Tải bản đầy đủ (.pdf) (246 trang)

Đặc điểm thuật ngữ kỹ thuật mỏ tiếng Anh và việc chuyển dịch sang tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 246 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC




CAO XUÂN HIỂN




ĐẶC ĐIỂM THUẬT NGỮ KỸ THUẬT MỎ
TIẾNG ANH VÀ VIỆC CHUYỂN DỊCH SANG
TIẾNG VIỆT



LUẬN VĂN THẠC SĨ: NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC




















Hà nội – 2009




TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC





CAO XUÂN HIỂN




ĐẶC ĐIỂM THUẬT NGỮ KỸ THUẬT MỎ
TIẾNG ANH VÀ VIỆC CHUYỂN DỊCH SANG
TIẾNG VIỆT




Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 60 22 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ: NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Phúc











Hà nội – 2009




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TRONG LUẬN VĂN




D danh từ

DĐ danh động từ

Đ động từ

KTM kỹ thuật mỏ

kv khoáng vật

T tính từ

Th.ngữ thuật ngữ

T.số tống số

XHCN xã hội chủ nghĩa
























iii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN i
LỜI CAM ĐOAN ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN iii
MỤC LỤC iv
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Nguồn tư liệu nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 5
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu 5
6. Cấu trúc của luận văn 5

Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm thuật ngữ 6
2. Việc nghiên cứu lý luận về thuật ngữ trong ngôn ngữ học 11

2.1. Bàn về yêu cầu và tiêu chuẩn của thuật ngữ Việt Nam 12
2.2. Bàn về phương cách xây dựng thuật ngữ 14
2.3. Bàn về chính tên gọi thuật ngữ 15
3. Tính chất của thuật ngữ 16
3.1. Tính chính xác 16
3.2. Tính hệ thống 17
3.3. Tính quốc tế 18
3.4. Tính đơn nghĩa 19
3.5. Tính ngắn gọn 20
iv
3.6. Tính không biểu thị sắc thái tình cảm 20
4. Thuật ngữ gốc Ấn - Âu và thuật ngữ Việt 21
4.1 Đặc điểm của thuật ngữ nguồn gốc Ấn – Âu 21
4.2. Đặc điểm của thuật ngữ Việt 24
5. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam 25

Chương II
ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THUẬT NGỮ KỸ THUẬT MỎ TIẾNG
ANH
1. Khái niệm thuật ngữ KTM 29
2. Đặc điểm cấu tạo từ của hệ thuật ngữ KTM tiếng Anh 31
2.1. Những đặc điểm chung 31
2.2. Các mô hình cấu tạo cơ bản của hệ thuật ngữ KTM tiếng Anh 33
3. Đặc điểm về nguồn gốc của hệ thuật ngữ KTM tiếng Anh 53
3.1. Nhận xét chung 53
3.2. Đặc điểm về nguồn gốc của thuật ngữ đơn gốc từ 55
3.3. Đặc điểm về nguồn gốc của thuật ngữ đơn phái sinh 59

Chương III
ĐẶC ĐIỂM HỆ THUẬT NGỮ KỸ THUẬT MỎ TIẾNG VIỆT

QUA CHUYỂN DỊCH TỪ ANH SANG VIỆT
1. Đặc điểm chung 69
2. Đặc điểm cấu tạo thuật ngữ KTM tiếng Việt 72
2.1. Thuật ngữ đơn 73
2.2. Thuật ngữ phức 75
3. Đặc điểm về nguồn gốc 79
3.1. Thuật ngữ thuần Việt 79
v
3.2. Thuật ngữ là từ Hán - Việt 81
3.3. Thuật ngữ gốc Ấn - Âu 83
4. Đặc điểm trong chuyển dịch Anh - Việt 85
KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC 1


































vi

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu
Nghiên cứu thuật ngữ là vấn đề không còn hoàn toàn mới mẻ trong nghiên
cứu ngôn ngữ học nói chung. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thuật ngữ của
các ngành khoa học trong nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Nga, tiếng Pháp,
tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn v.v , đặc biệt là tiếng Anh, một
ngôn ngữ được coi là thông dụng trong các lĩnh vực khoa học trên thế giới và ở Việt
Nam hiện nay. Bất kỳ một ngành khoa học nào, chúng ta cũng có thể sử dụng tiếng

