiên cứu. Đặc biệt, cho đến nay vẫn chƣa có
nghiên cứu giá trị nào về ngôn ngữ giới tính trên cứ liệu là các cặp hỏi – đáp.
Xuất phát từ tính cấp thiết của việc nghiên cứu các phát ngôn hỏi đáp từ góc độ
giới tính nói chung và mong muốn đƣợc nghiên cứu vấn đề này từ các tác phẩm văn
học nói riêng, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu này.
Với tham vọng khảo sát các phát ngôn hỏi đáp trên nhiều cặp giao tiếp, xét từ
góc độ giới tính, trong các tác phẩm văn học trƣớc Cách mạng để có đƣợc bức tranh

tổng quan về việc sử dụng ngôn ngữ trong các phát ngôn hỏi - đáp từ góc độ giới tính
ở giai đoạn này, chúng tôi đã lựa chọn tên đề tài là: Khảo sát các phát ngôn hỏi – đáp
từ góc độ giới tính trên cứ liệu một số tác phẩm văn học trước Cách mạng. Tuy nhiên,

5

trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy các phát ngôn hỏi – đáp của nam và nữ
xuất hiện dàn trải và không tiêu biểu nếu xét chung ở các cặp giao tiếp khác nhau (ví
dụ: trong giao tiếp gia đình: bố mẹ với con cái – bố với con trai, bố với con gái, con cái
với nhau – con trai với con gái, vợ chồng với nhau , trong giao tiếp xã hội: bề trên với
dân thƣờng – quan ông với dân thƣờng là nam, quan ông với dân thƣờng là nữ, quan
ông với đầy tớ nam, quan ông với đầy tớ nữ ). Trong khi đó việc sử dụng các phát
ngôn hỏi – đáp của cặp giao tiếp vợ - chồng khá nổi trội dƣới các tầng lớp xã hội khác
nhau. Chính vì thế, chúng tôi quyết định đi sâu khảo sát các phát ngôn hỏi – đáp với
cặp giao tiếp này. Chúng tôi cũng giới hạn phạm vi khảo sát hiện tƣợng ngôn ngữ này
trong một số truyện ngắn giai đoạn trƣớc Cách mạng để có cái nhìn khách quan hơn
với cùng một thể loại tác phẩm văn học.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề hỏi – đáp và vấn đề giới tính là đề tài của nhiều công trình nghiên cứu từ
trƣớc tới nay đặc biệt là các công trình nghiên cứu về hành vi hỏi và về vấn đề giới
tính.
Trong nền ngôn ngữ học Việt Nam, nghiên cứu về câu hỏi cần phải kể đến các
tác giả nhƣ: Cao Xuân Hạo, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Hoàng Lê, Lê Đông, Hồ
Lê, Hoàng Trọng Phê, Trần Thị Thìn, Nguyễn Thị Quy, Nguyễn Đăng Sửu Tác giả Lê
Đông trong công trình nghiên cứu “Ngữ nghĩa, ngữ dụng của câu hỏi chính danh”
[1996] đã chỉ rõ mối quan hệ giữa ngữ cảnh và câu hỏi, tiền đề và câu hỏi, tác giả đã
phân tích cụ thể một số kiểu loại câu hỏi đặt trong ngữ cảnh thực. Năm 1991, trong
công trình “Sơ thảo ngữ pháp chức năng” tác giả Cao Xuân Hạo đã phân tích hiệu lực
ngôn trung của câu nghi vấn, từ đó thấy câu nghi vấn không chỉ đƣợc dùng để thể hiện
hành vi hỏi.

Vấn đề trả lời dƣờng nhƣ dành đƣợc sự quan tâm ít hơn của các nhà nghiên cứu.
Cần phải kể đến một số tác giả nhƣ: Lê Đông trên tạp chí ngôn ngữ số 1 năm 1985 có
bài viết: “Câu trả lời và câu đáp của câu hỏi”; tác giả Lê Anh Xuân với một số bài

6

đăng trên Tạp chí ngôn ngữ nhƣ “Các dạng trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh”
[TCNN số 4, 2000], “Trả lời dưới dạng câu nghi vấn gián tiếp thực hiện hành vi phủ
định” [TCNN số 11, 2000], “Một cách trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh: trả lời
bằng sự im lặng” [TCNN số 5, 2006] và bài viết trên Ngôn ngữ và đời sống: “Câu trả
lời gián tiếp: chối cãi và thanh minh [Ngôn ngữ và đời sống số 6, 1999]
Về vấn đề giới tính trong ngôn ngữ cũng là tâm điểm chú ý của các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Trong đó phải kể đến một số tác giả nhƣ: E.d.Sapir,
O.Jersper, Allport, Shen Haibing, R.Lakoff, Coates, Jennife, Crawford, Mary, Eckert,
Penelope, Goddard, Angela, Gray, J, Herbert, Robert K, Holmes, Janet Ở Việt Nam,
nghiên cứu vấn đề này có các tác giả nhƣ: Mai Huy Bích, Vũ Thị Thanh Hƣơng,
Nguyễn Thanh Bình, Bùi Thị Minh Yến, Vũ Tiến Dũng, Trần Xuân Điệp, Nguyễn Thị
Mai Hoa, Đỗ Thu Lan, Đỗ Kim Liên, Lê Hồng Linh, Nguyễn Lê Lƣơng, Bùi Ngọc
Oanh, Trần Thị Quế, Lê Thị Quý, Nguyễn Thị Việt Thanh, Nguyễn Đức Thắng, Trần
Thanh Vân, Lƣơng Văn Hy Đặc biệt tác giả Nguyễn Văn Khang trong công trình
nghiên cứu “Ngôn ngữ học xã hội những vấn đề cơ bản” [2003].
Tuy nhiên, xét riêng về vấn đề hỏi – đáp từ góc độ giới tính thì vẫn chƣa xuất
hiện nhiều trong các công trình nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn nhằm mục đích tìm hiểu, phân tích việc sử dụng
ngôn ngữ trong các phát ngôn hỏi – đáp trong giao tiếp của các cặp vợ chồng, xuất hiện
trong các truyện ngắn trƣớc Cách mạng. Qua đó để thấy đƣợc, các cặp vợ chồng ở các
tầng lớp xã hội khác nhau, họ sử dụng ngôn ngữ nhƣ thế nào qua các cặp hỏi – đáp
đƣợc thể hiện trên tác phẩm văn học. Từ đó, luận văn muốn đóng góp một phần nhỏ
vào việc nghiên cứu ngôn ngữ giới tính nói riêng và ngôn ngữ học xã hội nói chung.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm giải quyết ba nhiệm vụ cơ bản sau:

7

Thứ nhất là tổng hợp và khái quát một số vấn đề về lý thuyết liên quan đến đề
tài nghiên cứu: vấn đề hội thoại, phát ngôn ngôn ngữ, vấn đề hỏi đáp, vấn đề giới trong
ngôn ngữ.
Thứ hai là khảo sát và phân tích chủ đề giao tiếp và xƣng hô trong giao tiếp của
các cặp vợ chồng qua các phát ngôn hỏi - đáp trên một số truyện ngắn trƣớc Cách
mạng. Từ đó thấy đƣợc các chủ đề chi phối cách giao tiếp của các cặp vợ chồng, cách
thức xƣng hô giữa vợ và chồng, giữa các cặp vợ chồng thuộc các tầng lớp xã hội khác
nhau.
Thứ ba là khảo sát và phân tích về đặc điểm ngôn ngữ biểu hiện cụ thể trong các
phát ngôn hỏi và phát ngôn đáp trong giao tiếp của vợ, của chồng, của các cặp vợ
chồng ở các tầng lớp khác nhau, qua một số truyện ngắn trƣớc Cách mạng.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng mà chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu là các phát ngôn hỏi – đáp với
cặp giao tiếp vợ - chồng trong tất cả các truyện ngắn của 4 tác giả: Nam cao, Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam. Khi đó chúng tôi tìm đƣợc và khảo sát hiện
tƣợng ngôn ngữ trên qua 28 truyện ngắn với 184 cặp hỏi đáp, cụ thể:
Nam Cao - 16 truyện ngắn, đƣợc trích từ “Tuyển tập Nam Cao”, Nxb Văn học
(2005)
Nguyễn Công Hoan – 6 truyện ngắn, đƣợc trích từ “Nguyễn Công Hoan Truyện
ngắn chọn lọc”, Nxb Văn học (2004)
Vũ Trọng Phụng - 1 truyện ngắn, đƣợc trích từ “Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập
II”, Nxb Văn học (2011)
Thạch Lam - 5 truyện ngắn, đƣợc trích từ “Thạch Lam tuyển tập”, Nxb Văn học
(2008)
Sở dĩ chúng tôi chỉ chọn khảo sát trong phạm vi các truyện ngắn, không bao

gồm truyện dài và tiểu thuyết để có cái nhìn khách quan hơn trong cùng một thể loại
tác phẩm văn học. Lí do chúng tôi lựa chọn các tác giả trên bởi Nam Cao, Nguyễn

8

Công Hoan, Vũ Trọng Phụng là những tác giả tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực
trƣớc Cách mạng. Đặc biệt, các tác giả này luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho những
ngƣời nông dân nghèo khổ, các trí thức khốn cùng và cả những tầng lớp quan lại, bề
trên của dân chúng. Riêng với tác giả Thạch Lam, cũng là một trong những cây bút
trƣớc Cách mạng, có khuynh hƣớng đi gần với cuộc sống của những ngƣời bình dân,
nghèo khổ. Tuy nhiên, ngòi bút của Thạch Lam không gay gắt nhƣ những Nam Cao,
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng mà nó giản dị, nhẹ nhàng, giàu chất thơ. Chính
vì thế, ta có thể bắt gặp hình ảnh những cặp vợ chồng trong các tác phẩm của ông có
thể là vợ chồng lao động bình dân hay vợ chồng thành thị nhƣng họ sống rất đỗi tình
cảm và thanh lịch.
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi chỉ giới hạn khảo sát ở các cặp thoại hỏi –
đáp gồm hai lƣợt lời (song thoại).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu phƣơng pháp phân tích miêu
tả cùng với thủ pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Cấu trúc
của luận văn gồm 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết
- Chƣơng 2: Chủ đề và cách xƣng hô trong các phát ngôn hỏi – đáp đối với cặp
giao tiếp vợ chồng qua một số truyện ngắn trƣớc Cách mạng.
- Chƣơng 3: Đặc điểm ngôn ngữ của các phát ngôn hỏi – đáp đối với cặp giao
tiếp vợ chồng qua một số truyện ngắn trƣớc Cách mạng.

