Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ của ca dao tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.02 KB, 128 trang )


1

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ CHÂU









ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA CA DAO TỤC
NGỮ NÓI VỀ KINH NGHIỆM SẢN XUẤT















LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN NGÔN NGỮ

















HÀ NỘI, 2005

2

MỤC LỤC

Lời cảm ơn 1
Mục lục 2
Bảng quy định chữ viết tắt 4
PHẦN MỞ ĐẦU 5

1. Lý do chọn đề tài và nhiệm vụ của luận văn 5
1.1. Lý do chọn đề tài 5
1.2. Nhiệm vụ 5
2. Tình hình nghiên cứu 6
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và vấn đề tƣ liệu 8
5. Bố cục của luận văn 10
Chƣơng I. TỔNG QUAN VỀ CA DAO TỤC NGỮ NÓI VỀ KINH NGHIỆM SẢN XUẤT 12
1. Quan niệm về ca dao, tục ngữ 12
1.1. Quan niệm về tục ngữ 12
1.2.Quan niệm về ca dao 19
2. Nội dung của ca dao, tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất 22
2.1. Về thời tiết 23
2.2. Trồng trọt 25
2.3. Chăn nuôi 29
2.4. Sự vất vả 32
3. Vị trí của ca dao, tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động sản xuất trong
kho tàng tục ngữ ca dao ngƣời Việt 33
4. Tiểu kết 35
Chƣơng II. ĐẶC ĐIỂM VỀ NGỮ ÂM CỦA CA DAO TỤC NGỮ NÓI VỀ KINH NGHIỆM SẢN XUẤT
36
1. Đặc điểm ngữ âm của ca dao nói về kinh nghiệm sản xuất 36
1.1. Quy tắc chung của thể thơ lục bát 36
1.1.1. Thơ lục bát 36
1.1.2. Vần trong thơ lục bát 36

3

1.1.3. Vần trong ca dao lục bát nói về kinh nghiệm sản xuất 37
1.2. Những bài ca dao viết theo các thể thơ khác 40

1.3. Nhịp điệu 43
2. Đặc điểm ngữ âm của tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất 53
2.1.Hình thức của tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất 53
2.1.1.Những câu có độ dài dưới mười âm tiết 54
2.1.2.Những câu có độ dài trên mười âm tiết 55
2.2.Vị trí gieo vần và cách hiệp vần trong các câu tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất . 59
2.2.1. Loại câu không gieo vần 59
2.2.2. Loại câu có gieo vần 60
2.2.2.1. Vần lưng và vần liền 61
2.2.2.2. Vần lưng và vần cách 61
2.2.2.3. Vần trong tục ngữ được viết theo thể lục bát 62
2.3. Nhịp 63
2.3.1. Đặt vấn đề 63
2.3.2. Những đơn vị tục ngữ có kiến trúc sóng đôi 64
2.3.3. Những đơn vị tục ngữ khác 68
3. Tiểu kết 69
Chƣơng III.ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG CỦA CA DAO TỤC NGỮ NÓI VỀ KINH NGHIỆM SẢN XUẤT72
1. Đặc điểm thứ nhất: tục ngữ ca dao nói về kinh nghiệm lao động sản xuất
sử dụng rất ít từ Hán Việt và từ địa phƣơng 72
1.1. Từ Hán Việt 72
1.2. Từ địa phƣơng 78
2. Đặc điểm thứ hai: tục ngữ ca dao nói về kinh nghiệm lao động sản xuất sử
dụng nhiều từ chuyên dùng trong lao động sản xuất nông nghiệp 80
2.1. Những từ chuyên dùng trong nghề trồng trọt 80
2.2. Những từ chuyên dùng trong nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm 84
3. Tiểu kết 88
PHẦN KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
PHỤ LỤC 1: TỤC NGỮ 98
PHỤ LỤC 2: CA DAO


4

BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT


1. C: Câu
2. C
GH
: Câu ghép

3. C
A
: Câu A

4. C
B
: Câu B

5. Đ: Đề
6. T: Thuyết
7. Đ
A
: Đề A

8. T
A
: Thuyết A

9. Đ

B
: Đề B


10. T
B
: Thuyết B

11. đ
2
: đề 2

12. t
2
: thuyết 2
13. đ
A
: đề A
14. t
A
: thuyết A

15. đ
B
: đề B


16. t
B
: thuyết B






5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
1.1.Lý do chọn đề tài
a dao, tục ngữ là một bộ phận chiếm vị trí khá quan trọng trong
ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Ca dao, tục ngữ tự thân đã mang
trong mình những nét rất đặc trƣng của ngôn ngữ và văn hoá Việt
Nam. Tuy đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu ca dao, tục ngữ nhƣng
dƣờng nhƣ vẫn chƣa chỉ đƣợc hết những đặc điểm ngôn ngữ cũng nhƣ
văn hóa của chúng, đặc biệt là ở bộ phận ca dao, tục ngữ nói về kinh
nghiệm sản xuất.
Với tƣ cách là ngƣời nghiên cứu ngôn ngữ giảng dạy các môn
thuộc về văn hoá, ngôn ngữ và tiếng Việt tại Khoa Ngoại ngữ Trƣờng Đại
học Bách Khoa Hà Nội, thông qua đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn
tìm hiểu những nét đặc trƣng cơ bản về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp cùng
những kiến thức liên quan đến khía cạnh văn hóa của những câu ca dao,
tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, phục vụ cho công việc
chuyên môn của mình.
1.2. Nhiệm vụ
Thông qua bảng tƣ liệu thống kê những câu tục ngữ và ca dao nói
về kinh nghiệm sản xuất, luận văn có nhiệm vụ:
- Tập hợp ca dao tục ngữ đƣợc sáng tác theo đề tài lao động sản xuất
nông nghiệp một cách có hệ thống. Đó chủ yếu là những bài ca dao,
những câu tục ngữ nói về kinh nghiệm trong lao động sản xuất nông

nghiệp.
- Tìm hiểu những đặc trƣng về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của ca dao
tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động sản xuất nói riêng và ca dao tục
ngữ nói chung.
C

