Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Đặc điểm định danh và ngữ nghĩa của hai tổ hợp ghép chính phụ cười + x và nói + x trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.59 KB, 117 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HOC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Vũ Thị Thu Huyền



ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH VÀ NGỮ NGHĨA
CỦA HAI TỔ HỢP GHÉP CHÍNH PHỤ "CƯỜI + X" VÀ "NÓI + X"
TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ
Mã số: 5.04.08








Hà Nội - 2003

2
MỤC LỤC
Mở đầu 5
Chƣơng I. Cơ sở lí thuyết và các khái niệm trong luận văn. 9
I. Một số vấn đề về định danh. 9
II. Một số vấn đề về ngữ nghĩa. 13


III. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá. 18
IV. Khái niệm tổ hợp ghép chính phụ được sử dụng
trong luận văn. 22
Chƣơng II. Đặc điểm định dsanh và ngữ nghĩa của tổ hợp
ghép chính phụ "cười + x" trong tiếng Việt. 29
I. Đặc điểm định danh của tổ hợp ghép chính phụ "cười + x"
trong tiếng Việt. 29
1. Đặc điểm cấu tạo của tổ hợp ghép chính phụ "cười + x". 29
2. Những đặc trưng được dùng để gọi tên tổ hợp
ghép chính phụ "cười + x". 31
II. Đặc điểm ngữ nghĩa của tổ hợp ghép chính phụ "cười + x"
trong tiếng Việt. 35
1. Đặc điểm ngữ nghĩa của động từ "cười". 35
2. Đặc điểm ngữ nghĩa của yếu tố phụ x. 36
3. Các nét nghĩa trong tổ hợp ghép chính phụ "cười + x". 39
4. Sự kết hợp các nét nghĩa trong tổ hợp ghép chính phụ
"cười + x". 43
III. Tiểu kết. 51
Chƣơng III. Đặc điểm định danh và ngữ nghĩa của tổ hợp
ghép chính phụ "nói + x" trong tiếng Việt. 53
I. Đặc điểm định danh của tổ hợp ghép chính phụ "nói + x"

3
trong tiếng Việt. 53
1. Đặc điểm cấu tạo của tổ hợp ghép chính phụ "nói + x". 54
2. Những đặc trưng được dùng để gọi tên tổ hợp
ghép chính phụ "nói + x". 56
II. Đặc điểm ngữ nghĩa của tổ hợp ghép chính phụ "nói + x"
trong tiếng Việt. 60
1. Đặc điểm ngữ nghĩa của động từ "nói". 60

2. Đặc điểm ngữ nghĩa của yếu tố phụ x. 61
3. Các nét nghĩa trong tổ hợp ghép chính phụ "nói + x". 64
4. Sự kết hợp các nét nghĩa trong tổ hợp
ghép chính phụ "nói + x". 68
III. Tiểu kết. 77
Chƣơng IV. So sánh phương thức định danh và
đặc điểm ngữ nghĩa của hai tổ hợp: "cười + x" và "nói + x". 78
I. Đặc điểm định danh của hai tổ hợp ghép chính phụ
"cười + x" và "nói + x". 78
1. Nét tương đồng 78
2. Nét khác biệt. 81
II. Đặc điểm ngữ nghĩa của hai tổ hợp ghép chính phụ
"cười + x" và "nói + x". 85
1. Nét tương đồng. 85
2. Nét khác biệt. 92
III. Nhận xét chung. 95
Kết luận. 101
Các công trình khoa học đã công bố liên quan đến luận văn. 105
Tài liệu trích dẫn. 106

4
Tài liệu tham khảo. 107



5
MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
Cho đến nay, các động từ tiếng Việt thường được nghiên cứu nhiều
hơn ở phương diện cú pháp. Đặc điểm định danh và ngữ nghĩa của chúng đã

được đề cập nhưng còn rất ít. Đây là vấn đề phức tạp, bị chi phối bởi nhiều
yếu tố trong và ngoài ngôn ngữ. Với luận văn này, chúng tôi bước đầu khảo
sát phương thức định danh và đặc điểm ngữ nghĩa của hai tổ hợp ghép chính
phụ "cười + x", "nói + x" trong tiếng Việt (như cười khẩy, cười mỉa, cười
đểu, nói kháy, nói móc, nói oang oang ). Đây là hai tổ hợp ghép chính phụ
có trung tâm là hai động từ chỉ hoạt động của miệng: cười, nói, chắc chắn sẽ
có những nét rất riêng vì chúng không chỉ là hoạt động sinh học mà còn là
hoạt động văn hoá: bộc lộ suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người.
2. Đối tƣợng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tổ hợp ghép chính phụ có
động từ "cười", "nói" làm trung tâm, với công thức khái quát là "cười + x",
"nói + x".
Đối tượng mà luận văn đề cập đến được nghiên cứu ở các bình diện:
chức năng (định danh), ngữ nghĩa và chủ yếu được xem xét trong hệ thống.
3. Nhiệm vụ của luận văn.
- Thu thập tư liệu: tổ hợp "cười +x", "nói + x" trong Từ điển tiếng Việt
(Hoàng Phê chủ biên) và trên sách báo cũng như trong lời ăn tiếng nói hàng
ngày.
- Phân loại tư liệu theo những tiêu chí về phương diện định danh và đặc
điểm ngữ nghĩa.
- Phân tích, miêu tả, tổng hợp tư liệu nhằm chỉ ra phương thức định danh
và đặc điểm ngữ nghĩa của từng tổ hợp.

