ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
……….0O0………
NGUYỄN THỊ LAN ANH
ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG CÁC PHÉP LIÊN KẾT
TRONG VĂN BẢN XÃ LUẬN BÁO HÀ NỘI MỚI
( TRÊN TƯ LIỆU TỪ NĂM 2004-2006 )
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ : 602201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN HỮU ĐẠT
HÀNỘI - 2007
1
Mục lục
Trang
MỞ ĐẦU
1
1
Lý do chọn đề tài
1
2
Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2
3
Phạm vi nghiên cứu
2
4
Phương pháp nghiên cứu
3
5
Bố cục luận văn
3
Chương I
Cơ sở lý luận
4
I
Phong cách và thể loại báo chí
4
1
Phong cách báo chí
4
1.1
Định nghĩa phong cách báo chí
4
1.2
Chức năng của báo chí
5
1.3
Tính chất, đặc điểm ngôn ngữ của phong cách báo chí
10
2
Thể loại báo chí
17
2.1
Quan niệm về thể loại báo chí
17
2.2
Xã luận
20
II
Liên kết văn bản
22
1
Khái niệm về văn bản
22
2
Liên kết văn bản
24
2.1
Khái niệm liên kết văn bản
24
2.2
Mạch lạc và liên kết trong văn bản
26
2
2.3
Các phương thức liên kết trong tiếng Việt
29
Tiểu kết
32
Chương II
Khảo sát các phép liên kết trong văn bản xã luận
báo Hà Nội Mới các năm 2004, 2005, 2006
33
1
Phép quy chiếu
33
1.1
Định nghĩa
33
1.2
Phép quy chiếu trong văn bản xã luận báo Hà Nội
Mới các năm 2004 - 2006
37
2
Phép thế
52
2.1
Định nghĩa
52
2.2
Phép thế trong văn bản xã luận báo Hà Nội Mới các
năm 2004 - 2006
54
3
Phép tỉnh lược
57
3.1
Định nghĩa
57
3.2
Phép tỉnh lược trong văn bản xã luận báo Hà Nội Mới
các năm 2004 - 2006
59
4
Phép nối
61
4.1
Định nghĩa
61
4.2
Phép nối trong văn bản xã luận báo Hà Nội Mới các
năm 2004 - 2006
64
5
Phép liên kết từ vựng
70
5.1
Định nghĩa
70
5.2
Phép liên kết từ vựng trong văn bản xã luận báo Hà
Nội Mới các năm 2004 - 2006
73
Tiểu kết
78
3
Chương III
Vai trò của các phép liên kết trong việc tổ
chức văn bản xã luận báo Hà Nội Mới
80
1
Phép nối
80
1.1
Nhận xét chung
80
1.2
Vai trò của phép nối trong việc tổ chức văn bản xã
luận báo Hà Nội Mới
85
2
Phép liên kết từ vựng
87
2.1
Nhận xét chung
87
2.2
Vai trò của phép liên kết từ vựng trong việc tổ chức
văn bản xã luận báo Hà Nội Mới
88
3
Phép quy chiếu
92
3.1
Nhận xét chung
92
3.2
Vai trò của phép quy chiếu trong việc tổ chức văn bản
xã luận báo Hà Nội Mới
93
4
Phép thế
96
4.1
Nhận xét chung
96
4.2
Vai trò của phép thế trong việc tổ chức văn bản xã
luận báo Hà Nội Mới
96
5
Phép tỉnh lược
98
5.1
Nhận xét chung
98
5.2
Vai trò của phép tỉnh lược trong việc tổ chức văn bản
xã luận báo Hà Nội Mới
98
Tiểu kết
101
KẾT LUẬN
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
104
PHỤ LỤC
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với những ứng dụng của khoa học và công nghệ hiện đại,
đặc biệt là cộng nghệ điện tử, loại hình báo chí đang ngày càng phát triển.
Bên cạnh các loại hình báo chí truyền thống, báo chí điện tử xuất hiện và
mang đến nhiều tiện ích tuyệt vời mà không ai có thể phủ nhận. Thế nhưng
cho dù phát triển hiện đại như thế nào đi nữa thì những chức năng cơ bản
của báo chí vẫn không hề thay đổi. Và cho dù ngôn ngữ của các phong
cách khác có thể có chỗ đứng trong một tờ báo (bởi lẽ báo chí hiện đại
ngày nay có thể dung nạp rất nhiều thể loại khác nhau trong đó có cả những
sáng tác văn học, kịch …) thì ngôn ngữ bao trùm lên toàn bộ tờ báo vẫn là
thứ ngôn ngữ báo chí với những đặc điểm nổi bật của nó.
Trong guồng phát triển chung của báo chí nước nhà, báo Hà Nội
Mới đã và đang tạo được chỗ đứng trong lòng bạn đọc, là cơ quan phát
ngôn của thành uỷ thành phố Hà Nội, là tiếng nói của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân Thủ Đô. Trong số các bài được coi là “đinh” của báo Hà
Nội Mới, xã luận giữ một vị trí quan trọng. Nó thể hiện quan điểm, lập
trường của Đảng, Nhà nước trong việc tuyên truyền, chỉ đạo và hướng dẫn
dư luận xã hội. Chính vì thế một bài xã luận chuẩn mực, có tính thuyết
phục là yêu cầu đặt ra với mỗi người cầm bút. Xét về khía cạnh ngôn ngữ
học, để đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng ấy, rất nhiều vấn đề được quan
tâm chẳng hạn: cách sử dụng từ ngữ như thế nào, cấu trúc của câu ra sao và
đặc biệt là mạng lưới liên kết giữa các câu được tổ chức kiểu loại gì? Đây
chính là yếu tố quyết định đến nội dung và sự hấp dẫn của văn bản. Không
có các phương tiện liên kết không thể hiểu văn bản chính xác, rõ ràng.
Xung quanh vấn đề về liên kết và đặc điểm của phương thức liên kết
trước nay đã có nhiều công trình nghiên cứu thế nhưng tìm hiểu về đặc
điểm của các phương thức liên kết ở thể loại văn bản xã luận của báo Hà
Nội Mới thì chưa hề được đề cập đến. Theo hướng triển khai này, qua đề
5
tài: “Đặc điểm sử dụng các phép liên kết trong văn bản xã luận báo Hà Nội
Mới (trên tư liệu từ năm 2004 đến năm 2006)”, luận văn hy vọng sẽ cung
cấp một cái nhìn toàn diện về cách thức tổ chức một văn bản xã luận và đặc
điểm của thể loại văn bản này trong báo Hà Nội Mới những năm gần đây.
Thêm vào đó, luận văn cũng cho thấy được phần nào sự phát triển của tiếng
Việt (mà cụ thể là hệ thống liên kết trong tiếng Việt) ở báo Hà Nội Mới nói
riêng và loại hình báo chí hiện đại nói chung.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Về mặt lý luận: Liên kết câu là một phần không thể thiếu trong việc
xây dựng một văn bản. Thế nhưng trong ngôn ngữ học quan niệm và cách
phân chia các phép liên kết không phải lúc nào cũng như nhau. Trên cơ sở
các lý luận về thể loại báo chí, đặc thù của ngôn ngữ báo chí và đặc điểm
của văn bản xã luận, các phép liên kết trong các văn bản xã luận báo Hà
Nội Mới được tìm hiểu và phân tích theo quan điểm phi cấu trúc tính của
hai tác giả Halliday và Hassan.