9


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Hội thoại và phát ngôn ngôn ngữ
1.1.1.Hội thoại
Nhƣ chúng ta biết, giao tiếp bằng ngôn ngữ có nhiều hình thức: Giao tiếp một
chiều (độc thoại), giao tiếp hai chiều hoặc nhiều hơn. Giao tiếp hai chiều là hoạt động
cơ bản nhất, phổ biến nhất của con ngƣời. “Hội thoại là một trong những hoạt động
ngôn ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất
định mà giữa họ có sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức
nhằm đi đến một mục đích nhất định.” [23, tr. 18]
Hội thoại là một hoạt động xã hội. Trong cuộc thoại khi hoạt động phản hồi nảy
sinh, vai trò của hai ngƣời tham gia cuộc thoại đã thay đổi. Bên nghe trở thành bên nói
và bên nói trở thành bên nghe. Hội thoại là một sự nỗ lực hợp tác giữa các bên tham
gia, có thể có ba bên hoặc nhiều hơn thế. Tuy nhiên hội thoại gồm hai bên là quan
trọng nhất. Trong khuôn khổ luận văn của mình, chúng tôi cũng chỉ đề cập đến hội
thoại hai bên.
Có rất nhiều yếu tố liên quan đến hội thoại. Theo Đỗ Hữu Châu, các cuộc thoại
có thể khác nhau ở nhiều khía cạnh nhƣ: thời gian, không gian, nơi chốn, số lƣợng
ngƣời tham gia, về cƣơng vị với tƣ cách ngƣời tham gia cuộc thoại, về tính chất cuộc
thoại, về vị thế giao tiếp, về tính có đích hay không có đích, tính hình thức hay không
hình thức, về ngữ điệu hay động tác kèm lời…Những yếu tố này không tách rời nhau
mà liên kết nhau, tạo thành một khối lƣợng thống nhất hữu quan trong hội thoại, chi
phối và điều hòa cuộc thoại để đạt đến đích cuối cùng của mỗi bên giao tiếp theo
những quy tắc nhất định. [4, tr. 72]
1.1.2. Hành động ngôn ngữ
Cũng nhƣ mọi hệ thống xã hội khác, hệ thống ngôn ngữ đƣợc sinh ra để thực
hiện chức năng hƣớng ngoại – chức năng làm công cụ giao tiếp. Khi ngôn ngữ đƣợc sử

10


dụng để giao tiếp thì ngƣời ta nói ngôn ngữ đang hành chức, hay ngôn ngữ hành chức
khi con ngƣời nói năng bằng một ngôn ngữ nhất định. Vậy nói năng là một dạng hành
động đặc biệt của con ngƣời – hành động bằng ngôn ngữ [22, tr.68].
Hành động ngôn ngữ đƣợc hiểu: Trong hội thoại “vai nói có thể dùng ngôn ngữ
để miêu tả một hiện tƣợng: a) Bầu trời hôm nay rất đẹp; để thuật lại một sự việc: b)
Hôm nay tôi gặp một người lạ mặt, người đó cứ nhìn tôi với vẻ gì đó mà tôi rất khó tả;
để khẳng định: c) Điều đó đúng; để bày tỏ một sự nghi vấn: d) Bạn đang làm gì?; để
đƣa ra một yêu cầu: đ) Anh hãy ra ngoài một lát; để khuyên nhủ: e) Anh nên bỏ thuốc;
để đe dọa: g) Mày thì liệu hồn; để khen ngợi: h) Em ngoan quá! [22, tr.69]. Ta gọi các
hành động trong các ví dụ a,b,c,d,đ,e,g là những bộ phận nằm trong hoạt động giao tiếp
nói chung – hành động ngôn ngữ.
Theo J.L. Austin, có ba loại hành động ngôn ngữ:
a. Hành động tạo lời: Là hành động sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ nhƣ ngữ
âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu để tạo thành những phát ngôn hay những văn
bản có thể hiểu đƣợc.
b. Hành động mượn lời: Là hành động mƣợn phƣơng tiện ngôn ngữ hay nói
cách khác là mƣợn các phát ngôn để gây ra sự tác động hay hiệu quả ngoài ngôn ngữ
đối với ngƣời nghe. Hiệu quả này không đồng nhất ở những ngƣời nghe khác nhau.
c. Hành động ở lời (hành động ngôn trung, hành động trong lời): Là hành động
ngƣời nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng gây ra những tác động trực
tiếp thuộc về ngôn ngữ, gây phản ứng với ngƣời nghe.
Đối tƣợng chúng tôi khảo sát là các phát ngôn hỏi – đáp (thuộc hành động ở lời),
vì thế trong phần này chúng tôi đi sâu vào nhóm hành động ở lời.
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Điều kiện sử dụng hành vi ở lời là những điều
kiện mà một hành vi ở lời phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ cảnh
của sự phát ngôn ra nó” [3, tr.111].

11


J.R. Searle chỉ ra 4 điều kiện cụ thể sau: điều kiện nội dung mệnh đề, điều kiện
chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều kiện căn bản.
Tiêu chí nhận diện và phân loại hành động ở lời:
Để nhận diện hành động ở lời, có thể căn cứ vào các tiêu chí sau:
- Đích ở lời
- Cấu trúc hình tƣợng, bao gồm: Các kiểu kết cấu, những từ ngữ chuyên dùng
cho biểu thức ngữ vi, ngữ điệu, động từ ngữ vi
- Nội dung mệnh đề
- Theo cách thể hiện lực ngôn trung
Phân loại hành động ở lời:
Để phân loại hành động ở lời, Austin đƣa ra 5 phạm trù: (1) Phán xử, (2) Hành
xử, (3) Cam kết, (4) Biểu cảm, (5) Tuyên bố.
1.1.3. Phát ngôn ngôn ngữ
Theo tác giả Hoàng Trọng Phiến: “Nếu xét ở góc độ nhận thức và sử dụng thì,
phát ngôn là phạm trù ngữ pháp – lôgic. Ở phát ngôn có các nhân tố của tư duy, tức là
có cơ cấu của phán đoán logic gồm thành phần hư thể, thành phần vị thể, thành phần
xác định và có các nhân tố ngữ pháp. Nói đến phát ngôn là nói cú pháp và tư duy
thống nhất nhưng không đồng nhất”
“Nếu xét ở góc độ cấp độ hệ thống cấu trúc thì câu là cái trừu tượng còn phát
ngôn là cái cụ thể, câu là bất biến thể phát ngôn là biến thể, các phát ngôn làm chức
năng hiện thực hóa các mô hình cú pháp của câu, đồng thời là phương thức tồn tại của
mô hình đó Đến lượt mình, câu vừa thuộc bình diện ngôn ngữ vừa thuộc bình diện lời
nói, còn phát ngôn là thuộc vào bình diện lời nói” [44, tr. 199]
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, “Phát ngôn chính là các thông điệp hình thành trên
cấu trúc của câu nhưng phải là kết quả của tất cả những quy tắc, những tác động vừa
miêu tả” [44, tr. 200]