6
- Qua kết quả trên nhận xét về những đặc trưng văn hoá của Việt Nam từ
mối liên hệ với đặc điểm của ngôn ngữ.
4. Mục đích của luận văn.
- Chỉ ra các phương thức định danh của mỗi tổ hợp.
- Chỉ ra đặc điểm ngữ nghĩa của hai tổ hợp này.
- So sánh về phương thức định danh và đặc điểm ngữ nghĩa giữa hai tổ

hợp, từ đó thấy được phần nào đặc trưng văn hoá của người Việt thể hiện qua
tiếng Việt.
5. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu.
Muốn chỉ ra được một cách đầy đủ và toàn diện đặc điểm định danh và
ngữ nghĩa của tổ hợp "cười +x" và "nói + x", luận văn phải sử dụng nhiều
phương pháp và thủ pháp khác nhau:
- Phân tích để tìm ra đặc điểm đặc trưng, những thuộc tính bản chất của
các đơn vị ngôn ngữ đang là đối tượng nghiên cứu.
- Miêu tả từ sự phân tích trên để đưa ra toàn bộ bộ mặt của đối tượng
nghiên cứu ở các bình diện khác nhau (định danh, ngữ nghĩa).
- Thống kê ngôn ngữ học
- Tổng hợp.
Nguồn tư liệu của luận văn trước hết là các tổ hợp "cười + x", "nói + x"
có trong Từ điển tiếng Việt, sau đó là các đơn vị này xuất hiện trong sách báo
cũng như lời ăn tiếng nói hàng ngày với một số lượng tương đối khoảng 150
tổ hợp "cười + x" và 270 tổ hợp "nói + x".
6. Đóng góp của luận văn.
Các động từ tiếng Việt thường được nghiên cứu nhiều hơn về phương
diện cú pháp, đặc điểm định danh và ngữ nghĩa của chúng đã được đề cập
nhưng còn rất ít. Với luận văn này, chúng tôi muốn góp phần thống kê và

7
miêu tả phương thức định danh và đặc điểm ngữ nghĩa của hai tổ hợp "cười +
x", "nói + x", từ đó phần nào thấy được đặc trưng văn hoá của người Việt thể
hiện qua cách nhìn nhận về hoạt động nói, cười và hoạt động ngôn ngữ của
người Việt nói chung.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương. Nội dung được
tóm tắt như sau:
Mở đầu: Giới thiệu những vấn đề mà luận văn quan tâm và có nhiệm vụ

thực hiện.
Chƣơng I. Cơ sở lí thuyết và các khái niệm trong luận văn
I. Một số vấn đề về định danh.
II. Một số vấn đề về ngữ nghĩa.
III. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.
IV. Khái niệm tổ hợp ghép chính phụ được sử dụng trong luận văn.
Chƣơng II. Đặc điểm định danh và ngữ nghĩa của tổ hợp ghép chính
phụ "cười + x" trong tiếng Việt.
I. Đặc điểm định danh của tổ hợp ghép chính phụ "cười + x" trong tiếng
Việt.
1. Đặc điểm cấu tạo của tổ hợp ghép chính phụ "cười + x".
2. Những đặc trưng được dùng để gọi tên tổ hợp ghép chính phụ "cười +
x".
II. Đặc điểm ngữ nghĩa của tổ hợp ghép chính phụ "cười + x" trong tiếng
Việt.
1. Đặc điểm ngữ nghĩa của động từ cười.
2. Đặc điểm ngữ nghĩa của yếu tố phụ x.
3. Các nét nghĩa trong tổ hợp "cười + x".

8
4. Sự kết hợp của các nét nghĩa trong tổ hợp "cười + x".
III. Tiểu kết.
Chƣơng III. Đặc điểm định danh và ngữ nghĩa của tổ hợp ghép chính
phụ "nói + x" trong tiếng Việt.
I. Đặc điểm định danh của tổ hợp ghép chính phụ "nói + x" trong tiếng
Việt.
1. Đặc điểm cấu tạo của tổ hợp ghép chính phụ "nói + x".
2. Những đặc trưng được dùng để gọi tên tổ hợp ghép chính phụ "nói +
x".
II. Đặc điểm ngữ nghĩa của tổ hợp ghép chính phụ "nói + x" trong tiếng

Việt.
1. Đặc điểm ngữ nghĩa của động từ nói.
2. Đặc điểm ngữ nghĩa của yếu tố phụ x.
3. Các nét nghĩa trong tổ hợp "nói + x".
4. Sự kết hợp của các nét nghĩa trong tổ hợp "nói + x".
III. Tiểu kết.
Chƣơng IV. Nhận xét bước đầu về đặc điểm định danh và ngữ nghĩa
của hai tổ hợp ghép chính phụ "cười + x" và "nói + x".
I. Đặc điểm định danh của hai tổ hợp ghép chính phụ "cười + x" và "nói
+ x".
1. Nét tương đồng.
2. Nét khác biệt.
II. Đặc điểm ngữ nghĩa của hai tổ hợp ghép chính phụ "cười + x" và "nói
+ x".
1. Nét tương đồng.
2. Nét khác biệt.

9
III. Nhận xét chung.
Kết luận.







10
Chƣơng I.
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ CÁC KHÁI NIỆM TRONG LUẬN VĂN

I. Một số vấn đề về lí thuyết định danh.
1. Định danh (nomination) là gì?
Thuật ngữ định danh được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo quan
niệm của G. V. Cosanski thì định danh là "sự cố định (hay gắn) cho một kí
hiệu ngôn ngữ một khái niệm - biểu niệm (significat) phản ánh các đặc trưng
nhất định của một biểu vật (denotat) - các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ
của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó
các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn từ"
[dẫn theo 24, 102].
Định danh là một trong các chức năng của các đơn vị có nghĩa của ngôn
ngữ, ta có thể hiểu một cách đơn giản nhất thì đây chính là chức năng gọi tên:
gọi tên những đối tượng, thuộc tính, hoặc những hành động cụ thể như: cây,
đi, cao ; gọi tên những hình tượng trừu tượng không có hình dạng, thuộc
tính hay hoạt động cụ thể nhưng có tính khách quan như: đã, đang, sẽ ; và
cũng có thể gọi tên những hình tượng đặc biệt có tính chủ quan như: à, ư,
nhỉ, nhé Yêu cầu của một tên gọi là:
- Nó phải khái quát, trừu tượng, phải mất khả năng gợi đến những đặc
điểm, những thuộc tính riêng rẽ tạo thành đối tượng vì nó là sản phẩm của tư
duy trừu tượng. Về mặt ngữ nghĩa nó phải tách hẳn với những dấu vết của
giai đoạn cảm tính.
- Các tên gọi có tác dụng phân biệt đối tượng này với đối tượng khác
trong cùng một loại hay phân biệt các loại nhỏ trong một loại lớn. Sự phân
biệt này phải dứt khoát, có nghĩa là khi đã có tên gọi thì sự vật này, loại nhỏ