- Về mặt thực tiễn: Trong sự phát triển của báo chí hiện đại, chất
lượng của mỗi tờ báo là động lực và cũng là mục tiêu hướng tới của các toà
soạn và bản thân những nhà báo. Đối với xã luận, một thể loại đặc thù của
phong cách báo chí chính luận thì một văn bản chuẩn mực, có sự liên kết cả
về nội dung lẫn hình thức sẽ góp phần quan trọng vào hiệu quả tác động
đến các độc giả.
Xuất phát từ mục tiêu trên, qua việc thống nhất và miêu tả các dạng
biểu hiện của các phép liên kết trong văn bản xã luận báo Hà Nội Mới,
nhiệm vụ của luận văn là nhận diện được các phép liên kết được sử dụng
chủ yếu: tần số xuất hiện, lý giải nguyên nhân và dụng ý của tác giả. Từ đó,
luận văn đưa ra những nhận xét về giá trị biểu đạt và vai trò của các phép
liên kết trong việc tạo lập văn bản xã luận.
3. Phạm vi nghiên cứu
Hà Nội Mới là một tờ báo ngày, chính vì thế số lượng báo phát
hành hàng năm rất lớn. Với thời gian và khả năng cho phép, luận văn chỉ
quan tâm đến các số báo phát hành trong khoảng ba năm gần đây (2004,
6
2005, 2006) và giới hạn phạm vi khảo sát ở các văn bản xã luận mang tính
chỉ đạo, tuyên truyền được đăng tải trong các dịp lễ lớn, những sự kiện
trọng đại của dân tộc trong lịch sử và trong đời sống hàng ngày.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi áp dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp miêu tả thống kê: Trên cơ sở là các văn bản xã luận
thu thập được chúng tôi tiến hành khảo sát phép liên kết được sử dụng ở
từng văn bản: loại liên kết (cụ thể đến từng tiểu loại của chúng), cách thức
thể hiện ra sao và số lần xuất hiện như thế nào?
- Phương pháp so sánh: Từ con số thống kê tổng hợp, chúng tôi
thực hiện thao tác miêu tả cụ thể các phép liên kết (dạng biểu hiện và dụng
ý của tác giả). Sau đó, chúng tôi đối chiếu, so sánh điểm giống, khác nhau
và rút ra vai trò của chúng đối với việc xây dựng, tổ chức các văn bản xã
luận.
- Phương pháp cải biến: Bằng việc thay thế, thêm bớt hay đổi vị trí
của các yếu tố làm nhiệm vụ liên kết trong từng phương thức liên kết cụ
thể, luận văn chỉ ra sự khác biệt ngữ nghĩa giữa các cấu trúc, một lần nữa
khẳng định vai trò của các phép liên kết trong văn bản xã luận.
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm có 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận
- Chương II: Khảo sát các phép liên kết trong văn bản xã luận báo Hà
Nội Mới các năm 2004, 2005, 2006.
- Chương III: Vai trò của các phép liên kết trong tổ chức văn bản xã
luận báo Hà Nội Mới.
7
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. PHONG CÁCH BÁO CHÍ VÀ THỂ LOẠI BÁO CHÍ
1. Phong cách báo chí.
1.1 Định nghĩa phong cách báo chí
Theo tác giả Hữu Đạt [8]: Phong cách báo chí là một phong cách chức
năng được sử dụng hàng ngày trên các báo, tạp chí ấn hành từ trung ương
xuống địa phương. Phong cách báo chí là khuôn mẫu thích hợp để xây
dựng lớp văn bản trong đó thể hiện vai trò của người tham gia giao tiếp
trong lĩnh vực báo. Cụ thể hơn đó là vai trò của nhà báo, người đưa tin,
người cổ động, người quảng cáo, bạn đọc… tất cả những ai tham gia vào
hoạt động thông tin của xã hội. Tác giả Đức Dũng trong cuốn “ Viết báo
như thế nào” [7] đã định nghĩa: Báo chí là một hình thái ý thức xã hội lấy
hiện thực khách quan là đối tượng để phản ánh. Thông tin trong báo chí là
một quá trình liên tục, xuyên suốt trong mối quan hệ trực tiếp giữa nhà báo
– tác phẩm báo chí – công chúng báo chí. Đứng trước một thế giới hiện
thực chứa đầy thông tin, báo chí có những cách thức riêng với mục đích
nhằm tới nhiều tầng lớp xã hội có những mối quan tâm, sở thích không
giống nhau. Hiện nay, báo chí là một hoạt động thông tin đại chúng nhất,
năng động nhất. Trên cơ sở những đặc trưng riêng, báo chí đã tạo ra những
cách tiếp cận và phản ánh không giống với những hình thức phản ánh hiện
thực của các phong cách chức năng khác.
Cũng theo tác giả Hữu Đạt [8] ngôn ngữ được sử dụng trong phong
cách báo tồn tại ở cả dạng nói và dạng viết. Ở dạng nói có những bản tin
hằng ngày, những mục thông tin quảng cáo trên đài phát thanh, truyền hình.
Ở dạng viết là những văn bản những bài viết, những mẩu tin trên báo, tờ
tin, ngay cả những mẩu quảng cáo hay rao vặt được viết trên giấy phát nơi
đông người (mà chúng ta vẫn quen gọi là tờ rơi)…
8
Ngày nay sự bùng nổ thông tin cùng với sự phát triển mau lẹ của
công nghệ tin học đã có những tác động sâu sắc tới báo chí, tạo ra những
điều kiện quan trọng để báo chí thể hiện sức mạnh của nó một cách sâu sắc,
toàn diện và hiệu quả hơn. Trước sự xuất hiện của internet và những tiện
ích tuyệt vời mà nó mang lại, người ta có thể có lý do để lo ngại cho số
phận của báo in, phát thanh và truyền hình. Tuy nhiên, chính những nhu
cầu đích thực của cuộc sống mới là nguyên nhân quyết định sự tồn tại của
mỗi loại hình báo chí. Chẳng hạn, đứng trước một sự kiện có ảnh hưởng
lớn đến đời sống xã hội vừa xảy ra, các cơ quan báo chí cùng phản ánh,
nhưng mỗi nơi lại chọn cho mình một cách khai thác thông tin để thu hút
độc giả: phát thanh có thể đưa tin, truyền hình diễn tả còn báo in thì bình
luận. Có nghĩa là trong đời sống báo chí hiện đại, các loại hình báo chí
khác nhau vẫn tồn tại bên cạnh nhau bổ sung cho nhau để cùng phát triển.
Báo chí điện tử dù hiện đại và tiện dụng đến mức nào chăng nữa vấn không
thể thay thế hoàn toàn cho những loại hình báo chí khác.