12

Theo tác giả Diệp Quang Ban, “Nhìn chung, phát ngôn được hiểu là một hành

động giao tiếp, một đơn vị thông báo mà người nghe có thể tiếp nhận được trong điều
kiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Nói một cách thô thiển, phát ngôn là cái biểu
hiện cụ thể trong từng lúc của câu. Có thể hình dung một câu do nhiều người nói ra,
hoặc do một người nói ra trong những lúc khác nhau. Mỗi lần nói ra tương đương với
câu ta có được phát ngôn. Như vậy, một mặt câu là kết quả của quá trình phân tích vô
vàn phát ngôn và rút ra được từ chúng, mặt khác câu là cơ sở để theo đó mà tạo ra
những phát ngôn khác nhau” [44, tr. 201].
Theo tác giả Trần Ngọc Thêm, “Một cách đầy đủ, phát ngôn có thể định nghĩa
như sau: Phát ngôn là một bộ phận của đoạn văn, với một cấu trúc và nội dung nhất
định nào đó (đầy đủ hoặc không đầy đủ) được tách ra một cách hoàn chỉnh về hình
thức, ở dạng viết, nó bắt đầu bằng chữ cái hoa và kết thúc bằng dấu ngắt phát ngôn; ở
dạng nói, nó có những kiểu ngữ điệu nhất định và kết thúc bằng quãng ngắt hơi; về
mặt khối lượng, nó có thể được tận cùng bằng ngữ khí từ. Theo tác giả, khi phân đoạn,
đoạn văn sẽ được chia hết thành các phát ngôn, không có phần dư” [44, tr. 201].
Để tiện cho việc khảo sát, trong luận văn của mình, chúng tôi quy ƣớc 1 phát
ngôn hỏi tƣơng ứng với 1 câu hỏi, 1 phát ngôn đáp tƣơng ứng với 1 câu trả lời.
1.2. Vấn đề hỏi – đáp
1.2.1. Khái quát về câu hỏi
Hỏi là một hiện tƣợng có tính chất phổ quát trong đời sống, giao tiếp ngôn ngữ
của con ngƣời. Đây là một đối tƣợng có tính chất phức tạp, đa diện nhƣng khá thú vị
bởi không chỉ đơn thuần hỏi chỉ để biểu thị “điều chƣa biết” “cái không rõ”, thông qua
hành vi hỏi còn thể hiện cả một truyền thống văn hóa, tâm lí, phong tục tập
quán…những cách hỏi khác nhau sẽ để lại những dấu ấn văn hóa khác nhau. Qua hành
vi hỏi, chúng ta có thể lí giải, đánh giá đƣợc ngôn ngữ của ngƣời tham gia giao tiếp nói
chung và nhân vật trong tác phẩm văn học nói riêng. Có lẽ vì thế, dạng thức câu hỏi thu

13

hút đƣợc sự quan tâm chú ý của nhiều nhà ngôn ngữ, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
nhiều quan điểm, nhiều cách đánh giá, nhận diện, phân loại khác nhau về câu hỏi.

Chúng tôi sử dụng thuật ngữ “câu hỏi” theo cách gọi truyền thống. Nó trƣớc hết
dùng để hỏi những điều chƣa biết, vì thế nghiên cứu câu hỏi thì cũng có nghĩa là đề cập
đến vai trò nhận thức của con ngƣời, đây là một quá trình phức tạp. Bất cứ ngôn ngữ
nào cũng có câu hỏi, và mục đích chính là dùng để hỏi. Nhƣng câu hỏi không chỉ yêu
câu trả lời mà trong giao tiếp ngôn ngữ câu hỏi còn để thể hiện một lời chào, sự mỉa
mai, trách móc, khẳng định, phủ định hoặc có thể hỏi để khuyên nhủ, hỏi để lảng tránh
câu trả lời, hỏi để gây nên một trạng thái cảm xúc nào đó…
1.2.1.2. Đặc điểm về hình thức của câu hỏi
Theo Bách khoa thƣ ngôn ngữ học do William Bright chủ biên (1992) thì câu
hỏi trong các ngôn ngữ thƣờng có đặc trƣng hình thức phổ biến là:
- Ngữ điệu lên giọng ở cuối câu với câu hỏi có – không.
- Các từ nghi vấn đứng ở vị trí đầu câu hoặc đứng ở vị trí trƣớc động từ.
- Đảo vị trí của động từ làm vị ngữ đứng sau chủ ngữ trong câu tƣờng thuật lên
trƣớc chủ ngữ trong câu hỏi. Việc đảo trật tự này chỉ xảy ra trong các ngôn ngữ có hiện
tƣợng đảo trật tự từ trong các câu hỏi đặc biệt mà trong các câu hỏi ấy có từ nghi vấn
đứng ở đầu câu.
1.2.1.3. Đặc điểm về nội dung của câu hỏi
Theo Bách khoa thƣ ngôn ngữ học do William Bright chủ biên thì câu hỏi là
một loại câu có cấu trúc phổ quát, và có ít nhất một chức năng phổ quát là nhằm cung
cấp một lƣợng thông tin nào đó. Xét về mặt ngữ nghĩa câu hỏi khác câu tƣờng thuật đó
là chúng không thể là chân thực hay không chân thực, là hành động ngôn ngữ câu hỏi
giống với câu mệnh lệnh là chúng cần phải có phản ứng đáp lại nào đó. Ngoài yêu cầu
cung cấp lƣợng thông tin, câu hỏi có thể có một số chức năng khác nữa, câu hỏi có thể
dùng nhƣ những yêu cầu gián tiếp mà không cần câu trả lời bằng ngôn từ.