6

- Qua những đặc trƣng về ngôn ngữ trong điều kiện cho phép, tìm hiểu
những đặc trƣng văn hóa ẩn mình trong những bài ca dao, những câu
tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động sản xuất.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Ca dao, tục ngữ Việt Nam là một mảng đề tài khá phong phú và
hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học và ngôn ngữ
Công tác sƣu tập, biên soạn ca dao, tục ngữ cũng nhƣ dân ca đã bắt đầu từ
khoảng cách nay hai thế kỷ và công trình sƣu tập ca dao sớm nhất mà
chúng ta đƣợc biết và hiện có là Nam phong giải trào (Trần Liễu Am,
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX). Có thể ca dao, tục ngữ đã đƣợc sƣu
tầm từ sớm hơn nhƣng dù sao thì chúng tôi cũng không biết đƣợc những
công trình có trƣớc Nam phong giải trào. Sau đó, kể từ suốt thế kỷ XIX
đến đầu thế kỷ XX, các nhà Nho đã biên soạn khá nhiều công trình về ca
dao, tục ngữ nhƣ Nam phong ngạn ngữ thi (Ngô Đình Thái, thế kỷ XIX),
Đại Nam quốc tuý (Ngô Giáp Đậu, thế kỷ XIX), Việt Nam phong sử của
Nguyễn Văn Mại… Đó là những công trình bằng chữ Nôm, còn những
công trình bằng chữ quốc ngữ (kể cả những công trình mới chỉ đăng trên
báo chí) thì ngay từ trƣớc cách mạng tháng Tám đã xuất hiện khá phong
phú, trong đó không thể không kể đến Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn (Huỳnh
Tịnh Của, 1897), An nam tục ngữ (Vũ Nhƣ Lam và Nguyễn Đa Gia,
1933), Phong dao, ca dao, phương ngôn và tục ngữ (Nguyễn Văn Chiểu,
1936), Ngạn ngữ phong dao (Nguyễn Can Mộng, 1941)… và đặc biệt là

Tục ngữ phong dao (Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản lần thứ nhất năm 1928)
đƣợc coi là công trình sƣu tập tục ngữ công phu nhất, có nội dung phong
phú nhất trong thời kỳ đó.
Sau cách mạng tháng Tám, thuộc loại công trình sƣu tập, biên soạn ca
dao, tục ngữ có quy mô có thể kể đến trƣớc tiên là bộ sách Tục ngữ và dân ca
Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (xuất bản lần thứ nhất vào năm 1956), Hợp
tuyển văn học Việt Nam tập I phần Văn học dân gian (1972)…

7

Trong những năm gần đây, có một số nhà nghiên cứu sƣu tầm tục
ngữ, ca dao đƣợc giới nghiên cứu cũng nhƣ công chúng biết đến nhƣ nhóm
tác giả cuốn Tục ngữ Việt Nam Chu Xuân Diên; Nguyễn Xuân Kính, Phan
Hồng Sơn cũng với cuốn Tục ngữ Việt Nam; Nguyễn Lân với Từ điển thành
ngữ tục ngữ Việt Nam; nhóm Vũ Dung với Từ điển thành ngữ và tục ngữ
Việt Nam; Nguyễn Xuân Kính với Kho tàng ca dao người Việt, Thi pháp ca
dao; Đinh Gia Khánh với Ca dao Việt Nam…
Trên đây là những nét sơ lƣợc về công tác sƣu tầm biên soạn ca
dao, tục ngữ Việt Nam từ trƣớc đến nay. Tuy nhiên, nhƣ chúng ta đã biết,
ca dao tục ngữ không chỉ dừng lại ở mức độ là đối tƣợng để biên soạn,
sƣu tầm mà ca dao, tục ngữ đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học khác nhau nhƣ văn học, ngôn ngữ học, xã hội học…
thậm chí đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về ca dao tục ngữ đƣợc
đánh giá cao. Công việc của chúng tôi là góp thêm một cái nhìn ngôn ngữ
học về kho tàng văn hóa phong phú này của dân tộc.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Ca dao, tục ngữ là tài sản tinh thần chung, là biểu hiện kinh nghiệm
sống phong phú của nhân dân lao động Việt Nam và đồng thời nó phản
ánh tâm hồn dân tộc. Do đó, kho tàng ca dao, tục ngữ ngƣời Việt đề cập
đến rất nhiều nội dung nhƣ tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, tình yêu thiên

nhiên, tình cảm nam nữ, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất… Tuy
nhiên, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi không có tham vọng đề
cập đến tất cả những mảng nội dung kể trên mà:
- Chúng tôi chỉ chọn những câu ca dao, tục ngữ có nội dung nói về kinh
nghiệm sản xuất nông nghiệp làm đối tƣợng nghiên cứu của luận văn.
- Ngoài ra, Việt Nam là quốc gia gồm có 56 dân tộc anh em cùng
sinh sống trong dải lãnh thổ hình chữ S. Nhìn chung, mỗi dân tộc đều có
những câu ca dao, tục ngữ phản ánh kinh nghiệm cũng nhƣ tâm tƣ của
riêng mình. Do vậy, chúng tôi cũng chỉ giới hạn bằng việc chọn những

8

câu ca dao, tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất của ngƣời Kinh (ngƣời
Việt) với tƣ cách là tộc ngƣời chiếm đa số tại Việt Nam.
4.PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ TƢ LIỆU
Để thực hiện nhiệm vụ trong luận văn, chúng tôi sử dụng phƣơng
pháp thống kê, mô tả và so sánh tƣ liệu. Chúng tôi đã sử dụng khá nhiều
sách sƣu tầm ca dao, tục ngữ để làm tƣ liệu khảo sát, trong đó các cuốn
Kho tàng ca dao người Việt (4 tập) của Nguyễn Xuân Kính, Tục ngữ Việt
Nam của Nguyễn Xuân Kính, Phan Hồng Sơn, Tục ngữ, ca dao, dân ca
Việt Nam của Vũ Ngọc Phan là nguồn tài liệu khảo sát chính. Mỗi cuốn
sách nhƣ vậy gồm hàng trăm, hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn bài
(nhƣ Kho tàng ca dao người Việt) và đó cũng chính là số lƣợng những
câu tục ngữ, ca dao mà chúng tôi đã khảo sát.
Tổng cộng số lƣợng bài
1
ca dao nói về kinh nghiệm lao động sản xuất
nông nghiệp chúng tôi đã sƣu tầm đƣợc là 150 và tổng số câu tục ngữ nói về
kinh nghiệm lao động sản xuất là 438. Chƣa thể kết luận đây có phải là con
số đầy đủ hay không nhƣng theo chúng tôi đây là những con số tƣơng đối

đáng tin cậy. Sở dĩ chúng tôi có ý kiến này là nhờ vào quá trình khảo sát
nguồn tƣ liệu phong phú về ca dao tục ngữ đã có hiện nay.
Để có đƣợc con số 150 bài ca dao nói về kinh nghiệm lao động sản
xuất, chúng tôi đã tiến hành khảo sát những cuốn sách sau đây:
1. Nguyễn Nghĩa Dân – Ca dao Việt Nam (1945 – 1975) – Nhà xuất bản
Văn học Hà Nội 1997.
2. Đinh Gia Khánh – Ca dao Việt Nam – Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội
1983.
3. Đinh Gia Khánh (chủ biên) – Ca dao Việt Nam – NXB Tổng hợp
Đồng Tháp, 1992.