1.2 Chức năng của báo chí
Là một hoạt động chính trị - xã hội ra đời do nhu cầu khách quan của
xã hội, đã phát triển đến một trình độ nhất định, báo chí mang trong mình
những tiền năng to lớn đối với đời sống xã hội. Bản thân sự ra đời và phát
triển của báo chí đã khẳng định một cách khách quan vai trò, tác dụng và ý
nghĩa của nó trong xã hội. Tổng hợp những vai trò, tác dụng của báo chí
cũng chính là một chức năng xã hội của nó.
Theo các tác giả Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang
trong cuốn “ Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” [30] thì chức năng của
báo chí được phân thành các nhóm cơ bản sau: Nhóm chức năng tư tưởng,
nhóm chức năng quản lý và nhóm chức năng phát triển văn hoá giải trí.
Nhiệm vụ của công tác tư tưởng là liên kết những thành viên riêng rẽ
của xã hội thành một khối thống nhất trên cơ sở một lập trường chính trị
chung, từ đó có thái độ tích cực để xây dựng và cải tạo xã hội. Vì vậy chức
năng có tính mục đích đầu tiên trong hoạt động tư tưởng của báo chí chính
trị là nâng cao tính tự giác của quần chúng. Bằng việc thông tin những sự
9
kiện, hiện tượng một cách trung thực, khách quan báo chí định hướng dư
luận xã hội thông qua các hoạt động tuyên truyền, cổ động và tổ chức.
Báo chí thực hiện chức năng quản lý xã hội bằng việc cung cấp và
đảm bảo nguồn thông tin theo cả hai chiều: một mặt đăng tải, bình luận,
phân tích các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước để các cấp,
ngành và người dân nắm bắt, thực thi một cách có hiệu quả, hay phản ánh
tình hình thực tế ở từng cơ sở; mặt khác báo chí cũng tham gia vào việc
kiểm tra các thành phần xã hội trong việc thực hiện các chủ trương, chính
sách ấy và là công cụ đắc lực trong cuộc đấu tranh chống các hiện tượng
tiêu cực trong đời sống kinh tế - xã hội.
Bên cạnh chức năng tư tưởng và chức năng quản lý xã hội, báo chí
thực hiện chức năng phát triển văn hoá và giải trí qua việc quan tâm thích
đáng đến những giá trị văn hoá - nhân văn.[22]
Cùng bàn về vai trò của báo chí, tác giả Đinh Trọng Lạc nhấn mạnh
hơn vào chức năng của ngôn ngữ trong phong cách báo chí. Đó là chức
năng giao tiếp lý trí và chức năng tác động của báo chí (định hướng các dư
luận xã hội). Tác giả Hữu Đạt ngoài hai chức năng trên còn đề cập đến
chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng. Dưới đây xin được trình bày
chi tiết hơn về các chức năng của báo chí theo quan điểm của tác giả
Hữu Đạt [8]
1.2.1 Chức năng thông báo (thông tin)
Trong cuốn sách “Bước vào nghề báo” [dẫn theo1], hai tác giả
Lêônac Râytin và RônTaylơ đã cho rằng: Nếu như chỉ được nói một câu về
báo chí, câu nói đó sẽ là “cái gì mới”. Có lẽ đây là cách nói ngắn gọn nhất
về báo chí. Điều đó cũng phần nào cho thấy chức năng của báo chí gắn liền
với nhu cầu hiểu biết của con người về những cái mới. Tác giả Đức Dũng
(Viết báo như thế nào) [7] cũng khẳng định đây là chức năng cơ bản có tầm
quan trọng hàng đầu của báo chí trong bối cảnh của thế giới hiện đại. Cứ
thử tưởng tượng chúng ta đang sống trong một thế giới mà ai cũng chỉ biết
việc của mình, khu vực nào cũng chỉ biết khu vực đó. Điều đó là không thể.
Thực tế là mặc dù báo chí định kỳ mới xuất hiện từ đầu thế kỷ 17, nhưng
10
những hình thức trao đổi thông tin thì đã từng xuất hiện trong buổi bình
minh của nhân loại. Sự phát triển của xã hội làm cho mọi thành viên của nó
có quan hệ mật thiết với nhau hơn, đồng thời xuất hiện nhu cầu cần phải
trao đổi với nhau. Lúc bấy giờ, mặc dù chưa thể nói đến sự tồn tại của báo
chí theo cái nghĩa chính xác của từ này nhưng vẫn có những nhóm có tổ
chức để phổ biến tin tức trong những bộ phận công chúng. Chẳng hạn, thời
các vương triều Ai Cập cổ đại đã xuất hiện loại báo chí thảo (viết lên lá
cây, ván gỗ, vỏ cây…) Trong các nhà nước La Mã cổ đại (từ thế kỷ I trước
công nguyên đến thế kỷ IV SCN) đã xuất bản những bản tin tổng hợp gọi là
Actapublica và Actadiurna populiromami (Acta). Lúc đầu đó là những sắc
lệnh, chỉ thị của Xêda. Tin tức được viết lên một tấm bảng bằng thạch cao
và treo lên chỗ công cộng, dễ nhìn thấy. “Acta” được sao ra nhiều bản rồi
gửi đến các thành phố và các tỉnh trong đế quốc La Mã cho các quan chức
đia phương, các thủ lĩnh quân sự và dân chúng biết để thi hành mệnh lệnh
của chính quyền trung ương. [30] Cùng với thời gian, những cơ quan thông
tin đã phải trải qua một quá trình hình thành và phát triển trong những thời
kỳ khác nhau của xã hội có giai cấp. Hiện nay, khái niệm thông tin ở dạng
hoàn chỉnh đồng nghĩa với việc thông tin báo chí phải cung cấp đầy đủ về
mọi mặt và dưới mọi hình thức. Điều này trả lời cho câu hỏi báo chí thực
hiện chức năng thông báo như thế nào: nội dung thông báo và cách thức
thông báo?