Anh để làm công cụ giao tiếp và trao đổi thông tin. Đối với các ngành khoa học kỹ
thuật, tiếng Anh lại càng được sử dụng rộng rãi.
Trên thực tế, mỗi ngành khoa học kỹ thuật đều cố gắng xây dựng cho mình
một hệ thuật ngữ riêng làm phương tiện nghiên cứu, giao tiếp và trao đổi thông tin.
Ngành nào ra đời sớm, hệ thuật ngữ càng sớm được hoàn chỉnh và có số lượng
phong phú. Những ngành ra đời sau hoặc mới ra đời, cũng đều có chiến lược từng
bước xây dựng cho mình một hệ thống thuật ngữ hoàn thiện, chuẩn hoá và thực sự
tiện ích. Kỹ thuật mỏ (KTM) là một ngành khoa học có lịch sử lâu đời trên thế giới
nên bản thân nó có một hệ thống thuật ngữ tương đối phong phú, đầy đủ; đã có từ
điển dành riêng cho ngành, thậm chí cho cả chuyên ngành hẹp.
Khai thác mỏ là hoạt động khai thác khoáng sản bao gồm các vật liệu địa
chất từ lòng đất, thường là các thân quặng, mạch hoặc vỉa than. Các vật liệu được
khai thác từ mỏ là các loại kim loại cơ bản, kim loại quí, sắt, urani, than, kim cương,
đá vôi, đá phiến, muối và kali cacbonnat v.v… Có thể nói, bất kỳ vật liệu nào không
phải từ trồng trọt, chăn nuôi hoặc được tạo ra trong phòng thí nghiệm hay nhà máy,
nói chung là đều được khai thác từ mỏ. Khai thác mỏ ở nghĩa rộng hơn còn bao
gồm việc khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo, như dầu mỏ, khí thiên
nhiên, thậm chí cả nguồn nước v.v… Khoảng 40.000 năm trước công nguyên, con
người đã biết sử dụng mọi thứ xung quanh mình, kể cả đá cũng được dùng làm công
cụ khai thác các khoáng sản. Sau một thời gian sử dụng hết những đá tốt trên bề mặt

2

trỏi t, con ngi bt u o bi tỡm nhng th h cn. Nhng cỏi m u tiờn
ch l nhng cỏi h nụng nhng ri dn dn, nhng ngi khai m sau buc phi
o sõu thờm tỡm kim Do ú, h thng thut ng k thut m khỏ phong phỳ
v ó sm c hon chnh trong nhiu ngụn ng chõu u.
Vit Nam, khai thỏc khoỏng sn vi qui mụ cụng nghip l mt lnh vc
cũn khỏ non tr, nhng v th ca nú ngy cng c khng nh. Trong cơ cấu nền
kinh tế n-ớc ta kể từ sau ngày hòa bình lp lại năm 1954, ngành công nghiệp khai

khoáng luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Các khu mỏ đ-ợc thăm dò và khai
thác từ thời thuộc Pháp vn tiếp tục đ-ợc duy trì sản xuất v khụng ngng phỏt trin
Tiếp đó, với sự giúp đỡ về công nghệ, máy móc thiết bị của Liên Xô và các n-ớc
Xã hội chủ nghĩa Đông Âu cng có ngành công nghiệp khai khoáng khỏ phát triển
nh- Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Việt Nam đã tiến hành thăm dò địa chất để
mở rộng các khu mỏ cũ, tìm kiếm các khu mỏ mới nhằm khai thác khoáng sản phục
vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng phát triển kinh tế đất n-ớc. Đặc biệt từ sau khi có
chính sách đổi mới của Đảng và nhà n-ớc, nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất n-ớc đ-ợc đặt lên hàng đầu, càng khẳng định vai trò của ngành công nghiệp
khai thỏc khoáng sn ở Việt Nam, với các loại khoáng sản rắn, nh than đá, st,
thic, ng, chỡ, khoáng sản lỏng nh- dầu mỏ, rồi hin nay là khí thiên nhiên
v.v Tuy nhiên, có một thực tế là công nghệ khai thỏc khoáng sn ca Việt Nam
hin ang trong mt tỡnh trng rất thấp so với các n-ớc Âu - Mỹ. Chính vì vậy mà
Việt Nam luôn cần đến sự trợ giúp về công nghệ, k thut của cỏc n-ớc phỏt trin.
Chng hn, nh- thời kì sau 1954 đến cuối những năm 80 của thế kỉ tr-ớc thì chủ
yếu là công nghệ, k thut ca các n-ớc thuc khi Xó hi ch ngha nh- đã nêu ở
trên. Còn từ thập niên 90 đến nay chúng ta ngày càng sử dụng nhiều các ph-ơng tin
kỹ thuật , máy móc và công nghệ của các n-ớc ph-ơng Tây. Song hành với quá trình
này là sự thâm nhập ngày một sâu rộng vào Việt Nam các tài liệu chuyển giao công
nghệ, h-ớng dẫn sử dụng thiết bị máy móc bằng tiếng Anh, và sự khụng ngng gia
tăng các cuộc tiếp xúc th-ơng thảo hợp đồng, mua bán vật t- thiết bị mà trong đó
ngôn ngữ đ-ợc sử dụng chủ yếu đều là tiếng Anh.