1
Ở đây, chúng tôi sử dụng thống nhất khái niệm bài ca dao thay vì khái niệm câu vì thông
thƣờng một bài ca dao gồm rất nhiều câu thơ hợp thành và sẽ có những bài ca dao chúng tôi
chỉ trích dẫn sử dụng một số câu nhất định.

9

4. Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật (chủ biên) – Kho tàng ca dao
người Việt (tập 1) – Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội 1995.
5. Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật (chủ biên) – Kho tàng ca dao
người Việt (tập 2) – Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội 1995.
6. Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật (chủ biên) – Kho tàng ca dao
người Việt (tập 3) – Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội 1995.
7. Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật (chủ biên) – Kho tàng ca dao
người Việt (tập 4) – Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội 1995.
8. Trần Quang Nhật – Ca dao lao động – Nhà xuất bản Phổ thông 1974.
9. Nguyễn Văn Ngọc – Tục ngữ phong dao, Hà Nội 1928.
10. Vũ Ngọc Phan – Vũ Ngọc Phan tác phẩm (Tập 3) – Nhà xuất bản Hội
Nhà văn, Hà Nội 2000.

11. Vũ Ngọc Phan – Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (bản in lần thứ 11)
– Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội 1998.
12. Vũ Ngọc Phan – Tục ngữ và dân ca Việt Nam (in lần thứ 4) – Nhà
xuất bản Sử học, Hà Nội 1967.
13. Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu, Phạm Ngọc Hy – Văn học dân gian
Việt Nam– Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1972.
14. Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu, Phạm Ngọc Hy – Hợp tuyển thơ văn
Việt Nam - Văn học dân gian Việt Nam (Tập 1) – Nhà xuất bản Văn
học, Hà Nội 1977.
15. Ca dao tục ngữ - Nhà xuất bản Văn nghệ TP. HCM, 1995.
Và để có đƣợc con số 438 câu tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động
sản xuất, chúng tôi đã tiến hành khảo sát những cuốn sách sau đây:
1. Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri – Tục ngữ Việt Nam –
Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội 1975.
2. Nguyễn Xuân Kính, Phan Hồng Sơn – Tục ngữ Việt Nam - Nhà xuất
bản Văn hoá thông tin, Hà Nội 1995.

10

3. Vũ Ngọc Phan – Vũ Ngọc Phan tác phẩm (Tập 3) – Nhà xuất bản Hội
Nhà văn, Hà Nội 2000.
4. Vũ Ngọc Phan – Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (bản in lần thứ 11)
– Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội 1998.
5. Vũ Ngọc Phan – Tục ngữ và dân ca Việt Nam (in lần thứ 4) – Nhà xuất
bản Sử học, Hà Nội 1967.
6. Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu, Phạm Ngọc Hy – Văn học dân gian
Việt Nam– Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1972.
7. Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu, Phạm Ngọc Hy – Hợp tuyển thơ văn
Việt Nam - Văn học dân gian Việt Nam (Tập 1) – Nhà xuất bản Văn
học, Hà Nội 1977.

8. Ca dao tục ngữ - Nhà xuất bản Văn nghệ TP. HCM, 1995.
9. Tuyển tập tục ngữ ca dao Việt Nam – Nhà xuất bản Văn học 2/2003
Ngoài những tài liệu chính này, chúng tôi còn tham khảo một số
cuốn sách sƣu tầm ca dao, tục ngữ, sách lý luận và những bài báo liên
quan khi tiến hành luận văn (xin xem thêm ở Thƣ mục tài liệu tham khảo
ở cuối luận văn này).
Trên cơ sở nguồn tƣ liệu phong phú nhƣ vậy, chúng tôi tiến hành
chọn lọc và thống kê tất cả những câu, những bài có chủ đề về kinh
nghiệm sản xuất nông nghiệp để phục vụ cho luận văn. Sau khi đã dùng
phƣơng pháp thống kê để chọn lọc và dựng thành một bảng tƣ liệu tƣơng
đối đầy đủ, chúng tôi tiến hành mô tả, phân tích để chỉ ra những đặc điểm
về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của ca dao, tục ngữ nói về kinh nghiệm
sản xuất và qua đó phác họa nên những nét văn hóa lƣu giữ trong đó.
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn của chúng tôi gồm 3 phần chính:
- Phần mở đầu,
- Phần nội dung

11

- Phần kết luận.
Trong đó, phần nội dung gồm có ba chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về ca dao, tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất
Chƣơng 2: Đặc điểm về ngữ âm của ca dao, tục ngữ nói về kinh
nghiệm sản xuất
Chƣơng 3: Đặc điểm từ vựng trong ca dao, tục ngữ nói về kinh
nghiệm sản xuất
Ngoài ra, luận văn còn gồm có bảng quy ƣớc chữ viết tắt, một mục
lục, một thƣ mục tài liệu tham khảo và hai phụ lục.


12

CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CA DAO, TỤC NGỮ
NÓI VỀ KINH NGHIỆM SẢN XUẤT

1. QUAN NIỆM VỀ CA DAO, TỤC NGỮ TỤC NGỮ
1.1.Quan niệm về tục ngữ
ục ngữ là cách nói đúc kết những kinh nghiệm, những tri thức trong
cuộc sống, đƣợc hình thành trong lời nói thƣờng nhật của ngƣời
Việt Nam. Dƣờng nhƣ phần lớn ngƣời Việt đều sử dụng lối nói tục ngữ
trong giao tiếp hàng ngày nhƣ một công cụ tƣ duy và diễn đạt sắc bén.
Tuy nhiên, để trả lời cho câu hỏi “Thế nào là tục ngữ?” thì đó không phải
là việc đơn giản. Bởi lẽ trong kho tàng văn học dân gian của chúng ta
không chỉ có tục ngữ mà còn có cả thành ngữ. Hai khái niệm này thƣờng
bị lẫn với nhau. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các nhà nghiên cứu là phải xác
định cho đƣợc ranh giới giữa hai khái niệm tục ngữ và thành ngữ. Thực tế
cho thấy, xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau và dựa vào các tiêu chí
khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đƣa ra rất nhiều ý kiến xung quanh vấn
đề này. Rất nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian, nhiều nhà ngôn ngữ
học đã đƣa ra quan điểm giải thích, biện luận nhằm có đƣợc một định
nghĩa khả dĩ nhất, tổng quát nhất dành cho tục ngữ. Sau đây là quan điểm
của một số nhà nghiên cứu văn học dân gian và ngôn ngữ học.
1.1.1.Định nghĩa của giáo sư Dương Quảng Hàm
Có thể nói, ngƣời đầu tiên đƣa ra định nghĩa tục ngữ là giáo sƣ
Dƣơng Quảng Hàm. Trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu” (quyển I),
ông cho rằng: “Tục ngữ (tục: thói quen đã có từ lâu đời; ngữ: lời nói) là
những câu nói gọn ghẽ và có ý nghĩa lưu hành tự đời xưa, rồi do cửa
miệng người đời truyền đi. Tục ngữ còn gọi là ngạn ngữ vì chữ ngạn ngữ
là lời nói của người xưa truyền lại”[11,6].