Sự khác biệt giữa thông tin báo chí với các loại hình thông tin khác
trước hết là ở chỗ thông tin báo chí đề cập đến những cái mới của đời sống
một cách xác thực, và đặc biệt chú ý đến định hướng chính trị trong thông
tin. Bởi lẽ mặc dù chúng ta đều biết các vấn đề, sự kiện khách quan là đối
tượng phản ánh của báo chí nhưng những sự thật đó khi từ đối tượng
chuyển hoá thành nội dung thông tin của báo chí còn mang tính khách quan
hay không còn phụ thuộc vào hàng loạt yếu tố khác, trong đó đặc biệt là
quan điểm chính trị của nhà báo ( cách tiếp cận sự kiện, cách lựa chọn các
chi tiết, cách thẩm định , lý giải, đánh giá sự kiện…)
1.2.2 Chức năng tác động
11
Có thể nói, chức năng tác động luôn luôn đi kèm với chức năng
thông báo. Trong công trình của mình Rôrentơl cũng đã khẳng định:
“Trong phong cách báo chí, chức năng tác động luôn được hiện thực hoá
cùng với chức năng thông báo thuần tuý” [ dẫn theo 30]. Thực tế khi lĩnh
hội thông tin bao giờ trong tâm lý người đọc cũng xảy ra “ phản ứng” hay
là sự phản hồi đối với thông tin. Độc giả không thể chỉ đón nhận thông tin
một cách đại khái rồi để đấy mà không nhận xét nó theo một quan điểm
này hay một quan điểm khác. Cho nên thông tin không chỉ “nhập vào” mà
còn “hoạt động” trong nhận thức của con người. Gần đây, báo Hà Nội Mới
có một chuyên mục nhỏ với tên gọi “ Chào ngày mới” thu hút được sự
quan tâm của đông đảo bạn đọc. Chỉ chiếm một diện tích khá khiêm tốn
trên trang nhất của báo nhưng “Chào ngày mới” cung cấp cho bạn đọc
những vấn đề, sự kiện nổi bật trong ngày và trong thời gian sắp tới. Chẳng
hạn như bài “Tràn ngập khí xuân” số 13607 ra ngày 3-1-2007, bài “ Nguy
hại không chỉ là lớn” số 13640 ra ngày 5-2-2007, (đề cập đến việc an toàn
thực phẩm ngày Tết), bài “Khoảng cách” số 13630 ngày 26-1-2007 (đề cập
đến mức lương và thưởng Tết của các doanh nghiệp)… và một loạt các bài
viết khác đề cập đến những vấn đề nổi cộm trong dịp “năm hết Tết đến”.
Khi báo chí thuyết phục công chúng, hướng họ tới những ý nghĩ và
hành động cụ thể, thiết thực thì báo chí tự nó đã mang những thông tin có
tính chất hướng dẫn. Hay nói cách khác, báo chí đã tạo nên dư luận xã hội
và định hướng dư luận xã hội. Thông thường những thông tin được cập
nhật trong sự “xô đẩy” với cái đã có sẵn từ trước tạo nên nhiều hướng tư
duy và vận dụng, tuỳ thuộc vào quyền lợi, phẩm chất, năng lực của độc giả.
Trong những điều kiện khác nhau công chúng sẽ lĩnh hội và xử lý thông tin
không giống nhau, có thể tích cực hoặc tiêu cực. Thậm chí nhiều trường
hợp một tác phẩm chỉ thuần tuý mang tính chất thông báo, phán ánh sự
kiện nhưng trong sự “cọ sát” với những thông tin đã có trước đó, có thể sẽ
là nguyên nhân hình thành nên dư luận xã hội mới. Chính vì thế ngôn ngữ
báo chí luôn phải đảm nhiệm một nhiệm vụ to lớn là hướng dẫn dư luận và
tác động đến dư luận làm cho người đọc hiểu được bản chất của sự thật để
phân biệt rõ đâu là chân lý, đâu là nguỵ biện, đâu là thật, đâu là giả.
12
Ănghen trong tác phẩm của mình tin tưởng chắc chắn rằng báo chí cần phải
“ phản ánh sự kiện một cách đầy đủ, phản ánh được tình hình của xã hội
văn minh hiện đại, nó sẽ phục vụ đắc lực cho công tác tuyên truyền của
chúng ta và bằng “ngôn ngữ” hùng hồn của sự kiện nó sẽ “truyền bá” sự
cần thiết những biến đổi căn bản” [ 18]
1.2.3 Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng
Khi thực hiện hướng dẫn và tác động dư luận, báo chí tự nó đã có sức
quy tụ bạn đọc về phía mình. Nói cách khác sự thu hút của ngôn ngữ báo
chí đã tạo ra khả năng tập hợp và tổ chức quần chúng rất lớn. Mặc dù đại
diện cho công luận xã hội nhưng mỗi tờ báo thực chất lại đại diện cho mỗi
nhóm người hay một tập đoàn người trong xã hội. Vì thế “ các nhà tỷ phú,
triệu phú không bao giờ dùng đài phát thanh, báo chí của chúng một cách
vô ích cả”. (LêNin) [30]
Với báo chí Cách mạng của nước ta, Đảng ta cũng xác định báo chí
là một phương tiện quan trọng giúp thực hiện chức năng giáo dục chính trị
tư tưởng cho quần chúng. Bằng việc thông tin những sự kiên, hiện tượng,
quá trình của đời sống xã hội một cách trung thực, khách quan; phản ánh
kịp thời, phong phú các sự kiện kết hợp với sự minh chứng chặt chẽ và
khoa học là cơ sở tạo nên chất lượng mới trong nhận thức đến hành động.
Khi bàn về chức năng này tác giả Hữu Đạt [8] đã phân tích khá đầy đủ về
vai trò tập hợp và tổ chức quần chúng qua thực tiễn của báo chí cách mạng
thời kỳ bí mật trước khi cách mạng giành được chính quyền và vai trò của
báo chí trong suốt hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Hàng loạt
những tờ báo cách mạng như: tờ Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc khởi
xướng và lãnh đạo ra đời năm 1925, tờ Dân Chúng trong thời kỳ Mặt trận
Dân chủ, tờ Cờ Giải Phóng thời kỳ giành chính quyền, tờ Sự Thật thời kỳ
đầu kháng chiến chống Pháp, Các tờ Nhân Dân, Quân đội Nhân Dân sau
này… Tác giả Hữu Đạt cũng phân biệt khá rõ sự khác nhau giữa chức năng
tác động, hướng dẫn dư luận và chức năng tập hợp, tổ chức quẩn chúng, thể
hiện qua ngôn ngữ của báo: “Khi thực hiện chức năng hướng dẫn dư luận
và tác đông dư luận, các bài báo thường sử dụng các câu hỏi tu từ kiểu như:
“Vì sao có thể làm ngơ trước hành động sai trái pháp luật” “Cần phải làm
13
gì trước hiện tượng tiêu cực mới nảy sinh ở xí nghiệp Quyết Thắng?” “Tại
sao vụ án phải xử đi xử lại?” “Phải chăng nên xử phạt công minh?” “Cần
có những biện pháp kịp thời để giải quyết vấn để nước thải của thành
phố”… Khi thực hiện chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng, ngôn ngữ
báo thiên về cách dùng câu mệnh lệnh, kêu gọi. Điều đó có thể nhận ra
ngay trong tên gọi của các tờ báo. Ví dụ: “Tiến lên”, “Tập hợp”, “Công
nông binh”. Các câu hỏi mệnh lệnh thường dùng với các từ: hãy, không
thể, phải đoàn kết lại, cần xiết chặt đội ngũ….[ 8]
Trong thực tế gần đây, chức năng tác động và tập hợp quần chúng
của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng được phát huy (có thể
nói) một cách sâu sắc và triệt để trong toàn xã hội khi các cơ quan truyền
thông này tuyên truyền vận động quần chúng ủng hộ cho quỹ vì người
nghèo. Hàng loạt các bài báo, các chương trình truyền hình lớn như Lá lành
đùm là rách, Quỹ tấm lòng vàng,Triệu trái tim một tấm lòng, Ngày vì người
nghèo… đã có sức lay động lớn, quy tụ được sự đoàn kết của toàn dân,
đúng như lời dạy của Hồ Chủ Tịch: “Tờ báo chỉ là giấy trắng, mực đen mà
thôi. Nhưng với giấy trắng mực đen ấy người ta có thể viết những bức tối
hậu thư, người ta có thể viết những bức thư yêu đương”.