11
này cũng trở thành độc lập với nhau, riêng rẽ với nhau. Nhờ có tên gọi mà sự
vật có đời sống độc lập trong tư duy [4, 190].
Tất cả các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ đều có chức năng biểu nghĩa
nhưng phải là một đơn vị có cấp độ từ trở lên mới có thể định danh [Dokulil
& Danes, Akhmanova, dẫn theo 18, 212]. Nhưng cũng chỉ có các thực từ mới

có chức năng định danh, còn các thán từ, liên từ, giới từ, đại từ không có
chức năng này [7, 59].
2. Đơn vị định danh.
Khi xem xét các đơn vị của ngôn ngữ, lí thuyết định danh phân biệt các
loại đơn vị định danh khác nhau. Nhìn từ số lượng đơn vị có nghĩa tham gia
đơn vị định danh thì có sự phân biệt:
- Định danh đơn giản (định danh tổng hợp): được tạo bởi một đơn vị có
nghĩa.
- Định danh phức hợp (định danh phân tích, định danh miêu tả): được
tạo bởi từ hai đơn vị có nghĩa trở lên.
Nhìn từ góc độ ngữ nghĩa thì có: định danh gốc (hay bậc một) và định
danh phái sinh (hay bậc hai). Đơn vị định danh gốc là những từ tối giản về
mặt hình thái - cấu trúc, mang nghĩa đen, được dùng làm cơ sở để tạo ra các
đơn vị định danh khác. Hồ Lê gọi đây là định danh phi liên kết hiện thực:
"gọi tên những mẩu nhỏ nhất trong hiện thực mà một cộng đồng ngôn ngữ
quan niệm là đã chia cắt ra được và nắm bắt được từ hiện thực" [24, 102]. Ví
dụ như nhà, cây, hoa, đất Định danh phái sinh (hay bậc hai) là những đơn
vị định danh có đặc trưng hình thái cấu trúc phức tạp hơn đơn vị gốc, mang
nghĩa biểu trưng hoá (dưới hình thái ẩn dụ hay hoán dụ) [12, 8] mà Hồ Lê gọi
đây là định danh liên kết hiện thực: "để phản ánh hiện thực khách quan một
cách đầy đủ, không cchỉ gọi tên từng mẩu hiện thực nhỏ nhất mà còn phải gọi

12
tên những tập hợp gồm nhiều mẩu hiện thực liên kết lại" [24, 102]. Ví dụ:
làng nước, đất đai, cây lá, nói vã, cười khẩy
3. Cơ chế định danh của đơn vị định danh phái sinh (bậc hai).
Quá trình cấu tạo nên các đơn vị định danh phái sinh (bậc hai) có cơ chế
nhất định. Muốn xác định rõ cơ chế của nó thì theo tác giả Hoàng Văn Hành
cần phải làm rõ hai vấn đề cốt yếu là: a) Có những yếu tố nào tham gia vào cơ
chế này và tư cách của mỗi yếu tố ra sao? b) Mối quan hệ tương tác giữa các

yếu tố đó như thế nào mà khiến ta có thể coi đó là một cơ chế? Sự phân tích
cứ liệu trong các ngôn ngữ đơn lập mà tiếng Việt là tiêu biểu, cho phép nhận
định rằng để có một cơ chế cấu tạo các đơn vị định danh phái sinh có thể vận
hành được một cách có hiệu quả thì cần có điều kiện sau: Một là, có một hệ
những đơn vị làm yếu tố gốc (nguyên tố). Hai là, có một hệ những yếu tố có
giá trị hình thái nghĩa là có thể dùng làm phương tiện để tạo lập những đơn vị
định danh phái sinh (hình tố). Ba là, để có đơn vị định danh phái sinh, điều
cốt yếu là có một hệ quy tắc vận hành để sử dụng các hình tố làm phương tiện
mà tác động vào nguyên tố theo một cách nhất định. Cơ chế vừa nêu thuộc về
hệ thống của ngôn ngữ. Nó có tính chất tiềm năng, xét về mặt lí thuyết.
Những sản phẩm của cơ chế này trở thành đơn vị định danh được ghi nhận
vào vốn từ vựng của ngôn ngữ hay không còn phụ thuộc vào nhân tố thứ tư
nữa, một nhân tố không kém phần quan trọng, nhân tố xã hội. Đó chính là
tính đắc dụng hay không đắc dụng của các đơn vị định danh mới được sản
sinh đối với cộng đồng người bản ngữ [12, 26 - 28].
Cụ thể, để tạo ra các đơn vị định danh phái sinh, chúng ta có hai con
đường: phái sinh ngữ nghĩa và phái sinh hình thái - cú pháp.
Bằng con đường ngữ nghĩa, ta có thể nhân khả năng định danh của đơn
vị gốc lên nhiều lần. Một từ cùng với một vỏ ngữ âm phát triển ra bao nhiêu

13
nghĩa sẽ có bấy nhiêu đơn vị định danh. Mỗi một biến thể từ vựng - ngữ
nghĩa sẽ tương ứng với một đơn vị định danh. Ví dụ: chân trong "chân tay" là
đơn vị định danh bậc một (gốc), nhưng chân trong "có chân trong ban chủ
nhiệm hợp tác xã" là đơn vị định danh bậc hai (phái sinh) được tạo ra bằng
con đường phái sinh ngữ nghĩa.
Theo con đường hình thái cú pháp, người ta có thể tạo ra hàng loạt các
đơn vị định danh phái sinh với các đặc trưng khác nhau về cấu trúc và ngữ
nghĩa. Theo cách này thường có hai quá trình:
- Thứ nhất là quá trình tạo từ với các phương thức thường gặp là:

Phương thức suy phỏng: kiểu như bú - vú, bóp - móp, dìm - chìm
Phương thức láy: kiểu như bé - be bé, nhỏ - nho nhỏ, mảnh - mảnh mai
Phương thức ghép: trong phương thức này có hai cách: ghép hội nghĩa
(như giày dép, quần áo, chùa chiền ) và ghép phân nghĩa (như áo tắm, quần
the, cười ruồi, nói nhảm )
Phương thức phụ gia: phương thức này không có trong tiếng Việt.
- Quá trình thứ hai để tạo các đơn vị định danh phái sinh bằng con
đường cú pháp là quá trình từ vựng hoá những tổ hợp. Đó là quá trình chuyển
hoá những tổ hợp thành những đơn vị mang thành ngữ tính. Tính thành ngữ
của các đơn vị từ vựng này biểu hiện ở tính bền vững về mặt hình thái cấu
trúc và tính bóng bẩy về mặt ngữ nghĩa với những mức độ khác nhau. Có hai
loại tổ hợp thường được từ vựng hoá: tổ hợp tự do và tổ hợp cố định.
Trong cơ chế cấu tạo đơn vị định danh bậc hai, phương thức ghép được
coi là phương thức quan trọng nhất đối với tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập
tiêu biểu. Số lượng đơn vị định danh được tạo bởi phương thức này rất lớn,
đặc biệt là các đơn vị ghép phân nghĩa (phụ nghĩa). Và cũng ở chính những
đơn vị kiểu này, sự phong phú trong cách nhìn nhận và chỉ ra đặc trưng tạo

14
thành nhiều tiểu loại trong cùng một loại lớn của tư duy người Việt, ngôn ngữ
người Việt được bộc lộ. Và đây cũng là đối tượng nghiên cứu hết sức thú vị
mà chúng tôi đã lựa chọn, khoanh vùng trong một giới hạn nhất định: tổ hợp
ghép chính phụ (phụ nghĩa, phân nghĩa) "cười + x", "nói + x" với trung tâm
là hai động từ chỉ hoạt động của miệng: vừa là hoạt động sinh lí đồng thời
cũng là hoạt động nói năng thường gắn với nét văn hoá rất đặc trưng của con
người.

II. Một số vấn đề về ngữ nghĩa.
Nghĩa là một trong những hiện tượng phức tạp nhất [12, 9] vì nó không
những có mối liên hệ mật thiết với hiện thực khách quan mà còn có mối liên

hệ với tư duy, với văn hoá, lịch sử, xã hội… gắn với mỗi cộng đồng ngôn
ngữ. Nó vừa là hệ quả của quá trình nhận thức, vừa là hệ quả của những quá
trình có tính chất tâm lí - xã hội, lịch sử - văn hoá. Nghĩa rất trừu tượng, biểu
hiện của nó rất đa dạng nên việc nghiên cứu nó gặp phải không ít những vấn
đề như: dùng phương pháp định tính hay định lượng, thẩm định vấn đề bằng
giác quan của sự tri nhận nhưng còn con đường khách quan hình thức…
Chính vì vậy, thành tựu của việc nghiên cứu ngữ nghĩa đến nay còn tương đối
hạn chế.
Nhìn lại lịch sử, từ thời Platon, người ta đã tranh cãi ngôn ngữ là tinh
thần hay vật chất. Rồi khi Aristotle phân tích trí tuệ con người, bàn đến nghĩa
thì ngữ nghĩa đã hoà vào nội dung nghĩa của triết học và logic học. Ngữ
nghĩa được coi trọng trong thế chưa được phân lập. Cho đến đầu thế kỉ XX,
F. de Saussure chỉ ra rằng ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và mọi
tín hiệu đều có tính hai mặt:
cái được biểu hiện cái biểu hiện

15

ngữ nghĩa hình thức ngôn ngữ
lúc này nghĩa được nhìn nhận là mặt nội dung của hình thức ngôn ngữ, tồn tại
trong mọi hình thức của ngôn ngữ. Và cho đến nay, nghĩa không ngừng được
nghiên cứu theo những mặt phân chia liên quan đến hiệu lực, bản chất và
chức năng của ngôn ngữ.
Với cách hình dung phức tạp và trừu tượng như vậy thì bản chất của
nghĩa là gì? Thực chất, nghĩa là nội dung của những hình thức biểu hiện ngôn
ngữ, là một mặt trong hai mặt của ngôn ngữ. Nó có tính tinh thần trừu tượng
nhưng luôn luôn gắn bó với hình thức biểu hiện của nó. Nghiên cứu nghĩa
phải luôn nhìn nhận trong mối quan hệ gắn bó này và phải xem xét tính cộng
đồng của nó: cộng đồng hiểu, thừa nhận nó như thế nào thì nó mới có tính
hiện thực. Hình thức biểu hiện của nội dung ngữ nghĩa có khi có tính cộng

đồng nhưng cũng có khi có tính sáng tạo cá nhân tạo nên phong cách riêng.
Khi đó, nội dung nghĩa càng phải luôn đặt trong mối quan hệ với hình thức
biểu hiện và những nhân tố quyết định sự xuất hiện của những hình thức biểu
hiện ngôn ngữ đó.
Xem xét các phạm vi tồn tại của nghĩa, các nhà nghiên cứu thấy rằng,
ngoài nghĩa của chất liệu ngôn ngữ (nghĩa của những đơn vị tín hiệu) còn có
nghĩa trong giao tiếp gắn với người nói (người phát) và người nghe (người
nhận) nhưng nghiên cứu ngữ nghĩa thì chủ yếu là nghiên cứu ngữ nghĩa của
chất liệu ngôn ngữ. Nó tồn tại dưới dạng các đơn vị ngôn ngữ có nghĩa: hình
vị, từ, ngữ (tổ hợp), câu, đoạn văn, văn bản. Trong phạm vi luận án này,
chúng tôi chủ yếu xem xét nghĩa của từ và nghĩa của tổ hợp.
Nghĩa từ là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức và được
thể hiện ở ngôn ngữ (A. I. Smirnixki). Nó là một thực thể tinh thần cùng với