14

Ở Việt Nam, câu hỏi thƣờng đƣợc nhận diện theo mục đích nói. Tác giả Nguyễn
Kim Thản cho rằng: “Câu nghi vấn nhằm mục đích nêu lên sự hoài nghi của người nói
và nói chung đòi hỏi người nghe tường thuật về đối tượng hay đặc trưng của đối

tượng” [44, tr. 34]. Tác giả Hoàng Trọng Phiến thì định nghĩa: “Câu hỏi là một thể câu
thuộc phạm trù phân chia câu theo thực tại hóa. Nếu như câu kể là thuộc phạm trù câu
hiện thực thì câu hỏi thuộc phạm trù câu khả năng. Bởi lẽ các sự kiện làm biểu vật cho
câu là khả năng hoặc phi hiện thực.” “Cho dù ở dưới dạng nào, trong nội dung câu
hỏi đều làm nổi rõ một “cái không rõ” mà câu trả lời cần hướng đến”. Tác giả còn
đưa ra một loại câu hỏi khác mà nội dung các câu hỏi đó không cần trả lời trong hoạt
động giao tiếp, “hỏi nhằm đạt đến sự đồng tình của người nghe, người đọc, loại câu
hỏi như vậy thường gọi là câu hỏi tu từ”. [44, tr. 35]
Nhƣ vậy đặc điểm nhận diện về nội dung của câu hỏi bao giờ cũng biểu thị
“điều chƣa biết” hoặc “cái không rõ”, để ngƣời nghe đáp lại “điều chƣa biết, cái không
rõ” ấy.
1.2.1.4. Phân chia câu hỏi và phương thức biểu hiện hành vi hỏi
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia các loại câu hỏi. Theo hai tác
giả Ange la Downing và Philip locke thì câu hỏi là câu có cấu trúc nghi vấn gồm 3 loại:
Câu nghi vấn phân cực, câu nghi vấn không phân cực và câu nghi vấn lựa chọn. Tác
giả Diệp Quang Ban lại cho rằng: Câu nghi vấn đƣợc dùng để nêu lên điều chƣa biết,
hoặc còn hoài nghi và chờ đợi sự trả lời, giải thích của ngƣời tiếp nhận câu đó và đƣợc
chia làm 4 loại: Câu nghi vấn có đại từ nghi vấn, câu nghi vấn có kết từ “hay” và nghi
vấn có phụ từ nghi vấn, câu nghi vấn có tiểu từ chuyên dụng, câu nghi vấn dùng ngữ
điệu. Tác giả Cao Xuân Hạo lại chia câu hỏi thành hai loại lớn: câu hỏi chính danh và
câu hỏi có giá trị ngôn trung khác: câu hỏi có giá trị cầu khiến, câu hỏi có giá trị khẳng
định, câu hỏi có giá trị phủ định, câu hỏi phỏng đoán hay ngờ vực hay ngần ngại, câu
hỏi có giá trị cảm thán.

15

Trong luận văn này chúng tôi chọn cách phân loại của tác giả Nguyễn Đăng
Sửu. Câu hỏi đƣợc chia thành hai loại lớn: Câu hỏi đích thực và câu hỏi không đích
thực. Trong mỗi loại này tác giả lại chia thành 3 loại: Câu hỏi có – không, câu hỏi lựa
chọn và câu hỏi có từ nghi vấn [31, tr. 21]. Cụ thể nhƣ sau:

a. Câu hỏi đích thực: “là những câu hỏi yêu cầu người nghe trả lời, cung cấp
lượng thông tin còn khuyết thiếu hoặc còn chưa rõ theo mục đích của người phát
ngôn”
Tác giả Nguyễn Đăng Sửu cũng đƣa ra các mô hình câu hỏi cụ thể (trong sự đối
chiếu với câu hỏi trong tiếng Anh).
b. Câu hỏi không đích thực: “là loại câu hỏi không liên quan đến câu trả lời, nó
được dùng như một phương tiện truyền cảm, hỏi để thực hiện những mục đích khác
nhau của người phát ngôn”.
Đây là loại câu hỏi dùng với mục đích khác nhau trong giao tiếp, và trong tƣ
duy hết sức đa dạng.
Trong thực tế tiếng Việt, chúng ta có thể gặp nhiều trƣờng hợp hỏi để mà hỏi,
hỏi cho có chuyện, hỏi để chào, để ca thán, cầu khiến, khẳng định, phủ định…Nhƣ vậy,
việc hỏi và đáp không phải là đặc trƣng tất yêu của câu hỏi. Tác giả Nguyễn Đăng Sửu
cho rằng: “Bản chất của câu hỏi là sự diễn đạt những điều còn băn khoăn, chưa rõ,
những tâm sự, những ước muốn hoặc những nhận xét… của người nói dưới dạng thức
nghi vấn trong giao tiếp hàng ngày.”
Đối với câu hỏi không đích thực, chúng ta cần phải chú ý tới các yếu tố nhƣ: các
nguyên tắc hội thoại, phép lịch sự…Tác giả Nguyễn Đăng Sửu đã chỉ ra “điều kiện sử
dụng câu hỏi không đích thực”. Cụ thể nhƣ sau:
Trong giao tiếp ngôn ngữ, ta có thể gặp trƣờng hợp cần phải lựa chọn các câu
hỏi “đồng nghĩa”: một câu hỏi không đích thực tƣơng đƣơng với một câu hỏi không
đích thực. Tính đa dạng ở mặt biểu hiện của ngôn ngữ (cấu trúc ngữ pháp, hình thức),
năng lực ngôn ngữ của đối tƣợng sử dụng (vai giao tiếp – ngƣời nói/ ngƣời nghe) và sự