1.3 Tính chất, đặc điểm ngôn ngữ của phong cách báo chí
1.3.1. Tính chính xác.
Theo tác giả Hoàng Anh [1] “Khi khảo sát các đặc điểm và tính chất
của ngôn ngữ báo chí, xuất phát từ góc độ chức năng của nó, thì tính chính
xác của ngôn ngữ báo chí có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”.
Như chúng ta đều biết chức năng cơ bản hàng đầu của báo chí là
thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập đến các sự
kiện. Sự kiện chính là nhân tố để từ đó báo chí thực hiện các chức năng
định hướng dư luận xã hội và tập hợp tổ chức quần chúng. Xuất phát từ
nhiệm vụ chính trị như vậy nên ngôn ngữ báo chí phải tuyệt đối chính xác
từ cách dùng từ, đặt câu. Từ ngữ phải rõ nghĩa, cấu trúc câu đơn giản, dễ
hiểu, tránh những kiểu câu trùng điệp, nhiều tầng bậc, nhiều ý, câu mơ hồ
kiểu như một người đó, một nơi nào đó…. Thực tế báo chí cho thấy chỉ cần
14
một sơ suất (dù rất nhỏ) về ngôn từ cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu
hay hiểu sai thông tin. Mà hậu quả xã hội kéo theo sau đó thì không thể
lường trước được.
Tính chính xác của ngôn ngữ báo chí còn đòi hỏi phải cụ thể trong
việc xác định, miêu tả đối tượng hoặc mảng hiện thực được đề cập đến.
Hay nói cách khác là phải tạo ra “ sự xác định” cho đối tượng được phản
ánh. Yêu cầu đầu tiên dễ thấy là mỗi sự kiện nhắc đến trong bài báo phải
gắn liền với không gian, thời gian xác định, với những con người có tên
tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, địa chỉ… cụ thể mà qua đó việc kiểm chứng
thông tin là có thể thực hiện được. Người ta vẫn thường nhắc đến một công
thức chung, rất cổ điển (6W+ H), cho các nhà báo khi đặt bút viết là phải
xác định trả lời cho các câu hỏi: What? (Cái gì?), Where? (Ở đâu?), When?
(Khi nào?),Who?/Which? (Ai?/ Của ai?), Why? (Tại sao?), How? (Như thế
nào?)[7]. Điều này cho thấy yêu cầu về tính cụ thể, chính xác của ngôn ngữ
báo chí luôn được đặt lên hàng đầu. Và muốn có sự chính xác về thông tin,
sự kiện cần phải có cả phong cách trình bày rõ ràng, mạch lạc. Về phương
diện này thì cấu trúc không chỉ của cả bài viết mà cấu trúc của từng đoạn,
từng câu phải logic, dễ hiểu; việc sử dụng từ ngữ phải chính xác và phù hợp.
Để đảm bảo ngôn ngữ báo chí luôn có tính chính xác các nhà báo
không chỉ nắm vững và không ngừng trau dồi vốn tiếng mẹ đẻ (như học
hỏi, tìm hiểu để biết thêm về các sắc thái biểu cảm, về phong cách sử dụng,
mở rộng vốn tiếng, từ vựng, ngữ âm…) mà còn phải bám sát các sự kiện có
thực và nguyên dạng để phản ánh như nó vốn có, không hư cấu, không
thêm bớt.
1.3.2 Tính đại chúng
Nếu như tính chính xác yêu cầu từ ngữ, câu cú diễn tả đúng như bản
chất của sự kiện hay đối tượng thì tính đại chúng đặt ra cho người viết báo
phải lựa chọn ngôn ngữ và dùng nó sao cho thích hợp với tất cả các tầng
lớp trong xã hội. Nói đơn giản thì đó là viết đúng và viết dễ hiểu.
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng, điều đó có nghĩa là ngôn
ngữ báo chí phải có tính phổ cập, phải dành cho đông đảo bạn đọc trong xã
15
hội chứ không chỉ phục vụ riêng cho một tập đoàn nào[1].Vì vậy trong các
tác phẩm báo chí từ ngữ phải đơn giản, dễ hiểu và phổ thông. Người ta ít
dùng các thụât ngữ chuyên ngành hẹp, các từ địa phương, tiếng lóng hay
các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài. Nếu có sử dụng thì các từ ngữ đó
để phục vụ cho một dụng ý nghệ thuật nào đó, ví dụ ngôn từ trong các tác
phẩm trào phúng, châm biếm, đả kích có thể ở rất nhiều dạng khác nhau…
Thực tế có nhiều tờ báo ngành như báo Hải quan, báo Điện lực, báo Biên
phòng….(tất nhiên những tờ báo này là cơ quan ngôn luận trực thuộc Bộ
chủ quản) nhưng nó chỉ giới hạn và khoanh vùng về nội dung trong một
ngành, một lĩnh vực cụ thể còn về mặt ngôn ngữ thì vẫn phải mang tính đại
chúng. Loại trừ trường hợp các bài có tính chất nghiên cứu chuyên sâu,
những công bố, hay lý giải khoa học…
Thêm vào đó ngôn ngữ báo chí thường hay sử dụng các “khuôn
mẫu”. Đó là những mô hình ngôn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại, rất
thích hợp với việc đưa tin cập nhật và tức thời. Chẳng hạn một loại khuôn
mẫu rất hay gặp trong các bản tin là các bài đưa tin về các chuyến viếng
thăm và làm việc của các nguyên thủ quốc gia. Ví dụ như: “ Thông cáo
báo chí về cuộc hội kiến giữa Thủ tướng Nguyến Tấn Dũng và Toà
Thánh Va-ti-căng” (Hà Nội Mới số 13630 ra ngày 26-1-2007):
“ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Cộng hoà I-ta-li-a.
Theo đặc phái viên TTXVN, ngày 25-1, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã đến thủ đô Rôma, bắt đầu chuyến
thăm chính thức…. theo lời mời của…
Ngay sau lễ đón, Thủ tướng đã hội đàm với…
Tại hội đàm, hai bên đã thông báo cho nhau tình hình của mỗi nước,
trao đổi ý kiến sâu rộng về hợp tác song phương và một số vấn đề khu vực
và quốc tế mà hai bên cùng nhau quan tâm.
Thủ tướng cũng bày tỏ vui mừng…
Cùng ngày, Thủ tướng đã tiếp…”
Nhờ có những khuôn mẫu như vậy mà cả nhà báo lẫn độc
giả đều có thể có được những tiện ích trong việc truyền đạt và tiếp
16
nhận thông tin. Tuy nhiên, thường thì sự việc nào cũng có tính
chất hai mặt, nếu quá “lạm dụng” khuôn mẫu sẽ gây “sáo và
nhàm”.