16
phương diện hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ. Cái thực thể
tinh thần đó hình thành từ một số nhân tố, không đồng nhất với những nhân
tố đó nhưng không có những nhân tố này không có nghĩa của từ. Các nhân tố
tự mình chưa phải là nghĩa, ở bên ngoài nghĩa nhưng để lại những dấu vết
bên trong nghĩa góp phần "nhào nặn" nên nghĩa từ. Nói một cách khác, nghĩa
của từ là một hợp điểm, là kết quả của những nhân tố và tác động giữa những
nhân tố tạo nên nghĩa. Trong số những nhân tố đó có nhân tố nằm ngoài ngôn
ngữ, có nhân tố nằm trong ngôn ngữ. Chúng là sự vật, hiện tượng, những
hiểu biết của tư duy (khái niệm), người sử dụng (nhân tố lịch sử - xã hội),
chức năng tín hiệu học, cấu trúc ngôn ngữ… [4, 119 - 121].
Nghĩa của từ không phải là một đơn vị không thể phân tích ra được nữa
mà nó là một cơ cấu, do một chùm những thành tố có quan hệ hữu cơ với
nhau được tổ chức theo một tôn ti nhất định. Nghĩa bao hàm những đơn vị
nhỏ hơn gọi là nét nghĩa, nghĩa vị, thành tố nghĩa, nhân tử ngữ nghĩa tuỳ theo
cách gọi của những tác giả khác nhau [4, 202]. Có tác giả cho rằng: nét nghĩa

và thành tố nghĩa không phải là hai khái niệm tương đương: "nét nghĩa không
phải bao giờ cũng là thành tố trực tiếp tạo ra nghĩa từ mà thường là yếu tố tạo
nên những thành tố trực tiếp của nghĩa từ. Nên thành tố nghĩa là đơn vị trung
gian giữa nét nghĩa và nghĩa từ, nó do một hay nhiều nét nghĩa tạo nên"[12,
8]. Nét nghĩa là đơn vị cơ bản phản ánh thuộc tính hoặc quan hệ có giá trị
khu biệt của hiện tượng, sự vật trong thế giới khách quan. Có hai loại nét
nghĩa:
- Nét nghĩa phạm trù: thường gắn với nghĩa đen, nghĩa gốc của từ.
- Nét nghĩa khu biệt: tạo thành nghĩa phái sinh, nghĩa bóng.
Sự phân biệt giữa nghĩa của các từ hoặc giữa các nghĩa của một từ nhiều
nghĩa là do một hay nhiều nét nghĩa mang tính khu biệt. Tính tôn ti của các

17
nét nghĩa trong cơ cấu nghĩa từ được thể hiện ở chỗ: nếu trật tự các nét nghĩa
thay đổi thì sẽ tạo ra các nghĩa khác nhau hoặc nghĩa của các từ khác nhau.
Ví dụ: tổ hợp các nét nghĩa [người] + [đực] sẽ cho từ đàn ông nhưng [đực] +
[người] sẽ cho từ nam.
Nghĩa từ là hệ quả của những quá trình có tính chất tâm lí xã hội, lịch sử
văn hoá nên chịu sự chi phối của quá trình này. Do vậy, nghĩa từ sẽ có sự
biến đổi, phát triển, mở rộng, thu hẹp, hạn chế theo những quy luật nhất
định. Ví dụ từ bị vốn "biểu thị chủ thể chịu sự tác động của việc không hay
hoặc là đối tượng của động tác, hành vi không có lợi đối với mình" [28 ,61]
nhưng ngày nay các bạn trẻ vẫn nói: "Cô ấy hơi bị xinh" thì bị lại biểu thị sự
nhấn mạnh về tính chất (cả không có lợi và có lợi ) chứ không chỉ có nghĩa
như trên nữa.
Đó là nghĩa từ, còn đối với tổ hợp tìi nghĩa của chúng có những đặc
điểm riêng. Nghĩa của tổ hợp không phải là sự tổng hợp đơn thuần nghĩa của
các đơn vị tạo thành tổ hợp. Đó là sự kết hợp các nét nghĩa của những đơn vị
cấu tạo này. Sự kết hợp đó tạo ra những biến đổi cả về chất lẫn về lượng, các
nét nghĩa có thể được phân bố lại và do chúng tác động lẫn nhau mà có thể có

nét nghĩa được tô đậm, có nét nghĩa trở thành chủ đạo, có nét nghĩa bị triệt
tiêu, có nét nghĩa mới nảy sinh làm thành nghĩa của toàn tổ hợp. Đơn vị phân
tích ngữ nghĩa là nét nghĩa của đơn vị cấu tạo tổ hợp. Khi các nét nghĩa tổ
hợp lại, chúng vừa theo những quy tắc nội tại của ngôn ngữ đồng thời còn
phải phù hợp với logic thông thường của cuộc sống. Ngôn ngữ không tách
rời cuộc sống, thực tiễn xã hội, khi là kinh nghiệm phổ biến được phản ánh
vào trong ngôn ngữ ở dạng "cố định hoá" chi phối nguyên tắc ngữ nghĩa. Cái
"ngoài ngôn ngữ" chuyển hoá thành cái "trong ngôn ngữ", thành cái "logic"
của ngôn ngữ [26, 28 - 32].

18
Đối với các ngữ cố định - một trong những đối tượng nghiên cứu của
luận án này - thì chúng có đặc điểm ngữ nghĩa như sau:
Thứ nhất, chúng có tính biểu trưng. Hầu hết là những bức tranh về vật
thực, việc thực cụ thể riêng lẻ được nâng lên để nói về cái phổ biến, khái
quát, trừu tượng. Chúng là các ẩn dụ, so sánh, hoán dụ. Chẳng hạn như người
Việt có câu "đẹp vàng son, ngon mật mỡ": vàng son ở đây vừa là hình ảnh cụ
thể, vừa mang ý nghĩa biểu trưng cho sự cao sang, quyền quý.
Thứ hai, chúng mang tính dân tộc. Chúng phản ánh các biểu hiện, các
sắc thái khác nhau của sự vật hiện tượng trong đời sống, kinh nghiệm và cách
nhìn của từng dân tộc. Ví dụ: Người Việt nói "Con trâu là đầu cơ nghiệp" vì
văn hoá Việt là văn hoá nông nghiệp gắn với việc trồng lúa nước, trong thời
kì nền công nghiệp hiện đại chưa phát triển thì việc cày bừa đất để trồng lúa
chủ yếu nhờ vào sức kéo của trâu bò. Nếu không có trâu, bò thì sẽ không làm
được đất, không làm được đất thì không trồng lúa được, do đó không có gì để
sinh sống và như vậy thì còn nói gì đến cơ nghiệp nữa.
Thứ ba, chúng có tính hình tượng và tính cụ thể. Tính hình tượng của
chúng là kết quả tất yếu của tính biểu trưng: tái hiện về các sự vật, hiện tượng
trong đời sống, tạo ấn tượng mạnh mẽ, gây tác động đậm nét. Nếu nói
"chậm", "ngu" sẽ không thể tạo ấn tượng như nói "chậm như sên", "ngu như