3

Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, Việt Nam đã và đang tập
trung nghiên cứu đồng thời ứng dụng kỹ thuật khai thác mỏ ở trình độ ngày càng
cao. Điều này đòi hỏi phải lưu tâm tới hệ thuật ngữ KTM bằng tiếng Anh của ngành
để không những nghiên cứu, trao đổi thông tin mà còn để tiếp thu những tinh hoa
của các nước phát triển trên thế giới phục vụ cho sự phát triển của ngành KTM

nước nhà. Vì vậy, xây dựng hệ thuật ngữ KTM tiếng Việt đối với những người hoạt
động trong ngành vừa nhằm tạo ra những thuận lợi và phát huy tốt công tác nghiên
cứu kỹ thuật mỏ, vừa là một công việc xuất phát từ đòi hỏi cấp thiết của thực tế
khách quan.
Luận văn này, chúng tôi đi vào nghiên cứu khảo sát hệ thuật ngữ KTM tiếng
Anh, có sơ bộ so sánh với tiếng Việt, để lấy đó làm cơ sở đề xuất một số ý kiến để
xây dựng giáo trình tiếng Anh chuyên ngành KTM, góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo tiếng Anh chuyên ngành cho các sinh viên đang theo học ngành này tại các
trường đại học ở nước ta hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích ngiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu hệ thuật ngữ KTM tiếng Anh để từ đó rút ra được những đặc
điểm của các thuật ngữ này về mặt cấu trúc, nguồn gốc xuất xứ; đồng thời cũng sơ
bộ xem xét cả cấu trúc và nguồn gốc hệ thuật ngữ KTM đã được chuyển dịch qua
tiếng Việt, từ đó từng bước nhằm cố gắng xác lập lại một danh sách các thuật ngữ
KTM Anh – Việt chuyên ngành (thuần mỏ) hơn. Đồng thời, qua việc nghiên cứu
này, chúng tôi cũng sơ bộ so sánh đối chiếu hai hệ thuật ngữ để tìm ra những nét
tương đồng và khác biệt.
- Nghiên cứu hai hệ thuật ngữ này, đặc biệt là những kết quả của nó còn có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc biên soạn những giáo trình tiếng Anh chuyên
ngành KTM cho các sinh viên theo học ngành này hiện nay ở nước ta.



4

3. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu thuật ngữ
chuyên ngành KTM trong tiếng Anh được thu thập từ các nguồn tư liệu sau đây:

3.1. Các loại từ điển:
1. Từ điển kỹ thuật mỏ Anh - Việt, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà
Nội, 1999.
2. Từ điển thuật ngữ chuyên ngành khai thác lộ thiên, Nhà xuất bản Giao
thông vận tải, Hà Nội, 2008.
3. Từ điển Địa chất Anh - Việt, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, Hà Nội,
2001.
4. Từ điển kỹ thuật Trắc địa – Bản đồ Anh - Việt, Nhà xuất bản Bản đồ, Hà
Nội, 2008.
5. Thuật ngữ các khoa học trái đất Anh - Việt, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà
Nội, 2003.
3.2. Các tài liệu khác: bao gồm các giáo trình tiếng Anh chuyên ngành KTM
đang được sử dụng tại trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội:
6. Special English for underground mining students – Tiếng Anh chuyên
ngành ngành “khai thác hầm lò”.
7. Giáo trình tiếng Anh chuyên ngành ngành “khai thác lộ thiên”.
8. English for mineral processing students - Tập bài giảng tiếng Anh
dùng cho sinh viên ngành “tuyển khoáng”.
9. English for mining equipment and machines – Tiếng Anh chuyên
ngành ngành “máy và thiết bị mỏ”
10. Tiếng Anh chuyên ngành ngành “trắc địa mỏ”.
11. Lecture – Note: English my speciality – Giáo trình tiếng Anh chuyên
ngành dùng cho sinh viên ngành địa chất.
12. Một số tài liệu chuyên ngành liên quan, như xây dựng, điện và tự
động hóa mỏ v.v , trong kỹ thuật mỏ.


5

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong luận văn, chúng tôi áp dụng phương pháp phân tích thống kê số lượng
đối với các thuật ngữ KTM tiếng Anh và Việt đã thu thập để xác định đặc điểm của
chúng. Mặt khác, chúng tôi cũng phân tích so sánh để tìm ra các nét tương đồng và
khác biệt giữa thuật ngữ KTM tiếng Anh và tiếng Việt.

5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Luận văn này cung cấp những thông tin cần thiết và hữu ích về hệ thuật ngữ
KTM tiếng Anh và tiếng Việt, qua đó có thể đề xuất một số ý kiến góp phần phục
vụ công việc dạy và học nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tiếng Anh chuyên ngành
của sinh viên và cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực KTM.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận
văn bao gồm ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Đặc điểm của hệ thuật ngữ kỹ thuật mỏ tiếng Anh
Chương 3: Đặc điểm của hệ thuật ngữ kỹ thuật mỏ tiếng Việt qua chuyển
dịch từ Anh sang Việt


6

CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. Khái niệm thuật ngữ
Thuật ngữ là một đề tài có sức cuốn hút đối với nhiều nhà nghiên cứu khoa
học trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Hiện nay, trong ngôn ngữ học có một số
lượng vô cùng lớn các định nghĩa khác nhau về thuật ngữ, thậm chí "về điều này có
thể viết cả một cuốn sách".