Bên cạnh đó, tính đại chúng của báo chí không có nghĩa là chung
chung, trừu tượng. Bất cứ một ý tưởng nào, không phụ thuộc vào chúng
đơn giản hay phức tạp, cũng sẽ được độc giả hiểu dễ dàng hơn nhiều nếu
nó được phản ánh không phải qua các suy luận trìu tượng mà bằng cách
viết, cách suy luận đơn giản, gần gũi với cuộc sống.
1.3.3 Tính ngắn gọn và biểu cảm
Trong cuốn Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí [1], tác
giả Hoàng Anh cho rằng: “Một biểu hiện dễ nhận thấy của tính ngắn gọn là
các bài báo hiện nay thường bị giới hạn trong một khoảng thời gian hay
một diện tích nhất định”.
Thông thường mỗi bài viết đều bị qui định trong một khuôn khổ với
một lượng chữ cụ thể. Đối với nhũng bài “không đặt trước” biên tập viên
buộc phải chỉnh lý, cắt xén cho thích ứng khi lên trang báo. Thậm chí hiện
nay không ít toà soạn thi tuyển đòi hỏi đối tượng dự thi phải viết một hay
một số văn bản với độ dài cho sẵn. Đó là biểu hiện về hình thức khuôn khổ
của bài báo, nhưng chính nó cũng là một trong những nguyên nhân quy
định tính ngắn gọn của các từ ngữ và cấu trúc câu được lựa chọn để biểu
đạt, nó thôi thúc nhà báo phải lựa chọn từ ngữ, cách viết sao cho phù hợp
nhất, đạt được hiệu quả cao nhất. Việc biết cách lựa chọn những từ, tập hợp
từ rồi kiểu nói thành công hơn cả để diễn tả các ý tưởng của mình một cách
chính xác và rõ nét cũng như để có một phong cách trình bày rành mạch và
dễ hiểu đối với nhà báo có ý nghĩa rất quan trọng.
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, chính xác. Sự dài dòng có thể làm
loãng thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người
nghe. Đó là chưa kể đến việc không ai dám chắc viết dài lại không dễ mắc
phải nhiều dạng lỗi khác như các lỗi về liên kết câu, câu thiếu thành phần,
câu trùng điệp nhiều tầng lớp hay các lỗi lặp từ, ngữ…
17
Tuy nhiên, tính ngắn gọn của ngôn ngữ trong phong cách báo chí
không đồng nghĩa với khô khan, cứng nhắc. Ở đây ngắn gọn mà vấn đủ ý,
ngắn gọn nhưng lại biểu cảm. Đây chính là điểm khác biệt của ngôn ngữ
phong cách này với một số phong cách khác như phong cách khoa học,
phong cách hành chính – công vụ. Nhờ có tính chất này mà ngôn ngữ báo
chí không chỉ tác động vào lý trí của độc giả mà còn tác động mạnh mẽ tới
tình cảm của họ. Tác giả Hoàng Anh trong cuốn “ Một số vấn đề sử dụng
ngôn ngữ trên báo chí” [1] đã phân tích khá đầy đủ một số thủ pháp nhằm
tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí để nhờ đó thông tin trở
nên sinh động, hấp dẫn, dễ đọc và dễ tiếp thu hơn đối với độc giả. Có
những thủ pháp tưởng chừng rất đơn giản nhưng hiệu quả đem đến lại
không ngờ như việc dùng dấu câu, dùng từ ngữ hội thoại, nói dựa, trích
dẫn, sử dụng chất liệu văn học… Bên cạnh đó có những thủ pháp đã trở
nên khá quen thuộc như: chơi chữ; dùng ẩn dụ; sử dụng thành ngữ, tục ngữ,
danh ngôn cùng các biến thể của chúng.
1.3.4 Tính hấp dẫn và thuyết phục
Hấp dẫn và thuyết phục là tiêu chí hướng tới của bất cứ một
tờ báo nào, nhất là trong thời đại mà báo chí đang rất phát triển và
cuộc cạnh tranh bạn đọc đang diễn ra ngày càng quyết liệt. Trong
tổng thể chung đó đòi hỏi mỗi thể loại, mỗi bài viết phải tạo nên
được sức lôi cuốn cho riêng mình. Tất nhiên mỗi loại hình đều có
đặc thù riêng về phương thức biểu hiện hay nói cách khác là có
khuôn mẫu quy định về phong cách diễn đạt. Thế nhưng về cơ
bản sức lôi cuốn và thuyết phục của một bài viết phải là sự kết
hợp của hai phương diện nội dung và hình thức:
- Về phương diện nội dung:
Muốn bạn đọc không cảm thấy nhàm chán thì nội dung thông tin
trong báo chí phải xác thực và được cập nhật thường xuyên. Có
khi cùng một nội dung với nhiều tờ báo khác nhưng nó phải được
khai thác ở những khía cạnh khác, mới mẻ và là vấn đề đang được
18
độc giả quan tâm. Nếu bài báo cung cấp được cả sự phản hồi theo
nhiều chiều của dư luận xã hội về vấn đề đó thì sức lôi cuốn của
tờ báo càng lớn.
- Về phương diện hình thức:
Điều đầu tiên tác động trực quan tới lý trí bạn đọc đó là tít bài. Một tít bài
phù hợp với nội dung chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ, muốn thu hút độc
giả hướng vào mình thì bài viết phải có một tít bài lôi cuốn. Tác giả Hoàng
Anh có lưu ý tới một số thủ pháp và một số cách thường dùng để xây dựng
tít bài như: đối lập tiêu đề và nội dung, tiêu đề dạng câu hỏi, dạng bình
luận,…(Ở đây tác giả sử dụng tên gọi tiêu đề thay cho tít bài). Ví dụ các
tiêu đề giật gân dùng để khêu gợi sự chú ý của tác giả, chúng rất hiệu quả
trong việc tạo ra những cảm hứng ban đầu khiến cho độc giả phải đọc toàn
bộ bài báo nhằm thoả mãn tính hiếu kỳ của mình… các tiêu đề nêu đích
danh sự việc giật gân, như: Thi hành án tử hình bằng phạt cười, Cụ già 92
tuổi mọc… răng khôn (An ninh thế giới, 25/9/1998), Các nam ca sỹ ngày
càng đẹp… gái (Thể thao và văn hoá, 17/6/2001) [1]
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng tít bài mới chỉ là “những cảm
hứng ban đầu” còn cái độc giả quan tâm vẫn là phần nội dung được trình
bày sau đó. “Do đó, sự hấp dẫn về mặt hình thức của báo phải bao gồm
một tổng thể hình thức: từ cách trình bày đến các hình ảnh phụ hoạ (kênh
hình). Cuối cùng là các biện pháp sử dụng ngôn ngữ, trong đó có việc
lựa chọn từ, ngữ. Đặc biệt là cách tạo ra những kiểu kết hợp bất ngờ, gây
ấn tượng mạnh về ngữ nghĩa sẽ có tác dụng rất lớn với sự cảm nhận và
tri giác của người đọc”[8].