T

13

Ông cũng là ngƣời đầu tiên đƣa ra ý kiến phân biệt hai khái niệm
tục ngữ và thành ngữ. Theo ông thì “tục ngữ là những lời nói do nhiều
tiếng ghép lại đã lập thành sẵn, ta có thể mượn để diễn đạt một ý tưởng
của ta khi nói chuyện hay viết văn. Trong những câu người ta gọi là tục
ngữ, có rất nhiều câu chỉ là thành ngữ chứ không phải là tục ngữ thật.
Thí dụ: “Dốt đặc cán mai”, “Tiền rừng bạc bể”. Sự khác nhau của tục
ngữ và thành ngữ là ở chỗ này: một câu tục ngữ tự nó phải có một ý
nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn hoặc chỉ bảo điều gì; còn thành ngữ chỉ là
những lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn một ý gì hoặc tả một trạng
thái gì cho có màu mẽ” [11,9].
Nhƣ vậy, quan điểm của giáo sƣ Dƣơng Quảng Hàm rất rõ ràng:
tục ngữ là những lời nói do nhiều tiếng ghép lại, dùng để diễn đạt một ý
tƣởng, và tự nó phải có một ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn hoặc chỉ bảo
điều gì. Ngƣợc lại, thành ngữ là “có sẵn để tiện dùng” mà thôi. Tuy
nhiên, định nghĩa trên của giáo sƣ Dƣơng Quảng Hàm vẫn chƣa đƣa ra
đƣợc những tiêu chí để phân định một cách minh xác hai khái niệm tục
ngữ và thành ngữ.
1.1.2. Quan điểm của giáo sư Vũ Ngọc Phan
Mặc dù cũng tán thành ý kiến của giáo sƣ Dƣơng Quảng Hàm
nhƣng giáo sƣ Vũ Ngọc Phan lại cho rằng “định nghĩa nhƣ vậy là không
đƣợc rõ, vì nếu thế, tác dụng của thành ngữ cũng không khác gì tác dụng
của tục ngữ” [32,38]. Ông cho rằng cần phải căn cứ vào nội dung mới có
thể phân biệt đƣợc câu nào là tục ngữ, câu nào là thành ngữ. Quan điểm
của Vũ Ngọc Phan rất rõ ràng: “Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trọn
vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, một công lý, có
khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu có sẵn, nó là một

bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không
diễn đạt được một ý trọn vẹn. Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ
là một nhóm từ chưa phải một câu hoàn chỉnh; còn tục ngữ dù ngắn đến

14

đâu cũng đã là một câu hoàn chỉnh” [32,39]. Với quan niệm nhƣ vậy,
ông đã coi “tục ngữ là một thể loại sáng tác ngang hàng với các thể loại
ca dao, dân ca” [32,39]. Có thể nhận thấy, Vũ Ngọc Phan đã phân biệt
rất rõ hai khái niệm tục ngữ và thành ngữ:
- Tục ngữ là một câu hoàn chỉnh, là một thể loại sáng tác ngang
hàng ca dao dân ca.
- Thành ngữ chỉ là một phần của câu.
Thậm chí ông còn chỉ ra rằng “trong tục ngữ có cả thành ngữ. Thí
dụ: Chồng yêu xỏ mũi lỗ chân thì “xỏ mũi lỗ chân” là thành ngữ”
[32,40]. Rõ ràng theo quan điểm của ông, tiêu chí để phân biệt hai khái
niệm tục ngữ và thành ngữ là hai tiêu chí nội dung và kết cấu ngữ pháp
của tục ngữ và thành ngữ.
1.1.3. Quan điểm của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân và Lý Hữu Tấn
Nhóm tác giả Nguyễn Nghĩa Dân và Lý Hữu Tấn có ý kiến cho
rằng muốn có đƣợc một định nghĩa hoàn chỉnh về tục ngữ thì điều cần
yếu là phải phân biệt tục ngữ không chỉ với thành ngữ mà cả với ngạn
ngữ và phƣơng ngôn. Hai ông cũng đã đề cập đến định nghĩa của giáo sƣ
Dƣơng Quảng Hàm và chỉ ra hạn chế của định nghĩa đó là chƣa đƣa ra
những tiêu chuẩn để phân biệt tục ngữ và thành ngữ.
Nguyễn Nghĩa Dân và Lý Hữu Tấn đã đƣa ra những phân tích,
nhận định về tục ngữ dựa trên các mặt hình thức, ngữ pháp và nội dung.
- Về hình thức không thể căn cứ vào số tiếng nhiều hay ít mà định
đâu là tục ngữ, đâu là thành ngữ. Xét về ngữ pháp thì rõ hơn”[30,274].
Bởi vì về bản chất ngữ pháp, nói chung thành ngữ chƣa phải là mệnh đề

hoàn chỉnh mà muốn thành câu thì phải thêm vào thành ngữ những thành
phần khác. Trái lại, tục ngữ thì chắc chắn là một hay nhiều mệnh đề hoàn
chỉnh.
- Về nội dung, thành ngữ đƣợc thêm vào lời nói cho bóng bẩy
thêm, đó là lối nói ví von của nhân dân thƣờng dùng với tính chất chung

15

là ngắn gọn, cô đọng và chín chắn. Tục ngữ là câu nói hoàn chỉnh về một
vấn đề, một ý niệm đã đƣợc thể nghiệm và công nhận là một chân lý với
nội dung rất súc tích [30,275].
Từ những phân tích trên, hai ông đã đƣa ra kết luận:
Tục ngữ là câu nói thƣờng ngắn gọn có vần hoặc không có vần, có
nhịp điệu hoặc không có nhịp điệu đúc kết kinh nghiệm sản xuất hoặc đấu
tranh xã hội, rút ra một chân lý phổ biến, ghi lại một nhận xét về tâm lý,
phong tục tập quán của nhân dân. Tục ngữ do nhân sáng tác và đƣợc toàn
thể xã hội công nhận [30,275].
1.1.4. Quan điểm của giáo sư Chu Xuân Diên
Cùng quan điểm với giáo sƣ Vũ Ngọc Phan, trong cuốn Lịch sử
văn học Việt Nam – Văn học dân gian (tập 2), giáo sƣ Chu Xuân Diên đã
viết: “Sự khác nhau giữa tục ngữ và thành ngữ thường là sự khác nhau
cả về nội dung, cả về cấu tạo ngữ pháp của hai loại hình đó. Mỗi thành
ngữ là một tổ hợp từ nằm trong một vế câu hoàn chỉnh, là một bộ phận
cấu thành của câu. Bản thân mỗi thành ngữ thường không đưa ra một kết
luận gì, nó chỉ có nội dung trong khuôn khổ của câu mà nó là một bộ
phận cấu thành, trong khi bản thân mỗi câu tục ngữ đã có một nội dung
trọn vẹn được khuôn đúc lại trong một mệnh đề tuy rút ngắn nhưng hoàn
chỉnh” [17,13]
Ông cùng nhóm tác giả cuốn Tục ngữ Việt Nam cũng cho rằng:
“Cần phải xét thành ngữ và tục ngữ không phải chỉ như hai hiện tượng