16

vận dụng ngôn ngữ (mục đích giao tiếp) là những nhân tố chi phối cách hiểu nội dung
hỏi trong các câu hỏi đồng nghĩa. Thí dụ trong hai câu nói:
Có ai ngồi đây chƣa? (a)
Tôi có thể ngồi đây đƣợc không? (b)

Khi nói câu (a) ngƣời nói dùng khuôn hỏi “đã…chƣa?” và tin chắc ngƣời nghe
trả lời chƣa, còn khi nói câu (b) dùng kiểu câu hỏi với hi vọng nhận đƣợc lời đáp có thể
đƣợc, nghĩa là hiệu lực ở lời (đề nghị) sẽ đƣợc thực hiện.
Nhƣ vậy từ những phân tích tƣơng tự nhƣ trên tác giả đã đƣa ra những điều kiện
sử dụng đối với câu hỏi không đích thực trong tiếng Anh và tiếng Việt. Một mặt, hành
động lời nói phải tuân thủ các qui tắc phổ quát của hành động xã hội và những qui tắc
riêng phù hợp với đặc điểm của bản thân ngôn ngữ. Nhƣng mặt khác, vấn đề đặt ra là:
tại sao một câu hỏi lại đƣợc dùng với mục đích sai khiến, trần thuật hay cảm thán (theo
cách phân loại truyền thống trong các sách dạy tiếng), mà không dùng để hỏi và làm
thế nào để nhận biết đƣợc mục đích đó ở câu hỏi?
1.2.2. Khái quát về câu trả lời
Theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên năm 1998, “Trả lời” tức là
nói cho ngƣời khác biết điều ngƣời ấy hỏi hoặc yêu cầu.
Hỏi – trả lời luôn là một cặp hội thoại tƣơng tác. Trƣớc mỗi câu hỏi có thể có
nhiều câu trả lời. Tuy nhiên “các câu trả lời đó đều thuộc một trong hai phƣơng thức cơ
bản của hành vi trả lời là trả lời trực tiếp và trả lời gián tiếp”. [43, tr. 23]. Trả lời trực
tiếp là trả lời một cách hiển ngôn, đáp ứng trực tiếp vào điểm hỏi. Trả lời gián tiếp là
trả lời một cách hàm ngôn, ngƣời nghe phải thông qua suy diễn ngữ nghĩa mới rút ra
đƣợc thông tin mà ngƣời nói muốn truyền đạt.
Điều mà ngƣời hỏi mong muốn là câu trả lời trực tiếp. Khi đó những thông tin
mà họ chờ đợi đƣợc đáp ứng một cách cụ thể. Nhƣng về phía ngƣời trả lời không phải
lúc nào họ cũng trả lời một cách trực tiếp mà có thể trả lời theo kiểu gián tiếp, bóng
gió, lửng lơ hoặc cũng có thể láng tránh…Chính điều này làm cho cuộc thoại trở nên

17

hấp dẫn hơn. “Những câu trả lời không trực tiếp như vậy luôn gắn với những hành vi
ngôn ngữ gián tiếp, chuyển tải một thông tin ngầm, ẩn chứa đằng sau câu chữ cụ thể.”
[43, tr. 20]
Lý thuyết hội thoại cũng chỉ ra rằng mỗi hành vi ngôn ngữ đều có đích của nó.

Với các hành vi trả lời (nói chung) cũng vậy. Xét một cách tổng quát, hành vi trả lời
đƣợc thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu của hành vi hỏi. “Tuy nhiên trong từng trường
hợp cụ thể, hành vi trả lời nói chung và nhất là các câu trả lời gián tiếp nói riêng, có
thể chỉ đáp ứng một trong các yếu tố của câu hỏi như: điều tiền giả định, điều hỏi,
người hỏi, cách thức hỏi hoặc đối tượng dược nhắc đến trong câu hỏi…Có khi nghĩa
tình thái trong câu hỏi cũng là đích của hành vi trả lời” [43, tr.21]
1.2.2.1. Trả lời trực tiếp
Nhƣ trên đã nói: trả lời trực tiếp là trả lời một cách hiển ngôn, đáp ứng trực tiếp
vào điểm hỏi. Khi nghe câu trả lời, ngƣời hỏi có thể hiểu và thỏa mãn đƣợc yêu cầu hỏi
của mình. Đây thƣờng là đích hƣớng tới của ngƣời hỏi.
1.2.2.2. Trả lời gián tiếp
Là loại câu trả lời mang tính chất hàm ngôn, không trực tiếp. Ngƣời hỏi có thể
nhận đƣợc những thông tin gián tiếp liên quan đến câu hỏi để từ đó có thể suy diễn,
hiểu đƣợc những điều mình muốn biết. Một số biểu hiện của trả lời gián tiếp:
a.Phủ định lại điều đƣợc hỏi
Đôi khi ngƣời hỏi đƣa ra tiền giả định và hỏi về những điều liên quan. Trong
một số trƣờng hợp ngƣời trả lời phủ định lại những tiền giả định đó.
b. Lảng tránh câu trả lời
Có thể vì một lí do nào đó nhƣ một vấn đề tế nhị, khó nói, ngƣời trả lời chọn
cách lảng tránh. Họ có thể đáp lại bằng những câu trả lời mang ý khác, cũng có thể
không trả lời.
c. Trả lời bằng câu hỏi lại
Ngƣời đƣợc hỏi có thể hỏi lại thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi ngƣời hỏi đặt ra.