bò", hay "ăn thủng nồi trôi rế" là một cách nói để diễn tả việc "ăn nhiều" ở
mức độ rất cao mà bản thân từ này không diễn tả được.
Cuối cùng, về ngữ nghĩa, ngữ cố định có tính biểu thái. Chúng mang
kèm thái độ, cảm xúc, sự đánh giá: có thể nói lên lòng kính trọng, yêu mến
hoặc sự khinh ghét, căm phẫn đối tượng đang nói tới. Ví dụ: Ta thấy thái độ
thương cảm ở câu "chó cắn áo rách", thái độ coi thường trong câu "ngựa non

19
háu đá" hay "anh hùng rơm", còn ở câu "vinh quy bái tổ" là đầy cảm giác tự
hào, sung sướng.
Để tìm hiểu, nghiên cứu nghĩa từ, nghĩa tổ hợp, ngữ nghĩa nói chung
người ta có rất nhiều phương pháp. Nhưng có lẽ phổ biến hơn cả là phương
pháp phân tích thành tố nghĩa, mặc dù phương pháp này không phải đã nhận
được sự tán thành của tất cả các nhà nghiên cứu ngữ nghĩa: "các nét nghĩa dù
có đơn giản đến đâu cũng không phải là không chia nhỏ hơn được như các
nét khu biệt âm vị học", "những người sáng lập ra phép phân tích thành tố đã
muốn vận dụng phép lưỡng phân vào sự đối lập các nét nghĩa… nhưng giữa
các nét nghĩa không phải bao giờ cũng có quan hệ này" [4, 204 - 205]. Tuy
nhiên trong thực tế nghiên cứu, phương pháp này "đã phát hiện ra được
những mặt căn bản của ý nghĩa từ và có thể sử dụng một cách có hiệu quả để
nghiên cứu hệ thống ngữ nghĩa của ngôn ngữ" (Pasov). Nó đã được khẳng
đinh "sự phân tích thành tố là một trong những phương pháp quan trọng nhất
nghiên cứu ngữ nghĩa ngôn ngữ" (Akhmanova).
Phương pháp phân tích thành tố nghĩa là phương pháp đối lập trong nội
bộ hệ thống để phân xuất các nét nghĩa. Phương pháp này dùng lối so sánh,
đối chiếu các sự kiên ngôn ngữ với tư cách những yếu tố của một hệ thống để
phát hiện các nét khu biệt. Chẳng hạn: đối chiếu cha, mẹ với nhà, cửa ta có
thể rút ra nét khu biệt người / vật. Đối chiếu cha với mẹ ta có nét khu biệt
nam / nữ; cha, mẹ với vợ, con thì ta có nét nghĩa đã có con (trong quan hệ với
con) trong nghĩa của cha, mẹ. Vì vậy ta có thể giải thích nghĩa của cha, mẹ

như sau:
- Cha: người đàn ông đã có con trong mối quan hệ với con.
- Mẹ: người đàn bà đã có con trong mối quan hệ với con.

20
Với phương pháp đối lập trong nội bộ hệ thống ta đã phân tích được cơ
cấu nghĩa của các đơn vị ngữ nghĩa với các thành tố trong cơ cấu này. Đây
cũng chính là phương pháp cơ bản chúng tôi sử dụng trong luận văn bên cạnh
các phương pháp bổ trợ khác như tổng hợp, miêu tả, liên tưởng, so sánh, đối
chiếu Khi phân tích một loạt đơn vị ngữ nghĩa là đối tượng nghiên cứu của
luận án "cười +x", "nói + x" chúng tôi thấy chúng có cùng một kiểu cơ cấu
nghĩa:
- Có lượng thành tố nghĩa ở cấp độ phạm trù tương đương nhau.
- Có cùng một cách tổ chức bên trong như nhau.
Quan hệ giữa các đơn vị như thế này các nhà nghiên cứu gọi là quan hệ đẳng
cấu ngữ nghĩa. Nhờ đó, chúng tôi có thể phân loại theo nhóm, tiểu nhóm để
phân tích, miêu tả. Kết quả sẽ được trình bày ở chường II và chương III.
III. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.
Văn hoá, với tư cách là một hiện tượng xã hội bao gồm những giá trị vật
chất và tinh thần, đã và đang được một cộng đồng người nào đó tích luỹ. Mỗi
một hệ thống văn hoá bất kì có quy mô, đặc trưng riêng của nó là tính chất
đặc thù bên cạnh tính nhân loại của nó do môi trường sống và loại hình kinh
tế quyết định. Đó chính là những yếu tố mang sắc thái dân tộc như truyền
thống phong tục, nghi lễ, nghệ thuật… Đi sâu vào các đặc trưng, ta thấy
chúng có liên quan chặt chẽ với nhau, cho phép từ cái nọ suy ra cái kia và suy
ra tất cả các đặc trưng của mỗi nền văn hoá cụ thể. Cái bất biến của văn hoá
trong quá trình phát triển của lịch sử chính là bản sắc văn hoá. Dĩ nhiên, văn
hoá là hệ thống những quan hệ, không phải là những vật. Các hệ thống quan
hệ này mang những tên gọi riêng, có thể chứa đựng những cách lí giải khác
nhau trong cách biểu hiện qua các thời đại. Cái tạo thành tính bất biến của

các quan hệ này là những nhu cầu của tâm thức con người [ 25, 15].