Có những định nghĩa chỉ ra sự phân định giữa một bên là thuật ngữ, còn bên
kia là từ thông thường. Chẳng hạn. H.П. Кузькин chỉ ra rằng: "Cả về hình thức lẫn
nội dung không thể tìm thấy ranh giới thực nào giữa từ thông thường, từ phi chuyên
môn với từ của vốn thuật ngữ. Đường ranh giới hiện thực, khách quan giữa hai loại
từ này về thực chất là một đường ranh giới ngoài ngôn ngữ. Nếu như từ thông
thường, từ phi chuyên môn tương ứng với đối tượng thông dụng, thì từ của vốn
thuật ngữ lại tương ứng với đối tượng chuyên môn mà chỉ có một số lượng hạn hẹp
các chuyên gia biết đến" [75, 145]. Г.О. Винокур lại cho rằng: "Thuật ngữ - đó
không phải là một từ đặc biệt mà chỉ là từ có chức năng đặc biệt ( ) đó là chức
năng gọi tên" [72, 5 - 6 ]. А.И. Моисеев viết: "Chính biên giới giữa thuật ngữ và
phi thuật ngữ không nằm giữa các loại từ và cụm từ khác nhau mà nằm trong nội
bộ mỗi từ và cụm từ định danh" [76, 31]. B.B. Bиноґадов đã nêu rõ hơn: "Trước
hết từ hiện thực chức năng định danh, nghĩa là hoặc nó là phương tiện biểu thị, lúc
đó nó chỉ là một ký hiệu giản đơn, hoặc nó là phương tiện của định nghĩa logic, lúc
đó nó là thuật ngữ khoa học"[71, 12]. Có thể thấy mối liên hệ giữa từ thông thường
và thuật ngữ qua các thí dụ minh họa sau: trong tiếng Anh có từ “crane” là tên gọi
“loài sếu, loài chim có cổ dài”, đồng thời trong từ vựng kỹ thuật có đơn vị từ
“crane” nghĩa là “cần cẩu, cần trục” để chỉ một loại thiết bị xe máy có cần dài dùng
để nâng và di chuyển các vật nặng (liên tưởng từ cổ của loài sếu); từ “branch” có
nghĩa là “cành cây”, còn với tư cách thuật ngữ địa chất thì “branch” mang ý nghĩa
là “nhánh sông suối” hay “vỉa mạch quặng”; từ “wall” trong vốn từ toàn dân có

7

nghĩa là “bức tường”, nhưng trong lĩnh vực Mỏ - Địa chất thì thuật ngữ “wall” lại
có nghĩa là đá vây xung quanh một mỏ khoáng sản nào đó hay “bờ mỏ”; trong thuật
ngữ tiếng Việt của ngành công nghiệp dệt có từ “máy lờ”, do xuất phát từ sự liên
tưởng của những người công nhân gốc nông dân Việt nam giữa hình ảnh những chú
cá bị mắc trong cái “lờ”- “một dụng cụ đan bằng tre dùng để bắt cá theo dòng nước
chảy” với hình ảnh hàng vài trăm ống sợi trên khung treo của máy “ourdissoir”

(tiếng Pháp), là chiếc máy đồ sộ nhất trên dây chuyền dệt vải công nghiệp; hay,
trong tiếng Việt có từ “cũi lợn” chỉ nơi người ta dùng gỗ súc xếp quây lại thành
chuồng để nuôi lợn rất quen thuộc ở các làng quê Việt Nam từ bao đời nay, nhưng
cũng chính danh từ “cũi lợn” này lại cũng được sử dụng trong ngành khai thác hầm
lò do những người thợ mỏ đã xếp gỗ chống lò (để tránh sụp lở trần và vách lò)
tương tự như hình dạng chiếc “cũi lợn” thực sự. Và thế là có tên gọi “cũi lợn” và
khái niệm “xếp cũi lợn” trong ngành khai thác hầm lò…v.v. Những ví dụ trên,
chứng tỏ rằng đầu tiên người ta đã tận dụng các từ vốn có trong từ vựng toàn dân
rồi gán cho chúng một nét nghĩa đặc biệt mang tính thuật ngữ. Việc gán nghĩa này
dựa trên sự liên tưởng, so sánh về hình dạng, cấu tạo hay tính chất của các sự vật
hiện tượng vốn đã được định danh trong vốn từ vựng toàn dân với những khái niệm
sự vật trong kỹ thuật.
Một số nhà ngôn ngữ học khác lại xác định thuật ngữ trong mối quan hệ giữa
nó với khái niệm. Chẳng hạn, các soạn giả của "Đại Bách khoa toàn thư Xô viết" đã
định nghĩa: "Thuật ngữ là một từ hoặc một cụm từ chỉ ra một cách chính xác khái
niệm và quan hệ của nó với những khái niệm khác trong giới hạn của phạm vi
chuyên ngành. Thuật ngữ là cái biểu thị vốn đã chuyên biệt hoá, hạn định hoá về sự
vật, hiện tượng, thuộc tính và quan hệ của chúng đặc trưng cho phạm vi chuyên
môn đó" [69, 473 - 474]. Trong cuốn "Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học",
O.C.Aхманова giải thích: "Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ của ngôn ngữ chuyên môn
(ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ kỹ thuật,…) được sáng tạo ra (được tiếp nhận hoặc
được vay mượn, ) để biểu thị chính xác các khái niệm chuyên môn và biểu thị các
đối tượng chuyên môn" [68, 474].