18

1.3. Chiến lược giao tiếp
“Chiến lược giao tiếp là một loạt những biện pháp làm thuận lợi cho giao tiếp,
làm cho phát ngôn của người nói phù hợp với chuẩn xã hội” [25, tr. 54]
Để tiến hành giao tiếp, mỗi bên tham gia phải thiết lập quan hệ giao tiếp tức là

phải xác định vai giao tiếp của mình và xác định đƣợc vai giao tiếp của ngƣời đối thoại
để từ đó có chiến lƣợc giao tiếp giao tiếp cụ thể. Chính vì lẽ đó mà trong giao tiếp
nhiều phát ngôn ngôn ngữ đã đƣợc hiện thực hóa thành những khuôn mẫu. Bên cạnh
đó để thực hiện một phát ngôn ngôn ngữ nào đó với ngƣời đối thoại, ngƣời tham gia
giao tiếp thƣờng chú ý đến mục đích và hiệu quả giao tiếp. Muốn vậy các bên tham gia
giao tiếp phải tuân thủ nguyên tắc giao tiếp và có chiến lƣợc giao tiếp.
Chiến lƣợc giao tiếp phân biệt với nguyên tắc giao tiếp ở chỗ: chiến lƣợc giao
tiếp quan tâm đến việc làm sao tiếp cận đến mục đích càng hiệu quả càng tốt còn
nguyên tắc giao tiếp quan tâm đến việc làm sao để cuộc thoại không thất bại. Trong khi
giao tiếp mọi ngƣời đều có ý thức tự giác hay không tự giác sử dụng những chiến lƣợc
giao tiếp nhất định, nhằm thực hiện mục đích giao tiếp cụ thể. “Vì thế giao tiếp ngôn
ngữ trên thực tế là vận dụng các chiến lược giao tiếp” [25, tr. 54]
1.4. Một số vấn đề về giới và giới trong ngôn ngữ
1.4.1. Khái niệm về giới
Giới tính (Sex) chỉ sự khác biệt về mặt thể chất (tức sinh lý học) giữa nam giới
và nữ giới “Sự khác biệt này, chủ yếu liên quan đến chức năng tái sản xuất giống nòi
và do các yếu tố di truyền tự nhiên (sinh học) qui định” [1, tr. 21].
Giới là “lớp ngƣời trong xã hội phân theo một đặc điểm rất chung nào đó, về
nghề nghiệp, địa vị xã hội, v.v. [29, tr. 389]. Khi nói đến giới là nói đến điệu kiện và
yếu tố xã hội qui định, vai trò và phát ngôn xã hội của mỗi giới không phải là bất biến
mà thay đổi khi các điều kiện qui định về chúng thay đổi.

19

1.4.2. Giới trong ngôn ngữ
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp của con ngƣời, bản thân nó không bao hàm sự
phân biệt về giới tính, nhƣng do có sự khác biệt về phân công xã hội, về đặc trƣng tính
cách về sinh lý giữa hai giới nam và nữ nên mỗi một ngôn ngữ đều mang trong nó
những đặc trƣng giới tính rõ nét. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính
đã sớm đƣợc các nhà ngôn ngữ học xã hội trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Theo tác

giả Nguyễn Văn Khang, sự khác nhau về ngôn ngữ giữa hai giới thể hiện chủ yếu trên
ba phƣơng diện:
Thứ nhất, đó là sự khác nhau về cấu tạo cơ thể, “nhƣ vị trí của phần “chứa”
ngôn ngữ trong não cũng nhƣ những đặc điểm về sinh lí cấu âm”
Thư hai, thể hiện ở ngôn ngữ đƣợc dùng để nói riêng về từng giới .
Thứ ba, là sự khác nhau trong cách sử dụng ngôn ngữ ở mỗi giới.
Để giải thích sự khác biệt này, ngƣời ta thƣờng dẫn ra những nguyên nhân sau
đây:
- Do sự khác nhau về cấu tạo sinh lý (chủ yếu là cơ quan phát âm) dẫn đến
phƣơng thức phát âm khác nhau.
- Do đặc điểm sinh lý khác nhau của nam và nữ tạo nên sự khác biệt trong sử
dụng ngôn ngữ.
- Do những mặc định về quan niệm xã hội và truyền thống văn hóa đã ảnh
hƣởng tới ngôn ngữ của mỗi giới.
- Do sự bất bình đẳng về quyền lực và địa vị trong xã hội tạo nên hiện tƣợng kì
thị giới tính trong ngôn ngữ .
- Do ảnh hƣởng của hoàn cảnh sống và bối cảnh ngôn ngữ của mỗi ngƣời trong
quá trình phát triển ngôn ngữ.
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, cùng với các công trình nghiên cứu về giới,
thì mối quan hệ giữa giới và ngôn ngữ đã thu hút đƣợc sự chút ý của nhiều nhà ngôn

20

ngữ học xã hội. Sự nghiên cứu này chỉ rõ những khác biệt trong sử dụng ngôn ngữ của
từng giới cụ thể ở các bình diện nhƣ ngữ âm, từ vựng, ngữ dụng.
Ở Việt Nam có thể kể đến các công trình nói về sự khác biệt ngôn ngữ giữa hai
giới nhƣ: Bùi Thị Minh Yến, 1990; Vũ Thị Thanh Hƣơng, 1999; Nguyễn Thanh Bình,
2000, 2003; Lƣơng Văn Hy, 2000; Vũ Tiến Dũng, 2002; Trần Xuân Điệp, 2001, 2002,
2003. Đặc biệt phải kể đến tác giả Nguyễn Văn Khang với công trình “Ngôn ngữ học
xã hội những vấn đề cơ bản”, 2003. Theo tác giả, mối quan hệ giữa giới tính và ngôn

ngữ không chỉ đƣợc xem xét trong nội bộ ngôn ngữ ở các bình diện ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp, mà phải nhìn theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học xã hội, liên quan đến
nhiều vấn đề nhƣ: sinh học, địa vị, vai trò gia đình…