ngôn ngữ khác nhau, mà chủ yếu như là một hiện tượng ngôn ngữ và một
hiện tượng ý thức xã hội. Cho nên, tiêu chí gốc mà chúng tôi thấy cần
phải dựa vào để tìm ra sự phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ là tiêu chí
về nhận thức luận. Với tiêu chí đó, chúng tôi xem xét tục ngữ như là một
hiện tượng ý thức xã hội, còn thành ngữ thì chủ yếu như là một hiện
tượng ngôn ngữ. Cũng với tiêu chí đó, sự khác nhau cơ bản về nội dung
của thành ngữ và tục ngữ sẽ được phát hiện như là sự khác nhau về nội

16

dung của hai hình thức tư duy khác nhau, là hai khái niệm và phán đoán.
Sự khác nhau đó về hình thức tư duy tất yếu sẽ dẫn đến sự khác nhau về
chức năng của hai hình thức ngôn ngữ chứa đựng hai hình thức tư duy
đó, đến sự khác nhau về cấu tạo ngữ pháp và vị trí trong lời nói của hai
hình thức ngôn ngữ đó”[7,27-28].
Có thể nhận thấy, những ý kiến trên đây của các tác giả cuốn Tục
ngữ Việt Nam không khác lắm so với ý kiến của giáo sƣ Vũ Ngọc Phan cả
về nội dung cũng nhƣ ý nghĩa. Chỉ có điều ý kiến của họ đã trừu tƣợng
hoá, khái quát hoá vấn đề cao hơn mà thôi.
Trên đây là những quan điểm về tục ngữ nhìn từ góc độ văn học
dân gian, theo quan niệm của những nhà nghiên cứu văn học dân gian.
Tuy vậy, nghiên cứu về tục ngữ không chỉ là mối quan tâm của riêng
ngành khoa học nghiên cứu văn học dân gian mà còn là mối quan tâm của
nhiều ngành khoa học khác, trong đó có ngành ngôn ngữ học. Mặc dù ở
Việt Nam, ngôn ngữ học là ngành khoa học phát triển tƣơng đối muộn (từ
những năm 50 của thế kỷ XX) nhƣng các nhà ngôn ngữ học cũng đã rất
quan tâm đến tục ngữ. Tiếp theo đây là một số ý kiến của các nhà ngôn
ngữ học về vấn đề này.
1.1.5. Quan điểm của Nguyễn Văn Mệnh qua bài báo “Ranh giới giữa
tục ngữ và thành ngữ”[25]

Tác giả bài báo đã cho rằng có thể tìm ra đƣợc những đặc điểm khu
biệt rõ ràng giữa tục ngữ và thành ngữ ở cả phƣơng diện nội dung lẫn
hình thức. “Có thể nói nội dung của thành ngữ mang tính chất hiện tượng
còn nội dung của tục ngữ mang tính chất quy luật. Từ sự khác nhau cơ
bản về nội dung dẫn đến sự khác nhau về hình thức ngữ pháp, về năng
lực hoạt động trong chuỗi lời nói…. Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành
ngữ chỉ là một cụm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Tục ngữ thì
khác hẳn. Mỗi tục ngữ tối thiểu là một câu”.

17

Cũng nhƣ giáo sƣ Vũ Ngọc Phan, tác giả Nguyễn Văn Mệnh cũng
đã phân biệt tục ngữ và thành ngữ dựa trên hai tiêu chí nội dung và hình
thức. Cái mới của Nguyễn Văn Mệnh ở đây là ông đã chứng minh đƣợc
rằng “nếu áp dụng hai tiêu chí đó một cách có phân tích trên cơ sở lý giải
những hiện tượng cụ thể, thì nhất định sẽ làm nảy sinh những yêu cầu đối
với việc xác định bản thân những tiêu chí ấy một cách khoa học, trước khi
dùng nó để lý giải các hiện tượng khoa học.” [25]
1.1.6. Quan niệm của Cù Đình Tú qua bài báo “Góp ý kiến về sự phân
biệt thành ngữ với tục ngữ”[39]
Theo Cù Đình Tú, cần phải có một tiêu chí khác để xác định ranh
giới giữa tục ngữ và thành ngữ vì “thực ra, xét về nội dung, tục ngữ cũng
như thành ngữ đều là sự đúc kết kinh nghiệm, là kết tinh trí tuệ của quần
chúng, đều từ sự khái quát hoá hiện thực để rút ra bản chất quy luật mà
có”. Ông đã viết trong bài báo của mình rằng: “Thành ngữ là một hiện
tƣợng ngôn ngữ. Tục ngữ xét về một mặt nào đó cũng là một hiện tƣợng
ngôn ngữ. Giải quyết các hiện tƣợng ngôn ngữ cần phải dựa vào những
căn cứ ngôn ngữ học. Một trong những thành tựu của ngôn ngữ học hiện
đại là chỉ ra sự khác nhau và mối quan hệ giữa kết cấu và chức năng.
Theo chỗ chúng tôi suy nghĩ, sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục

ngữ là sự khác nhau về chức năng. Thành ngữ là đơn vị có sẵn, mang
chức năng định danh, nói khác đi, dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành
động. Về mặt này mà nói, thành ngữ là những đơn vị tƣơng đƣơng nhƣ
từ… Tục ngữ đứng về mặt ngôn ngữ học có chức năng khác hẳn so với
thành ngữ. Tục ngữ cũng nhƣ các sáng tạo khác của văn học dân gian nhƣ
ca dao, truyện cổ tích, đều là các thông báo…Nó thông báo một nhận định,
một kết luận về một phƣơng diện nào đó của của thế giới giới khách quan.
Do vậy, mỗi tục ngữ đọc lên đều là một câu hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn
một ý tƣởng…”