8

Một số nhà khoa học khác lại nhấn mạnh vấn đề khái niệm và định nghĩa
thuật ngữ. Chẳng hạn, B.П. Даниленĸо chỉ ra rằng "Thuật ngữ dù là từ (ghép hoặc
đơn) hay cụm từ đều là một ký hiệu tương ứng với một khái niệm", và "Bản chất của
thuật ngữ với tư cách là một khái niệm hoàn toàn không trùng với từ thông thường

của ngôn ngữ toàn dân". Còn A.C. Γерд đã nêu rõ: "Thuật ngữ là từ mà một định
nghĩa nào đó kèm theo nó một cách nhân tạo, có ý thức. định nghĩa này có liên
quan với một khái niệm khoa học nào đó" [73, 35 - 36].
Ở Việt Nam, các nhà ngôn ngữ học cũng hết sức quan tâm đến lĩnh vực thuật
ngữ và những định nghĩa về thuật ngữ ngày một đầy đủ hơn, chính xác hơn.
Theo Hoàng Xuân Hãn, "Thuật ngữ hay danh từ khoa học là những từ ngữ
biểu thị một khái niệm xác định thuộc những khái niệm của một ngành khoa học
nhất định" [19].
Nguyễn Văn Tu trong cuốn "Khái luận ngôn ngữ học" [37, 176] đã đưa ra
định nghĩa về thuật ngữ như sau: "Thuật ngữ là từ hoặc nhóm từ dùng trong các
ngành khoa học, kỹ thuật, chính trị, ngoại giao, nghệ thuật và có một ý nghĩa đặc
biệt, biểu thị chính xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc ngành nói trên". Năm
1968 ông đưa ra định nghĩa chỉ nhấn mạnh khái niệm mà các thuật ngữ biểu thị:
"Thuật ngữ là những từ và những từ tố cố định để chỉ những khái niệm của một
ngành khoa học nào đó, ngành sản xuất hay ngành văn hoá nào đó " [38, 114].
Theo ông, thuật ngữ là lớp từ vị trong ngôn ngữ. Thuật ngữ giống từ thường ở chỗ
đều tuân theo quy luật ngữ âm và ngữ pháp của ngôn ngữ đó. Nhưng thuật ngữ khác
từ thường là chỉ có một nghĩa và ít gợi cảm. Một từ có thể có đồng nghĩa, trái nghĩa
nhưng khi trở thành thuật ngữ nó không có đồng nghĩa và trái nghĩa.
Năm 1962, trong "Giáo trình Việt ngữ, tập II", Đỗ Hữu Châu đã đưa ra định
nghĩa thuật ngữ trong đó đồng thời có sự nhấn mạnh rằng thuật ngữ không phải chỉ
biểu thị khái niệm khoa học mà còn chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học
nhất định. Theo ông, "Thuật ngữ là những từ chuyên môn được sử dụng trong phạm
vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kỹ thuật nào đấy. Có
thuật ngữ của ngành vật lý, ngành hoá học, toán học, thương mại, ngoại giao, Đặc

9

tính của những từ này là phải cố gắng chỉ có một nghĩa, biểu thị một khái niệm hay
chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học, kỹ thuật nhất định" [5, 167].

Năm 1983, Hoàng Văn Hành đã đưa ra định nghĩa về thuật ngữ, trong đó chỉ
rõ thêm tính xác định của khái niệm mà thuật ngữ biểu thị trong hệ thống những
khái niệm của một ngành khoa học nhất định, như sau: "Thuật ngữ là những từ ngữ
dùng để biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một
ngành khoa học nhất định. Toàn bộ hệ thống thuật ngữ của các ngành khoa học
hợp thành vốn thuật ngữ của ngôn ngữ" [20, 26].
Cũng nói về thuật ngữ, Vũ Quang Hào lại đề cập về phương diện ngữ nghĩa
của thuật ngữ. Theo ông, trong tiếng Việt, bản thân hai chữ "Thuật ngữ" phải được
hiểu theo bốn nghĩa:
"Thuật ngữ" được hiểu là nội dung của khái niệm khoa học (nội hàm khái
niệm). Theo nghĩa này, thuật ngữ là đơn vị cơ bản của mỗi khoa học chuyên ngành.
"Thuật ngữ" được hiểu là hình thức ngôn ngữ, là cái vỏ, là tên gọi của một
khái niệm khoa học. Theo nghĩa này, thuật ngữ - tên gọi là đơn vị cơ bản trong vốn
từ của ngôn ngữ khoa học.
"Thuật ngữ" được hiểu là toàn bộ khái niệm trong một khoa học, một lĩnh
vực. Theo nghĩa này, toàn bộ thuật ngữ - khái niệm làm thành hệ thuật ngữ - khái
niệm của một khoa học.
"Thuật ngữ" được hiểu là toàn bộ tên gọi trong một khoa học. Theo nghĩa
này, toàn bộ thuật ngữ - tên gọi làm thành hệ thuật ngữ - tên gọi của một khoa học.
Tình trạng của hệ thuật ngữ - tên gọi phản ánh tình trạng ứng dụng lý luận ngôn
ngữ học vào việc giải quyết những vấn đề của hình thức ngôn ngữ trong một khoa
học. [21, 124 – 125]
Trong giáo trình “Từ vựng tiếng Việt” xuất bản năm 1978 và tiếp đến là giáo
trình “Từ vựng học tiếng Việt” xuất bản năm 1985, tái bản năm 1998, Nguyễn
Thiện Giáp đã đưa ra quan niệm khá ngắn gọn nhưng nêu được đầy đủ những đặc
trưng cần và đủ của thuật ngữ. Theo ông, "Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt
của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và những cụm từ cố định là tên gọi chính xác