21

Chƣơng 2: CHỦ ĐỀ VÀ CÁCH XƢNG HÔ CỦA CÁC PHÁT NGÔN HỎI – ĐÁP
ĐỐI VỚI CẶP GIAO TIẾP VỢ CHỒNG QUA MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN
TRƢỚC CÁCH MẠNG
2.1. Chủ đề của các phát ngôn hỏi – đáp
Mỗi cặp vợ chồng thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau lại giao tiếp xoay quanh
các chủ đề khác nhau và đó là một nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau trong sử dụng
ngôn từ với các phát ngôn hỏi đáp.
Chủ đề thủy chung chồng vợ đƣợc đề cập đến trong cả 4 đối tƣợng giao tiếp: vợ
chồng lao động bình dân, chồng là trí thức vợ là lao động bình dân, vợ chồng thành thị,
vợ chồng quan lại, đó cũng là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh mâu thuẫn
vợ chồng và dẫn đến sự khác biệt trong sử dụng ngôn ngữ ở các cặp hỏi đáp.
Chủ đề kinh tế gia đình cũng là một trong những chủ đề chính chi phối đến việc
sử dụng ngôn ngữ trong các cuộc hỏi đáp của vợ chồng, đặc biệt ở các cặp vợ chồng
lao động bình dân, chồng là trí thức và vợ là lao động bình dân.
2.1.1. Vợ chồng lao động bình dân
Vợ chồng lao dộng bình dân xuất hiện trong 12 truyện ngắn với 54 cặp hỏi đáp.
Chủ đề bao trùm lên các cặp hỏi đáp này, chủ yếu xoanh quanh cuộc sống “cơm áo gạo
tiền” của các gia đình nghèo. Chính sự bí bách về kinh tế, kéo theo hàng loạt các vấn
đề khác, trong đó có vấn đề xƣng hô và các chiến lƣợc hỏi đáp…
Trong số 12 truyện ngắn đƣợc khảo sát, thì có tới 7 truyện xuất hiện các cặp hỏi
đáp liên quan đến chủ đề kinh tế gia đình, còn lại là xoay quanh các vấn đề: mối quan
hệ trong gia đình, sự thủy chung vợ chồng.
Các cuộc cãi vã giữa các cặp vợ chồng bình dân đều bắt nguồn từ vấn đề kinh
tế. Gia đình khó khăn, cái ăn, cái mặc chẳng đủ, đó là chƣa kể tới những gia đình đông

con, gánh nặng tâm lý lại càng đè nặng lên đôi vai họ, vì vậy cãi vã, chửi mắng là điều
tất yếu xảy ra với họ.

22

Chính vì bắt nguồn từ những chủ đề này mà với các cặp vợ chồng lao động bình
dân, lối xƣng hô đƣợc dùng chủ yếu là xƣng hô trống không và xƣng hô mày - tao/ông.
Đôi khi có tình cảm hơn nhƣng lại với mục đích lợi dụng nhau hoặc mục đích kinh tế.
Một lúc thật lâu, anh chồng về. Anh vừa lau tay vào vạt áo, vừa tươi cười hỏi:
- Nhà còn gạo không?(Anh chồng hỏi chị vợ về gạo để đãi cơm khách)
- Làm gì mà còn gạo! (Chị vợ trả lời chồng bằng thái độ tức tối)
(Trẻ con không đƣợc ăn thịt chó – Nam Cao)
Nhà đang thiếu gạo chồng lại rƣớc khách về nhà tiếp đãi, khiến vợ bực tức, hai
vợ chồng nói chuyện xƣng hô trống không, tiếp đó là cãi và và lên đến cao trào, chồng
chuyển sang cách xƣng hô mày – tao
Mắt hắn trợn lên. Hắn gườm nhìn vợ một giây, rồi hục hặc:
- Cái giống nhà mày khó bảo!
Mắt người vợ đã rân rấn nước. Hắn biết là hắn thắng. Chỉ cần khéo hơn một
chút. Hắn lại xoay ra đấu dịu:
- Cái thứ người đâu mà ngang như cua vậy? Phải biết: tao muốn mất tiền làm gì
chứ? Nhưng chết cái ăn của người ta mãi, chẳng lẽ không mời lại người ta một bữa thì
cái mặt mình còn ra mặt gì? Nhân tiện con chó nó ăn phải bả hay sao mà chẳng biết,
sáng hôm nay cứ rú lên rồi lăn ra giãy chết…
(Trẻ con không đƣợc ăn thịt chó – Nam Cao)
Với tƣơng quan chủ đề giao tiếp trong các phát ngôn hỏi đáp của các cặp vợ
chồng là lao động bình dân chủ yếu xoay quanh vấn đề kinh tế gia đình, ngƣời chồng
dƣờng nhƣ là ngƣời chủ động hơn trong các cuộc giao tiếp. Ngƣời chồng sử dụng
nhiều câu hỏi hơn và chủ yếu là câu hỏi không đích thực với mục đích khẳng định lại
điều gì đó. Trong khi đó, với câu trả lời, ngƣời vợ lại sử dụng nhiều hơn, đặc biệt là
cách trả lời gián tiếp.

- Mả bố mày vẫn để ở cửa kia à? (Chồng hỏi vợ với ý thúc giục)
… Con vợ túm lấy thằng chồng, vừa thở vừa nói :

×