18

Nhƣ vậy, tác giả Cù Đình Tú đã đƣa ra hai tiêu chí khác làm cơ sở
cho sự phân biệt thành ngữ và tục ngữ. Đó là những sự khác nhau về cấu
tạo ngữ pháp và về vị trí trong lời nói của thành ngữ và tục ngữ. Đóng
góp của Cù Đình Tú là ở chỗ ông đã dùng chức năng làm tiêu chí khu biệt
thành ngữ và đƣa ra kết luận “Thành ngữ có kết cấu một trung tâm và tục
ngữ có kết cấu hai trung tâm.”
Quan điểm của tác giả Cù Đình Tú đã nhận đƣợc sự đồng tình của
nhiều nhà nghiên cứu nhƣ Đái Xuân Ninh, Nguyễn Thiện Giáp. Nhƣng
theo nhóm tác giả cuốn Tục ngữ Việt Nam thì “Vì mới chủ yếu đứng ở
góc độ của ngành ngôn ngữ học để giải quyết vấn đề, nên cách giải quyết
đó vẫn chƣa thực là triệt để.” Và “cần phải xét thành ngữ và tục ngữ
không phải chỉ nhƣ là hai hiện tƣợng ngôn ngữ khác nhau, mà chủ yếu
nhƣ là một hiện tƣợng ngôn ngữ và một hiện tƣợng ý thức xã hội. Cho
nên tiêu chí gốc mà chúng tôi thấy cần phải dựa vào để tìm ra sự phân
biệt giữa thành ngữ và tục ngữ là tiêu chí về nhận thức luận”.
1.1.7.Quan niệm của giáo sư Nguyễn Thiện Giáp
Theo giáo sƣ Nguyễn Thiện Giáp, tục ngữ là những ngữ thông báo.
Trong cuốn “Từ vựng tiếng Việt”(1976), ông đã xem tục ngữ là những

“ngữ mang chức năng thông báo” nhằm phân biệt với các quán ngữ là
những “ngữ mang chức năng nhấn mạnh, đƣa đẩy, rào đón” với thành
ngữ là “những ngữ mang chức năng định danh” [9,17]. Tuy nhiên trong
cuốn “Từ vựng học tiếng Việt” (1985) giáo sƣ Nguyễn Thiện Giáp đã có
những sửa đổi nhƣ sau: “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính
hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm. Ví dụ: chó ngáp phải ruồi, hồn
xiêu phách lạc…Bên cạnh nội dung trí tuệ, các thành ngữ bao giờ cũng kèm
theo các sắc thái bình giá, cảm xúc nhất định…” [10,85]. Trong khi đó thì
“Các tục ngữ cũng được dùng lặp đi lặp lại nhiều lần trong lời nói như một
đơn vị có sẵn; nhưng khác với thành ngữ ở chỗ nghĩa của tục ngữ bao giờ
cũng là một phán đoán. Về mặt nội dung, nghĩa của tục ngữ gần với cụm từ

19

tự do, bởi vì nó không biểu thị một khái niệm như thành ngữ, mà biểu thị
một tổ hợp khái niệm” [10,80].
Nhƣ vậy để định nghĩa cho thật đầy đủ, thật triệt để khái niệm tục
ngữ không phải là việc làm giản đơn nếu không muốn nói là khá phức
tạp. Qua các quan điểm trên đây, chúng tôi thấy rằng đa số các ý kiến
không mâu thuẫn nhau, không loại trừ nhau mà chẳng qua chỉ là vì xuất
phát từ những tiêu chí mang tính chuyên môn khác nhau nên các nhà
nghiên cứu đƣa ra các định nghĩa khác nhau mà thôi. Thực ra, với hầu hết
ngƣời Việt Nam, dù không đƣợc biết đến những định nghĩa trên của các
nhà chuyên môn thì họ vẫn có thể hiểu đƣợc một cách cơ bản đâu là
thành ngữ đâu là tục ngữ. Có thêm những định nghĩa của các nhà chuyên
môn, ngƣời ta lại có đƣợc cơ sở khoa học dể căn cứ vào đó mà phân loại
thành ngữ tục ngữ một cách dễ dàng hơn. Đặc biệt, những định nghĩa này
đóng vai trò rất quan trọng đối các trƣờng hợp mà ranh giới giữa các khái
niệm khó xác định.
1.2. Quan niệm về ca dao

Tƣơng tự nhƣ tục ngữ, khi đƣa ra quan niệm về ca dao, các nhà
nghiên cứu cũng đã có những định nghĩa về ca dao trong tƣơng quan với
phân biệt ca dao với dân ca bởi lẽ trong kho tàng văn học dân gian Việt
Nam cũng không chỉ có ca dao mà còn có cả dân ca. Tuy nhiên, sự phân biệt
ca dao và dân ca không phức tạp nhƣ sự phân biệt tục ngữ với thành ngữ.
Thuật ngữ “ca dao” đã xuất hiện từ khá lâu, từ khi xuất hiện các
sách biên soạn bằng Hán Nôm của các nhà Nho nhƣ Nam giao cổ kim lý
hạng ca dao chú giải (chƣa rõ soạn giả, năm soạn, kí hiệu AB 194 của
Viện nghiên cứu Hán Nôm), Lý hạng ca dao (chƣa rõ soạn giả, năm
soạn), Nam phong giải trào (Trần Danh Án và Ngô Hạo Phu soạn từ
khoảng năm 1788 - 1789), Thanh Hoá quan phong (Vƣơng Duy Trinh
soạn năm 1903), Việt Nam phong sử (Nguyễn Văn Mại), Quốc phong thi
hợp thái (chƣa rõ soạn giả)…

20

Nhƣ vậy, để chỉ thuật ngữ “ca dao”, Trần Danh Án, Ngô Hạo Phu
đã dùng từ Nam phong, Vƣơng Duy Trinh dùng từ quan phong, Nguyễn
Văn Mại dùng từ phong sử, còn soạn giả Quốc phong thi hợp thái dùng
quốc phong.
Đến đầu thế kỷ XX, sách báo chữ quốc ngữ cũng có dùng thuật
ngữ ca dao nhƣ Tục ngữ phong dao (Nguyễn Văn Ngọc biên soạn năm
1928), Tục ngữ ca dao (Phạm Quỳnh - 1932), Ca dao cổ (Tạp chí Nam
phong số 167, Hà Nội 1931), Phong dao cổ (Tạp chí Nam phong số 179,
Hà Nội 1932), Phong dao, ca dao, phương ngôn, tục ngữ (Nguyễn Tấn
(Văn?) Chiểu, Hà Nội 1936).
Phạm vi phản ánh của hai từ ca dao và phong dao có chỗ giống nhau.
Ngƣời xƣa gọi “ca dao là phong dao vì có những bài ca dao phản ánh phong
tục của mỗi địa phƣơng, mỗi thời đại”. Vì vậy, dần dần tên gọi phong dao
cũng ít đƣợc sử dụng nhƣờng chỗ cho một từ ca dao [18,55].