Để tạo nên tính hấp dẫn thì ngoài việc ngôn ngữ báo chí phải đảm
bảo các tính chất như đã phân tích ở các phần trước: tính chính xác, tính đại
chúng, tính ngắn gọn biểu cảm thì còn phải vận dụng một số biện pháp tăng
thêm sức lôi cuốn như:
- “Sử dụng từ độc đáo
- Kiến tạo những kết hợp từ độc đáo, bất ngờ
19
- Sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao một cách sáng tạo và
có hiệu quả.
- Sử dụng tốt các biện pháp chơi chữ dựa trên đặc điểm ngôn
ngữ dân tộc”[1]
Có thể bắt gặp rất nhiều biến thể hay, lạ từ những câu ca dao, tục ngữ,
tên riêng…
Ví dụ:
- Sông Tô mà không lịch (Văn hoá, 17/5/1999)[1]
- Tiên học lễ, hậu học…võ [8]
- Sầu riêng với nỗi buồn chung (Phụ nữ Việt Nam, 25/6/1999) [1]…
Các biện pháp trên dù có khả năng hấp dẫn thì vẫn phải
đảm bảo được các nguyên tắc của nền báo chí cách mạng lành
mạnh như sự phù hợp giữa nội dung và các logic ngữ nghĩa, đáp
ứng được yêu cầu về giáo dục thẩm mỹ và bản sắc văn hoá dân
tộc, nói cách khác là hấp dẫn mà vẫn có định hướng.
1.3.5 Tính chiến đấu mạnh mẽ
Trong suốt những năm 30 của thế kỷ XX, báo chí đã đóng
một vai trò quan trọng, là công cụ đấu tranh sắc bén của cách
mạng Việt Nam trên mặt trận văn hoá tư tưởng. Nền báo chí Cách
mạng của chúng ta lúc công khai khi bí mật, không chỉ phát huy
tác dụng vạch trần tội ác và bản chất xấu xa của đế quốc, thực dân
xâm lược mà còn có sức lôi cuốn, quy tụ sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền cho đất
nước, tự do cho nhân dân. Không chặng đường lịch sử nào của
dân tộc lại thiếu vắng vai trò của báo chí. Xuyên suốt hai cuộc
trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, báo
chí cách mạng Việt Nam trưởng thành, không chỉ tập hợp được
lực lượng của toàn dân, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù mà
20
còn kêu gọi và giành được sự ủng hộ của bạn bè và các lực lượng
tiến bộ trên thế giới đứng cùng trận tuyến với dân tộc Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, báo chí phát
huy tác dụng trong việc điều tra, phát hiện, đấu tranh với những
hiện tượng tiêu cực, những tệ nạn xã hội…Nó là tiếng nói cổ vũ
cho sự phát triển của cái mới, cái tiến bộ trước rào cản của cái lạc
hậu, bảo thủ. Chính vì thế trong giai đoạn nào của lịch sử dân
tộc, báo chí cũng mang tính chiến đấu mạnh mẽ, có khác chăng
chỉ là nội dung biểu hiện của nó.
Xuất phát từ chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng của
mình mà ngôn ngữ của báo chí phải có sức lay động, sức quy tụ
và định hướng cho công chúng. Tuy nhiên, không phải bất cứ loại
bài nào trong thể loại báo chí cũng thể hiện rõ tính chiến đấu. Có
thể nói, thể hiện rõ nhất cho đặc trưng này của báo chí là ở các bài
xã luận và bình luận. “ Tính chiến đấu của báo chí được hình
thành từ những cách lập luận đanh thép, từ các phương pháp sử
dụng từ ngữ nhằm châm biếm, công kích, tiến tới phủ định đối
phương. Trong đó việc xây dựng các hình ảnh tương phản, các
mệnh đề khẳng định và phủ định chiếm một vị trí quan
trọng…Tính chiến đấu thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau: Phủ
định hoàn toàn…Châm biếm đả kích nhằm hạ uy thế đối
phương…”[8]
Có khi tính chiến đấu bộc lộ ngay ở tít bài của báo. Xem
qua một vài tít bài của xã luận báo Hà Nội Mới chúng tôi thấy
dạng câu khẳng định, câu phủ định được sử dụng khá thường
xuyên. Bên cạnh đó là những cấu trúc câu kiểu kêu gọi, thúc giục
hành động…
Ví dụ:
21
- Chỉ biết còn Đảng là còn mình (12/7/2006)
- Đảng vững mạnh là phúc ấm của dân (14/4/2006)
- Phải thực sự dựa vào dân để ngăn chặn sự suy thoái
trong Đảng (21/4/2006)
- Biến Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu
thành nguồn lực tinh thần trong công cuộc xây dựng phát
triển Thủ đô (7/12/2006)
- Nêu cao giá trị văn hoá Hồ Chí Minh (6/6/2006)
- Xây dựng nền tư pháp phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc (2/3/2006)
2. Thể loại báo chí.
2.1. Quan niệm về thể loại báo chí
2.1.1 Định nghĩa thể loại báo chí.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô “thể loại là khái quát
hoá nhũng đặc điểm của một nhóm lớn các tác phẩm có cùng thuộc
tính về nội dung, hình thức, cách biểu hiện tác phẩm của một thời đại,
một giai đoạn, một dân tộc hay một nền nghệ thuật thế giới” (dẫn theo
Trần Quang, Các thể loại báo chí chính luận). Có thể nói thể loại là
một khái niệm phổ biến của nhiều ngành khoa học xã hội. Riêng trong
lĩnh vực báo chí, việc nhận diện chính xác thể loại báo chí rất có ý
nghĩa. Nó sẽ giúp cho người biên tập và ban biên tập rất nhiều trong
việc tổ chức trang báo. Thực tế cũng cho thấy những trang báo có sự
sắp xếp hợp lý các thể loại sẽ có sức hấp dẫn, giúp người đọc tiếp nhận
thông tin dễ dàng và nhanh chóng hơn. Chẳng hạn khi người đọc muốn
cập nhật những sự kiện mới trong nước và quốc tế hàng ngày, họ tìm
đọc trang tin tức hay thời sự, khi muốn biết quan điểm của giới báo chí
về một sự kiện nào đó họ tìm mục bình luận hay khi muốn thư giãn có
thể tìm đến trang văn hoá - xã hội …
22
Quan niệm về thể loại báo chí, tác giả Đinh Hường [29] định
nghĩa: “ thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản, thống nhất và tương
đối ổn định của các bài báo, được phân chia theo phương thức phản ánh
hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung
mang tính chính trị, tư tưởng nhất định”. Tác giả Tạ Ngọc Tấn cũng quan
niệm thể loại báo chí là một khái niệm để chỉ tính quy luật loại hình của
một tác phẩm báo chí. “Thể loại là sự thống nhất có tính quy luật - lặp lại
của các yếu tố trong một loạt tác phẩm báo chí.”[24]. Tác giả Đức Dũng lại
nhấn mạnh đến “ cách tổ chức tác phẩm, một kiểu tái hiện đời sống hiện
thực…, một phạm vi xác định ứng với một hình thức tương đối ổn
định…”[6]. Tuy các tác giả trên đã có những quan niệm rất gần nhau về thể
loại báo chí nhưng lại thiếu sự thống nhất về những yếu tố chủ đạo trong
từng nhóm thể loại cho nên các tác giả đã thể hiện sự không thống nhất khi
xem xét các vấn đề cụ thể.