21
Mỗi một đối tượng của khoa học xã hội đều có cái mặt văn hoá học của
nó. Khi nghiên cứu bất kì một bộ môn nào mà ta bỏ qua mặt văn hoá học của
nó thì thực tế ta đang lâm vào một tình trạng khoanh vùng khá võ đoán [25].
Đặc trưng văn hoá dân tộc ngày càng thu hút được sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu với những cuộc tranh luận rất lí thú. Ngay cả đến khái niệm văn
hoá là gì cũng có nhiều ý kiến khác nhau bởi bản thân văn hoá là một hiện
tượng đa diện. Người ta đã thống kê có tới hơn hai trăm định nghĩa thế nào là
văn hoá. Mỗi khuynh hướng nghiên cứu nhìn văn hoá ở một khía cạnh khác
nhau phù hợp với những hướng nghiên cứu của họ.
Ngôn ngữ là một ngành khoa học xã hội nghiên cứu về "phương tiện
giao tiếp quan trọng nhất của con người" (Lênin). Vấn đề quan hệ giữa ngôn
ngữ - văn hoá - tư duy đã được chú ý đến từ rất lâu và ngày càng được đi sâu
tìm hiểu ở các khía cạnh, các tầng bậc khác nhau. Các nhà khoa học đều thừa
nhận rằng giữa ngôn ngữ và văn hoá, ngôn ngữ dân tộc và văn hoá dân tộc có
mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Các phạm vi của ngôn ngữ và văn hoá gắn bó
chặt chẽ với nhau. Là một thành tố của nền văn hoá tinh thần, ngôn ngữ giữ
một vị trí đặc biệt trong nó. Bởi vì ngôn ngữ là phương tiện tất yếu và là điều
kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt động của những thành tố khác trong
văn hoá. Ngôn ngữ là một thành tố đặc trưng nhất của bất cứ một nền văn hoá
dân tộc nào. Chính trong ngôn ngữ, đặc điểm của nền văn hoá dân tộc được
lưu giữ rõ ràng nhất.
Đặc trưng văn hoá dân tộc của giao tiếp ngôn ngữ được tạo thành từ một
hệ thống nhân tố quy định những sự khác biệt trong cách tổ chức, trong các
chức năng và cách thức tiến hành quá trình giao tiếp tiêu biểu cho cộng đồng
văn hoá dân tộc hoặc cộng đồng ngôn ngữ nào đó (như nhân tố gắn với

22

truyền thống văn hoá, hoàn cảnh xã hội của giao tiếp, những nhân tố bị quy
định bởi ngôn ngữ của một cộng đồng ).
Trong phạm vi nội bộ một cộng đồng ngôn ngữ - văn hoá, ngôn ngữ lại
đóng vai trò phương tiện liên hệ, kế thừa giữa các thế hệ trong sự phát triển
tinh thần của các thế hệ, bởi vì kinh nghiệm lịch sử xã hội của một dân tộc về
cơ bản được tàng trữ và lưu truyền trong không gian và thời gian ở hình thức
ngôn từ (dưới hình thức ý nghĩa từ). Chính trong ý nghĩa từ đã lưu lại sự hiểu
biết về thế giới khách quan ở trình độ mà một xã hội có thể đạt được trong
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Nhiều phương diện của các đơn vị từ
vựng đã quy định đặc trưng văn hoá dân tộc ở hành vi nói năng. Ý nghĩa của
từ phản ánh hiện thực qua ý thức của con người với tư cách là đại diện của
một cộng đồng văn hoá - ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ chức năng "là hình
thức tồn tại của kinh nghiệm lịch sử - xã hội" mà mỗi dân tộc có kinh nghiệm
lịch sử xã hội riêng mình thì tất yếu trong cấu trúc ý nghĩa của từ có cả thành
tố văn hoá lịch sử. Chúng ta có thể nghiên cứu kinh nghiệm lịch sử xã hội nói
riêng, lịch sử tư tưởng nói chung của mỗi dân tộc qua ý nghĩa của từ, qua lịch
sử ngôn ngữ của dân tộc ấy, tuy rằng không phải toàn bộ lịch sử tri thức của
nhân loại chỉ để trong ngôn ngữ. "Mỗi từ, mỗi ngữ cố định không chỉ là một
sự kiện ngôn ngữ. Nó còn là một bản tổng kết cô đọng, súc tích, phong phú
những hiểu biết của toàn dân tộc trong hàng ngàn năm lịch sử" [5]. Nghĩa của
từ không phải là một khối cố định mà là tập hợp của một số thành phần nhất
định, "tồn tại dưới dạng một cơ cấu, do một chùm những thành tố có quan hệ
hữu cơ với nhau, được tổ chức theo tôn ti nhất định" [12, 8]. Ngoài những
thành tố ngôn ngữ ra còn có thành tố văn hoá. Đó là những thông tin về điều
kiện địa lí, thiên nhiên trong đời sống của dân tộc bản ngữ, về lịch sử, kinh
tế, tâm lí dân tộc

23
Như vậy, đặc trưng văn hoá dân tộc được biểu hiện ở hầu hết các quá
trình ngôn ngữ nhưng trước hết là ở nghĩa của từ. Và trong phạm vi này, đặc