Trong giới nghiên cứu, trong các sách sƣu tầm, so với từ ca dao, từ
dân ca xuất hiện muộn hơn, khoảng những năm 50 của thế kỷ XX. Dân
ca đƣợc chính thức sử dụng bằng sự hiện diện trong cuốn “Tục ngữ và
dân ca Việt Nam” của Giáo sƣ Vũ Ngọc Phan in lần đầu tiên vào năm
1956.
Sau đây là quan niệm về ca dao của một số nhà nghiên cứu.
1.2.1.Định nghĩa của giáo sư Dương Quảng Hàm
Trong “Việt Nam văn học sử yếu”, giáo sƣ Dƣơng Quảng Hàm đã
định nghĩa về ca dao nhƣ sau: “ Ca dao (ca: hát; dao: bài hát không có
chương khúc) là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian, thường tả
tính tình phong tục của người bình dân. Bởi thế ca dao cũng gọi là phong
dao (phong: phong tục) nữa. Ca dao cũng như tục ngữ, không biết tác giả là
ai; chắc lúc ban đầu cũng do một người vì có cảm xúc mà làm nên, rồi
người sau nhớ lấy mà truyền tụng mãi đến bây giờ” [11, 9-10].

21

1.2.2.Quan niệm của giáo sư Vũ Ngọc Phan
Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán Việt. “Ca dao là những bài văn
vần do nhân dân sáng tác. Cũng như tục ngữ, ca dao không rõ tác giả là
ai, được lưu truyền bằng miệng và cũng được phổ biến rộng rãi trong
nhân dân”, còn “dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định. Dân ca
khác với ca dao là nó chỉ được hát lên trong những hoàn cảnh nhất định,
trong những nghề nhất định hay trong những địa phương nhất định”
[35,140]. Tuy nhiên, theo ông, nếu “xét về nguồn gốc và bản chất, ca dao
và dân ca không khác nhau mấy. Có nhiều câu ca dao được phổ vào
nhạc, biến thành bài dân ca” [35,140] và ngƣợc lại, “có một số bài dân
ca biến thành ca dao. Khi ca dao và dân ca chuyển hình thức như vậy thì
nội dung của nó vẫn giữ nguyên, chỉ thêm hay bớt một số tiếng đệm và
tiếng láy” [35,141].

Giáo sƣ Vũ Ngọc Phan còn cho rằng, phong dao và đồng dao cũng
đều là ca dao. Theo đó, “phong dao là những bài ca dao nói về phong tục,
tập quán nào đó. Đồng dao là những bài hát của trẻ, nhƣ những bài “Nu na
nu nống”, “Ông giẳng ông giăng”, “Xúc xắc xúc xẻ”…”
1.2.3. Quan điểm của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân và Lý Hữu Tấn
Theo hai ông, định nghĩa về ca dao của giáo sƣ Dƣơng Quảng Hàm
chƣa nêu đƣợc đầy đủ nội dung và hình thức của ca dao. “Thực ra, nhân
dân sáng tác ca dao là để hát và có những bài hát có cả chương khúc như
làn nhịp đuổi (thí dụ bài “Tay cầm con dao, làm sao cho sắc”…) hoặc
làn hát cách (thí dụ bài “Làm trai quyết chi tu thân, công danh chớ vội
nợ nần chớ lo”…) biến thành những bài ca dao và ngược lại nhiều bài ca
dao thể lục bát có thể hát thành các làn điệu khác nhau và có nhạc kèm
theo. Như vậy, ca dao là những bài hát có hoặc không có chương khúc,
sáng tác bằng thể văn vần của dân tộc (thường là lục bát để miêu tả, tự
sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm). Về các loại khác, cần phân biệt những
bài ca dao nói về phong tục và được truyền đi gọi là phong dao; đồng

22

dao là những bài hát của trẻ con (như bài “Ông giẳng ông giăng”, “Xúc
xắc xúc xẻ”…)”[30,276].
Dân ca là những bài hát có hoặc không có chƣơng khúc do tập thể
nhân dân sáng tác, lƣu truyền trong dân gian ở từng vùng hoặc phổ biến ở
nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị đặc biệt về nhạc. Dân ca
thƣờng có nội dung giống nhƣ ca dao [30,279].
Nhƣ vậy, theo tác giả, chỗ khác nhau cơ bản giữa ca dao và dân ca
là ở hình thức và nhạc điệu. Trong một số dân ca, tiếng đệm, tiếng láy
hoặc tiếng đƣa hơi chen vào lời thơ lục bát của ca dao [30,278-79].
1.2.4. Quan niệm của Nguyễn Xuân Kính
Theo Nguyễn Xuân Kính, ca dao là những sáng tác văn chƣơng

đƣợc phổ biến rộng rãi, đƣợc lƣu truyền qua nhiều thế hệ mang những
đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách. Và ca dao đã trở thành
một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian. Đối với ca dao, ngƣời ta
không chỉ hát mà còn ngâm, đọc, xem bằng mắt thƣờng (khi ca dao đã
đƣợc ghi chép, biên soạn từ cuối thế kỷ XVIII)
1.2.5. Tóm lại, có thể thấy, trong quan niệm của các nhà Nho có sƣu
tầm ghi chép ca dao cũng nhƣ trong quan niệm của giới nghiên cứu văn
học dân gian, thuật ngữ ca dao thƣờng đƣợc hiểu theo ba nghĩa rộng hẹp
khác nhau nhƣ sau:
a. Ca dao là danh từ ghép chỉ chung toàn bộ những bài hát lƣu hành
phổ biến trong dân gian, có hoặc không có khúc điệu.
b. Ca dao là danh từ chỉ những tác phẩm ngôn từ (phần lời ca) của
dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đƣa hơi).
c. Không phải toàn bộ những câu hát của một loại dân ca nào đó cứ
tƣớc bớt tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đƣa hơi… thì sẽ đều là ca dao. Ca dao
là những sáng tác văn chƣơng đƣợc phổ biến rộng rãi, đƣợc lƣu truyền
qua nhiều thế hệ mang những đặc điểm nhất định và bền vững về phong