2.1.2 Các nhóm thể loại
Do nền báo chí ở các quốc gia khác nhau có những đặc điểm đặc
thù nên hệ thống thể loại báo chí ở mỗi nước cũng không hoàn toàn giống
nhau. Bởi lẽ đó là lý thuyết về hệ thống thể loại thường chỉ phản ánh được
thực tế của một nền báo chí cụ thể.
Như phần trên đã trình bày, các tác giả đều có những quan điểm
của mình và đề xuất cách phân chia thể loại báo chí. Chẳng hạn, tác giả Tạ
Ngọc Tấn [24] chia báo chí thành ba thể loại lớn sau: “ Trong loại tác phẩm
thông tấn có các thể loại: tin, tường thuật, phỏng vấn, ghi nhanh, điều tra,
phóng sự. Loại tác phẩm chính luận bao gồm các thể loại bình luận, xã
luận, chuyên luận. Loại tác phẩm thông tấn văn nghệ bao gồm các thể loại
bút ký, ký sự, nhật ký phóng viên, tiểu phẩm”. Trong cuốn “ các thể loại
báo chí” tác giả Đức Dũng [6] cũng trình bày quan niệm của mình về thể
loại báo chí như sau: “ hệ thống các thể loại báo chí nước ta được hình
thành trên cơ sở của ba loại thể: loại thể thông tấn báo chí, loại thể chính
luận báo chí, loại thể ký báo chí”.
23
Tất nhiên khi phân chia các thể loại các tác giả cũng phải căn cứ
vào những cơ sở nhất định mà tác giả Trần Quang gọi là “ những dấu hiệu
của các thể loại”. Có thể hiểu đó là những đặc điểm riêng nổi bật nhất của
các thể loại, trong đó chứa đựng những dấu hiệu tương đối ổn định và
mang tính trội. Dấu hiệu dễ nhận thấy nhất là căn cứ vào chức năng và
nhiệm vụ của một tác phẩm báo chí. Tuy cùng viết về một đề tài nhưng
trong mỗi trường hợp hay tuỳ theo yêu cầu của cơ quan báo chí mà người
viết bài lựa chọn hình thức và phương pháp thể hiện cho hợp lý. Tổng kết
từ thực tiễn báo chí thì khi cần thông báo, phổ biến các sự kiện đơn lẻ thì
dùng tin ngắn; khi viết về các gương người tốt, việt tốt thì có thể viết ký
chân dung; nếu muốn điều tra, sáng tỏ một sự kiện nào đó mà công chúng
đang quan tâm thì dùng thể loại điều tra… Bên cạnh đó để phân biệt loại
người ta còn xuất phát từ đặc thù của đối tượng được miêu tả hay căn cứ
vào phạm vi của sự tổng kết. Các thể loại báo chí còn phân biệt nhau ở các
phương tiện tái hiện hình ảnh và mức độ truyền cảm.
Nhìn chung, gần đây lý thuyết báo chí nước ta đã chú ý tới vấn đề
thể loại. Tuy vẫn còn những khác biệt trong cách dùng thuật ngữ, trong
việc xác định vị trí, đặc điểm của một vài thể loại nhưng về cơ bản các tác
giả đều nhất trí cho rằng hệ thống thể loại báo chí nước ta đã được hình
thành với ba thể loại:
- Nhóm các thể loại thông tấn báo chí: tập hợp một số thể loại thông
tin như: tin, bài thông tấn, điều tra, tường thuật, phóng sự cùng với một số
biến thể khác… Đặc điểm nổi bật nhất của các thể loại thuộc nhóm này là
chúng gắn liền với việc phản ánh các sự kiện, thông tin thời sự.
- Nhóm các thể loại chính luận báo chí: gồm ba thể loại chủ yếu
là bình luận, xã luận và một số dạng biến thể khác như phiếm luận,
nhàn đàm….Các thể loại thuộc nhóm này có nhiệm vụ định hướng dư
luận, giúp công chúng hiểu biết về các vấn đề và sự kiện theo một quan
điểm nhất định.
- Nhóm các thể ký báo chí: “Ký” là ghi chép, nhưng là ghi chép tuân
thủ theo những tiêu chí của thể loại. So với hai nhóm thể loại nêu trên ký
báo chí năng động và linh hoạt hơn. Vẫn trên cơ sở của thông tin sự kiện và
24
thông tin lý lẽ như hai nhóm trên các thể ký báo chí còn ít nhiều có khả
năng thông tin thẩm mỹ. Các thể loại chủ yếu trong nhóm ký báo chí gồm:
phóng sự, ghi nhanh, ký chân dung, thư phóng viên, sổ tay phóng viên…
2.2 Xã luận
2.2.1 Khái niệm
Theo Trường Chinh: “ Xã luận là một bài báo quan trọng nhất trong
một số báo, nêu lập trường, quan điểm của một tờ báo (tức là của chính
đảng hay đoàn thể mà tờ báo đó là cơ quan ngôn luận) về một vấn đề quan
trọng nào đó. Riêng đối với báo hàng ngày, xã luận có khi là một bài tóm
tắt những việc lớn trong 24 tiếng đồng hồ hoặc một tuần có bình luận”
(Dẫn theo Các thể loại báo chí chính luận - Trần Quang)
Là một trong những văn bản thuộc nhóm thể loại báo chí chính luận,
nhiệm vụ của xã luận là phản ánh đường lối chính trị của cơ quan báo chí,
trình bày chính kiến của nó về những vẫn đề quan trọng nhất trong thời
điểm hiện tại. Ví dụ trong thời gian diễn ra Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ X (tháng 4-2006) có các bài xã luận hướng đến sự kiện chính
trị trọng đại này như: “ Cần đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của
Đảng (số 13353 ngày 21-4-2006); bài “ Đảng ta muôn vạn tấm lòng, niểm
tin” (số 13358 ngày 26-4-2006)…
Chức năng của xã luận là kịp thời phản ứng trước vấn đề thời sự,
giúp độc giả định hướng đúng. Vì vậy cũng có người quan niệm xã luận là
một bài bình luận tập thể của ban biên tập báo về một vấn đề đang được
quan tâm. Nó thể hiện quan điểm và thường trực tiếp dựa trên cơ sở những
nghị quyết của các cơ quan chủ quản. Tuyên truyền những nghị quyết của
cơ quan chủ quản, bài xã luận tích cực kêu gọi độc giả tham gia thực hiện
chúng trên thực tế. Với ý nghĩa đặc biệt như vậy, bài xã luận được xây
dựng trên những sự kiện và chứng cứ rõ ràng. Sơ đồ của nó không thể thiếu
vắng sự phân tích sự kiện, những khái quát sâu sắc, sự phê bình đúng thực
chất và những hướng dẫn thực tế… Trong bài xã luận phải vạch ra đường
lối hành động. Tuy nhiên văn phong của xã luận không giống như trong các