10


của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con
người" [12, 270]. Thuật ngữ, theo Nguyễn Thiện Giáp, có thể được cấu tạo dựa trên
cơ sở các từ hoặc hình vị có ý nghĩa sự vật cụ thể. Nội dung của thuật ngữ ít nhiều
tương ứng với ý nghĩa của các từ tạo nên chúng.
Như vậy, có thể thấy, thuật ngữ khoa học chính là một lớp từ trong vốn từ
vựng của một ngôn ngữ. Nó không phải là từ vựng chung mà là lớp từ vựng đặc
biệt. Nét đặc biệt được thể hiện ở chỗ thuật ngữ khoa học là những từ và những cụm
từ cố định thuộc một chuyên môn nhất định, chính xác và xác định về nghĩa.
Qua những định nghĩa được nêu ra ở trên, chúng ta có thể thấy thuật ngữ là
từ và cụm từ nhưng không giống với từ và cụm từ thông thường. Từ ngữ thông
thường có thể biểu thị sắc thái tình cảm, sắc thái phụ như thái độ đánh giá con
người, khen, chê , có thể mang tính đa nghĩa, có thể có đồng nghĩa, trái nghĩa, có
thể có đồng âm, trong khi thuật ngữ thì chỉ đơn nghĩa và chỉ mô tả một khái niệm
hay một khách thể. Đỗ Hữu Châu đã xác định khá rõ ràng là: “Khác với từ thông
thường, thuật ngữ có ý nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện tượng có
trong thực tế, đối tượng của ngành kỹ thuật và ngành khoa học tương ứng. Ý nghĩa
biểu niệm của chúng cũng là những khái niệm về các sự vật, hiện tượng này đúng
như chúng tồn tại trong tư duy. Về mặt nội dung, ở các thuật ngữ không xảy ra sự
chia cắt thực tế khách quan theo cách riêng của thuật ngữ. Mỗi thuật ngữ là một
“cái nhãn” dán vào đối tượng này (cùng với khái niệm về chúng) tạo nên chính nội
dung của nó” [6, 221 - 222].
Nguyễn Văn Tu cũng chỉ rõ: “Đặc điểm của thuật ngữ là một từ chỉ có một
nghĩa, không có từ đồng nghĩa, không có sắc thái tình cảm, có thể có tính chất quốc
tế (tùy từng ngành)” [39, 114]. Nói cách khác, thuật ngữ là một bộ phận của từ vựng
của một ngôn ngữ, chúng biểu thị khái niệm xác định trong các ngành khoa học kỹ
thuật nên thuật ngữ phải tuân thủ tính nghiêm ngặt của nó.
Từ đó, chúng tôi rút ra một số đặc điểm cần chú ý xung quanh khái niệm
thuật ngữ là:
- Về mặt cấu trúc: thuật ngữ là một từ hoặc một cụm từ.


11

- Về mặt nội dung (mặt biểu nghĩa): thuật ngữ biểu thị duy nhất một
nghĩa - một khái niệm.
- Về mặt sử dụng: thuật ngữ được sử dụng trong một ngành nhất định,
một lĩnh vực khoa học nhất định.
Từ các đặc điểm nêu trên, thuật ngữ được hiểu một cách ngắn gọn là: “Thuật
ngữ là một từ hoặc một cụm từ biểu thị chính xác khái niệm, đối tượng được sử
dụng trong một ngành khoa học cụ thể”.

2. Việc nghiên cứu lý luận về thuật ngữ trong ngôn ngữ học
Thuật ngữ là một bộ phận từ vựng quan trọng của ngôn ngữ. Theo nghiên
cứu của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới, thuật ngữ là bộ phận phát triển mạnh
nhất so với các bộ phận khác trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ. Thuật ngữ phát
triển theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Hiện nay, khoa học kỹ thuật trên thế
giới đang ngày càng phát triển như vũ bão nên nhu cầu sử dụng thuật ngữ trong lĩnh
vực khoa học kỹ thuật, số lượng các loại thuật ngữ, và nhu cầu nghiên cứu thuật
ngữ trên thế giới cũng ra đời hết sức nhanh nhạy để đáp ứng những đòi hỏi thiết
thực đó. Tiếng Anh, với vốn từ vựng phong phú và số lượng thuật ngữ chiếm tỉ lệ
rất lớn đang dần trở thành ngôn ngữ toàn cầu, ngôn ngữ của giao tiếp và khoa học kĩ
thuật. Việc nghiên cứu thuật ngữ tiếng Anh, hoặc những nghiên cứu thuật ngữ có so
sánh đối chiếu với tiếng Anh, do đó cũng đang được đẩy mạnh và phát triển mạnh
mẽ.
Sự phát triển không ngừng của các ngành sản xuất công nghiệp, khoa học và
công nghệ ở Việt Nam hiện nay cũng là một động lực góp phần thúc đẩy số lượng
các thuật ngữ ở Việt Nam ngày một nhiều hơn và từng bước hoàn thiện dần. Tuy
nhiên, bên cạnh đó lại tồn tại một số bất cập. Chẳng hạn, những khái niệm được
biểu thị bằng hơn một thuật ngữ so với các thuật ngữ gốc, có khi chưa được hệ
thống hoá và cách hiểu của các nhà khoa học cũng thiếu thống nhất. Ngay cả cách
phiên âm thuật ngữ Ấn - Âu ở nước ta hiện nay cũng chưa đảm bảo tính nhất quán.