23

cách. Và ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân
gian [18, 11-12]
Trong luận văn này, chúng tôi tập hợp những bài ca dao hiểu theo
nghĩa thứ hai.
2.NỘI DUNG CỦA TỤC NGỮ, CA DAO NÓI VỀ KINH NGHIỆM SẢN XUẤT
Việt Nam là quốc gia nằm ở góc tận cùng phía đông nam châu Á.
Chính vị trí địa lý này đã quy định nƣớc Việt Nam là một nƣớc nông
nghiệp điển hình với hai nghề chủ đạo là trồng trọt và chăn nuôi.
Từ xa xƣa, khi mà cuộc sống còn rất nghèo nàn, lạc hậu, khi mà kỹ
thuật chƣa phát triển, chữ viết chƣa có… con ngƣời sinh sống và tồn tại

chủ yếu nhờ trồng trọt và chăn nuôi thì đối với con ngƣời nói chung và
ngƣời Việt nói riêng, những hiểu biết bằng kinh nghiệm chính là những
hiểu biết chủ yếu nếu không muốn nói là duy nhất về tự nhiên, về xã hội
cũng nhƣ về chính bản thân con ngƣời. Khi đó, yếu tố chủ yếu tổ hợp
những kinh nghiệm của họ lại thành những dạng hiểu biết nhất định chính
là những sáng tác dân gian, trong đó chủ yếu là tục ngữ và ca dao. Có thể
nói, những hiểu biết đầu tiên của ngƣời Việt đƣợc đúc kết lại thành kinh
nghiệm và diễn đạt bằng ca dao, tục ngữ là những hiểu biết về tự nhiên và
lao động sản xuất.
Những kinh nghiệm về lao động sản xuất đƣợc bao thế hệ ông cha
ta đúc kết lại trong kho tàng ca dao tục ngữ khá phong phú. Những kinh
nghiệm về thời tiết, về trồng trọt, về chăn nuôi… tất cả đều đƣợc diễn đạt
một cách ngắn gọn, súc tích mà vẫn có vần có điệu rất dễ nhớ.
2.1.Về thời tiết
Sở dĩ chúng tôi đƣa những câu ca dao, tục ngữ nói tới những kinh
nghiệm về thời tiết vào trong số những câu ca dao, tục ngữ nói về kinh
nghiệm lao động sản xuất là vì lao động nông nghiệp vốn phụ thuộc rất
nhiều và rất chặt chẽ vào điều kiện thời tiết, khí hậu. Ngƣợc lại, thời tiết
cũng ảnh hƣởng rất nhiều đến nông nghiệp. Nói đến thời tiết là nói đến

24

những hiện tƣợng biến đổi của đất trời nhƣ nhiệt độ, mƣa, gió, hạn hán, lũ
lụt… những hiện tƣợng thay đổi từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này
qua tháng khác, năm này qua năm khác. Trong sản xuất nông nghiệp, điều
cần yếu là con ngƣời phải luôn quan sát, theo dõi các hiện tƣợng thời tiết,
theo dõi tình hình diễn biến của thời tiết để nắm bắt đƣợc quy luật thay đổi
ấy của thời tiết để có những biện pháp và thời điểm trồng trọt và chăn nuôi
cho phù hợp. Đây là điều mà con ngƣời đã làm đƣợc.
Ca dao tục ngữ nói về các hiện tƣợng thời tiết thể hiện óc nhận xét

tinh tế của nhân dân Việt Nam. Nghề nông, nhất là nông nghiệp lúa nƣớc
sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều. Không chỉ phụ thuộc vào một
hai hiện tƣợng riêng lẻ nào mà là cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả: trời,
đất, nắng, mƣa,… Cho nên, ngƣời Việt có câu: “Người ta đi cấy lấy công,
Đây tôi đi cấy còn trông nhiều bề. Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm. Trông cho chân cứng đá
mềm. Trời êm bể lặng mới êm tấm lòng.”
Sống với thiên nhiên, dần dần ngƣời nông dân quen với mây mƣa,
sấm chớp, nóng rét… Tất cả những hiện tƣợng ấy đều đƣợc ghi chép
thành ca dao, tục ngữ. Trong đa số trƣờng hợp, nhân dân ta dự đoán thời
tiết qua việc chiêm nghiệm những triệu chứng báo trƣớc sự thay đổi của
thời tiết. Họ đã đúc kết những kinh nghiệm về mây “Mây kéo xuống bể
thì nắng chang chang”, “Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút”, “Mây
thành vừa hanh vừa giá”, “Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa”…; về
gió: “Trống tháng bảy chẳng hội thì chay, Tháng sáu heo may chẳng
mưa thì bão”, “Tháng bảy heo may, Chuồn chuồn bay thì bão”’, “Tháng
tám gió may tưới đồng.”… Thậm chí về cả những hiện tƣợng điện trong
khí quyển và những hiện tƣợng quang học:“Tháng mười sấm rạp, Tháng
chạp sấm động”, “Ráng mỡ gà thời gió, ráng mỡ chó thời mưa”, “Ráng
vàng thời nắng, ráng trắng thời mưa.”, “Mống cao gió táp, mống rạp
mưa dầm”; có khi nhân dân lại xem phong vũ biểu qua những phản ứng

25

động trời của cây cỏ loài vật. Đây là những kinh nghiệm nhƣng cũng là
những nhận xét tinh vi của những khối óc thông minh: “Tua rua mọc:
vàng cây héo lá, Tua rua lặn: chết cá chết tôm”, “Kiến cánh vỡ tổ bay ra,
Bão táp mưa sa gần tới.”, “Mùa hè đương nắng, cỏ gà trắng thì mưa”…
Chính nhờ nắm bắt đƣợc quy luật của thiên nhiên nên con ngƣời
hoàn toàn khả năng chủ động trong việc chinh phục thiên nhiên. Chinh

phục thiên nhiên là bắt thiên nhiên phục vụ cho con ngƣời. Nhƣng chinh
phục thiên nhiên không có nghĩa là bất chấp tất cả mọi quy luật hoạt động
của thiên nhiên mà vẫn phải: “Giồng cây theo gió, Cấy lúa theo mưa”,
“Gió chiều nào, che chiều ấy”…
Ngƣời nông dân Việt Nam đã nhận thức đƣợc điều này cho nên,
trên những cánh đồng bát ngát của Việt Nam, họ trồng trọt và chăn nuôi
theo thời tiết, hết vụ mùa lại đến vụ chiêm, hết khoai đến đỗ, mỗi tháng là
một sản phẩm, là một công việc rõ ràng:
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày ruộng vỡ ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.
Ai ai cũng vợ cũng chồng,
Chồng cày, vợ cấy trong lòng vui thay.
Những bài ca dao nhƣ trên đƣợc gọi là những bài ca nông lịch.
Nông lịch đã trở thành một kế hoạch sản xuất giản đơn của ngƣời nông
dân Việt Nam. Những bài ca nông lịch còn phản ánh cả tính chất vất vả
của lao động nông nghiệp, tinh thần cần cù chịu khó và ƣớc mơ về một
cuộc sống sung túc. Trong kết cấu của nhiều bài ca, ta thƣờng thấy có xu
hƣớng kết hợp việc miêu tả lao động với những suy nghĩ, cảm xúc thể
hiện những quan điểm chính trị, xã hội của nhân dân lao động. Một bài ca
nông lịch miêu tả việc làm của tháng năm nhƣ sau:
Tháng năm gặt hái đã xong,

×