trưng văn hoá dân tộc được biểu hiện rõ nét nhất trong ý nghĩa biểu trưng của
từ. Chẳng hạn, màu vàng biểu trưng cho sự đẹp đẽ, sang trọng: "đẹp vàng
son, ngon mật mỡ" hay con rồng là biểu trưng cho sự quyền quý: long bào
(áo của vua), long sàng (giường của vua), long mão (mũ của vua), long thể
(thân thể của vua)… Đó là nghĩa biểu trưng của chúng trong tiếng Việt
nhưng ở ngôn ngữ khác điều này chưa chắc đã đúng, thậm chí có thể ngược
lại. Chẳng hạn, ở Việt Nam, chào bao giờ cũng gắn với hỏi: chào hỏi. "Bác đi
đâu đấy?" có thể là một lời chào, không cần người được hỏi trả lời. Tuy
nhiên, nếu ở châu Âu mà chào bằng cách hỏi thì có lẽ sẽ bị đánh giá là tò mò,
thiếu lịch sự. Chỉ cần nhìn vào ngôn ngữ, người ta có thể thấy tâm hồn, tính
cách và những đặc trưng văn hoá cơ bản của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng
ngôn ngữ, đúng như W. Humboldt, nhà văn hoá lớn của Đức đã từng nói rằng
ngôn ngữ là "linh hồn của một dân tộc". Nhìn vào tiếng Việt có thể thấy đúng
là nó phản ánh rõ hơn đâu hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và
những đặc trưng cơ bản của nền văn hoá Việt Nam [34, 287].
Bình diện thứ hai mà ta có thể nhìn thấy rõ nét những đặc trưng văn hoá
dân tộc trong ngôn ngữ là quá trình định danh. Đây là quá trình "gắn cho kí
hiệu ngôn ngữ một khái niệm - biểu niệm (significat) phản ánh các đặc trưng
nhất định của một biểu vật (denotat)" [dẫn theo 41, 19]. Đặc trưng dân tộc
của định danh được biểu hiện ở việc lựa chọn đặc trưng đối tượng làm cơ sở
tên gọi cho nó. Vai trò của việc lựa chọn này bị quy định bởi nhiều nhân tố:
đặc điểm sinh lí con người, cơ chế của ngôn ngữ… Quá trình tâm lí lựa chọn
đặc trưng đối tượng để định danh như sau: con người tiếp xúc với đối tượng
nào đó, tìm hiểu và biết một loạt đặc điểm của nó rồi chọn lấy đặc trưng tiêu

24
biểu để đặt tên cho đối tượng đó sao cho người ta có thể phân biệt nó với các
đối tượng khác. Đặc trưng tiêu biểu đó của đối tượng có thể là đặc trưng "đập
vào mắt" (khách quan) hoặc cũng có thể là đặc trưng chủ quan theo cảm nhận
của con người, có khi là đặc trưng cơ bản, có khi chỉ là có tính chất kĩ thuật

ngôn ngữ thuần tuý. Nó hoàn toàn không thể nói hết được toàn bộ bản chất
của đối tượng. Quá trình định danh với việc lựa chọn đặc trưng làm cơ sở
định danh phụ thuộc vào chủ thể định danh, vào nhu cầu, mục đích của mỗi
cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Mỗi dân tộc lựa chọn đặc trưng để định danh
theo cách riêng của mình. Cùng một đối tượng, trong các ngôn ngữ khác
nhau sẽ được gọi tên theo cách khác nhau: "cùng một đối tượng có thể được
gọi tên theo các ngôn ngữ theo cách khác nhau phụ thuộc vào đối lập kiểu
nào về tâm lí, lịch sử, dân tộc và xã hội đã làm cơ sở cho sự định danh" (G.
V. Consanski).
Ngoài việc lựa chọn định danh thì "kĩ thuật ngôn ngữ" trong định danh
cũng ghi dấu ấn văn hoá của từng dân tộc. Ví dụ trong tiếng Việt có từ mẹ
vợ, tiếng Anh là mother - in - law hoặc từ you trong tiếng Anh có thể dịch là
anh, chị, ông, bà, cậu, chú, dì, mày sang tiếng Việt tuỳ hoàn cảnh giao tiếp.
Đó là đặc trưng ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau với đặc điểm loại hình
ngôn ngữ khác nhau.
Có thể nói rằng, dấu ấn văn hoá in đậm trên tất cả các bình diện ngôn
ngữ, các quá trình ngôn ngữ nhưng rõ nét nhất vẫn là trong ý nghĩa từ và
trong quá trình định danh ngôn ngữ. Hay nói cách khác, đi theo hướng nghiên
cứu ngôn ngữ học, tìm hiểu ý nghĩa từ và quá trình định danh sẽ thấy được
đặc trưng văn hoá dân tộc của cộng đồng ngôn ngữ, cộng đồng dân tộc. Đây
là một hướng nghiên cứu mà trong những năm gần đây rất được chú ý và đã

25
đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Trong luận án này, chúng tôi cũng chọn
con đường này để khám phá đối tượng nghiên cứu của mình.
IV. Khái niệm "tổ hợp ghép chính phụ" sử dụng trong luận văn.
1. Khái niệm "tổ hợp".
Khi nói đến khái niệm tổ hợp là người ta nghĩ ngay đến "cái gồm nhiều
thành phần kết hợp với nhau theo những quy tắc nhất định" [28,1008]. Nếu
cứ áp dụng định nghĩa chung này vào ngôn ngữ thì ta có thể có: tổ hợp các

âm vị, tổ hợp các hình vị, tổ hợp các âm tiết, tổ hợp các từ, tổ hợp các câu
Tuy nhiên, khái niệm này không được sử dụng như vậy trong ngôn ngữ học
nói chung, Việt ngữ học nói riêng. Nó chỉ được dùng để chỉ chung những kết
hợp gồm hai tiếng (âm tiết) trở lên.
Trong từ vựng học, khái niệm tổ hợp được dùng tương đương với khái
niệm cụm từ hay ngữ nhưng ở đây chúng tôi nói tổ hợp dùng để chỉ chung
những kết hợp gồm hai tiếng (âm tiết) trở lên chứ không phải là những kết
hợp gồm hai từ trở lên là có lí do của nó. Hiện nay, quan niệm về từ trong
tiếng Việt, ngoài sự thống nhất chung công nhận sự tồn tại khách quan của
từ, công nhận từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ thì các tác giả khác nhau có
quan niệm khác nhau về ranh giới từ trong tiếng Việt.
Đa số các nhà nghiên cứu Việt ngữ học cho rằng: từ tiếng Việt có thể
lớn hơn hoặc bằng âm tiết. Như vậy trong tiếng Việt sẽ có từ đơn âm và từ đa
âm. Và tổ hợp sẽ là khái niệm dùng để chỉ những đơn vị lớn hơn từ đơn âm.
Theo tác giả Nguyễn Tài Cẩn thì "Kết hợp tiếng với tiếng chúng ta sẽ
được những loại đơn vị ngữ pháp cao hơn gọi chung là tổ hợp" [2, 47]. Ông
cho rằng, xét về mặt cấu tạo từ tiếng Việt bao gồm từ đơn (chỉ gồm một tiếng
độc lập như cha, mẹ, đẹp, ăn, uống ) và từ ghép (trong từ ghép có hai loại:

×