Những bất cập vừa nêu trên thực tế đã gây ra không ít khó khăn cho người sử dụng.

12

Ở Việt Nam hiện nay, đội ngũ các nhà nghiên cứu thuật ngữ chưa đủ mạnh
và còn thiếu nhiều chuyên gia nghiên cứu thuật ngữ học. Vấn đề cấp thiết đặt ra
trước mắt là phải chú trọng nghiên cứu thuật ngữ, xây dựng và tiêu chuẩn hoá các
hệ thống thuật ngữ thuộc các ngành khoa học ở nước ta nhằm tạo dựng những hệ
thống thuật ngữ chính xác, dần khắc phục để tiến tới hoàn chỉnh những tồn tại
không đáng có như đã nêu.
Các nghiên cứu về thuật ngữ ở nước ta từ trước đến nay chủ yếu tập trung ở
một số nét chính như sau:
2.1. Bàn về yêu cầu và tiêu chuẩn của thuật ngữ Việt Nam
Khi đặt một thuật ngữ mới hoặc để thống nhất và chuẩn hoá các thuật ngữ đã
có, các nhà khoa học ở trong nước cũng như ở nước ngoài đã bàn rất nhiều đến
những tiêu chuẩn (hay là các yêu cầu) của thuật ngữ.
Ở Việt nam, người đầu tiên nêu ra một cách khá đầy đủ và có hệ thống các
yêu cầu của một thuật ngữ là học giả Hoàng Xuân Hãn. Trong tác phẩm "Danh từ
khoa học" [19], ông đã đưa ra các điểm sau:
- Mỗi ý phải có một danh từ để gọi.
- Danh từ ấy phải dùng riêng về ý ấy.
- Mỗi ý đừng có nhiều danh từ.
- Danh từ phải làm cho dễ nhớ đến ý.
- Danh từ trong các môn phải thành một toàn thể duy nhất và liên lạc.
- Danh từ phải gọn.
- Danh từ phải có âm hưởng Việt Nam.
- Danh từ phải đặt theo lối đặt các tiếng thường và phải có tính chất quốc
gia.
Tuy nhiên, ý kiến của các nhà khoa học khác về vấn đề này cũng hết sức
khác nhau. Chính vì tình trạng này mà cuối tháng 12/ 1964, Uỷ ban Khoa học Nhà

nước đã triệu tập Hội nghị bàn về vấn đề Xây dựng thuật ngữ khoa học nhằm đẩy
mạnh công tác nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ khoa học, dần dần tiêu chuẩn hoá
và thống nhất thuật ngữ trong các ngành chuyên môn. Tại hội nghị, nhiều đại biểu

13

đã tán thành quan niệm về các tiêu chuẩn của thuật ngữ mà bản báo cáo chính đã
đưa ra: 1) Tính khoa học, cụ thể phải chính xác, có hệ thống, ngắn gọn; 2) Tính dân
tộc, nghĩa là có màu sắc ngôn ngữ dân tộc, phù hợp với đặc điểm tiếng Việt; 3) Tính
đại chúng, nghĩa là dễ hiểu, dễ nhớ, dễ nói, dễ viết, dễ đọc, tuy rằng mức độ nhất trí
ở điểm này, điểm khác còn có chỗ khác nhau. Chẳng hạn, Lê Khả Kế cũng cho
thuật ngữ vừa phải khoa học, nghĩa là chính xác và có hệ thống, vừa phải có tính
dân tộc và đại chúng, phải đặt sao cho ngắn gọn, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ [24, 110 -
114].
Học giả Lê Văn Thới cho rằng:
- "Về nội dung: 1) Danh từ phải chỉ riêng một ý mà thôi; 2) Một ý không nên
có nhiều danh từ; 3) Danh từ trong một bộ môn phải nằm trong một hệ thống
chung; 4) Danh từ phải gợi đến ý chính.
- Về hình thức: 5) Danh từ phải đặt ngắn gọn chừng nào tốt chừng ấy;
6)Danh từ phải nằm trong hệ thống chung của một ngôn ngữ" [36, 5].
Hồng Dân lại có phát biểu: "Những đặc điểm trên (ổn định về cấu tạo, ngắn
gọn, có sức sản sinh ) tạo ra cho thuật ngữ tính đơn vị định danh, tính chất này đảm
bảo cho thuật ngữ có khả năng tách biệt với mọi ngữ cảnh, không bị ngữ cảnh làm
sai lạc nội dung mà nó biểu thị". Rồi dẫn lời Như Ý trình bày quan điểm tương tự
và đi đến kết luận, " Có thể khẳng định những yêu cầu cơ bản của thuật ngữ là:
1 - Tính định danh
2 - Tính chính xác
3 - Tính hệ thống
4 - Tính bản ngữ” [9, 117]
Lưu Vân Lăng cho rằng: "Theo ý chúng tôi, thuật ngữ tiếng Việt phải:

1)Chính xác; 2) Có tính hệ thống; 3) Có tính bản ngữ (dân tộc); 4) Ngắn gọn, cô
đọng; 5) Dễ dùng, trong đó có 3 tiêu chuẩn đầu là yêu cầu cơ bản mà tính chính
xác là quan trọng nhất" [28, 2].

14

Năm 1985, trong giáo trình "Từ vựng học tiếng Việt" [11], sau đó được tái
bản năm 1998 [12], Nguyễn Thiện Giáp đã nêu những đặc điểm cơ bản của thuật
ngữ chỉ gồm: a) Tính chính xác; b) Tính hệ thống; c) Tính quốc tế.
Như vậy, tuy còn có những ý kiến khác nhau, nhưng các nhà khoa học đều
nhất trí và nhấn mạnh ba đặc điểm cơ bản sau của thuật ngữ:
Một là, thuật ngữ phải chính xác.
Hai là, thuật ngữ phải có tính hệ thống.
Ba là, (tùy từng ngành) phải có tính quôc tế.
2.2. Bàn về phƣơng cách xây dựng thuật ngữ
Về chất liệu
Để đặt thuật ngữ khoa học, các nhà khoa học đều đi đến thống nhất: trước hết
phải tận dụng kho tàng từ vựng của tiếng Việt, đó là những từ mà mọi người dân
thường dùng. Điều này đảm bảo được tính dễ hiểu và bảo vệ, phát triển được ngôn
ngữ dân tộc. Có thể dùng yếu tố Hán - Việt để đảm bảo tính chính xác và hệ thống
khi các từ vựng trong tiếng Việt không đảm bảo hay đáp ứng yêu cầu trên. Ngoài ra,
để đảm bảo mức chính xác khoa học cần thiết, chúng ta có thể mượn cả yếu tố Ấn-
Âu để tạo từ, có thể mượn những thuật ngữ nước ngoài phiên âm. Như vậy, có ba
nguồn xây dựng thuật ngữ là:
- Lớp thuật ngữ thuần Việt
- Lớp thuật ngữ Hán - Việt
- Lớp thuật ngữ Ấn - Âu
Về mô hình thuật ngữ
Nguyễn Văn Tu cho rằng: "Tạo những từ ghép. Phương thức này được dùng
nhiều trong tiếng Việt như: đòn bẩy, đoạn thẳng, mặt phẳng, tam giác cách này

thường dựa vào vốn từ vị của ngôn ngữ toàn dân" [39].
Về nguyên tắc vay mượn
Các nhà khoa học đều thống nhất mượn thuật ngữ nước ngoài để làm giàu
vốn thuật ngữ của dân tộc. Nhưng vay mượn thuật ngữ nước ngoài một cách có
sáng tạo, biến nó thành thuật ngữ khoa học của dân tộc ta, vừa chính xác, vừa có hệ

15

thống chứ không phải là bắt chước người nước ngoài, cố giữ nguyên cách nói, cách
đọc hay cách viết để đưa vào tiếng Việt, làm cho tiếng Việt bị lai căng và mất đi
tính trong sáng. Khi mượn yếu tố Hán - Việt để đặt thuật ngữ cần chú ý đến yếu tố
có nghĩa, độc lập thường dùng và phải kết hợp theo ngữ pháp tiếng Việt. Còn khi
mượn thuật ngữ Ấn - Âu thì không nên "cố giữ nguyên dạng chữ quốc tế mà nên
dựa theo âm là chủ yếu (âm của nguyên ngữ hoặc của nhiều nước dùng gần giống
nhau) mà phiên âm một cách sáng tạo, sao cho nó phù hợp với đặc điểm và sự phát
triển của ngôn ngữ dân tộc ta" (Lưu Vân Lăng) [30, 153].
2.3. Bàn về chính tên gọi thuật ngữ
Tên gọi thuật ngữ cũng là một vấn đề được các nhà nghiên cứu trong nước
quan tâm và thảo luận rất nhiều. Hàng loạt tên gọi khác nhau được áp dụng cho
thuật ngữ như: Thuật ngữ, danh từ khoa học, thuật ngữ khoa học và chuyên danh.
Tháng 7/1980, tại Hội nghị ngôn ngữ học "Về vấn đề chuẩn hoá thuật ngữ", Hồng
Dân (Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh) đã trình bày một tham luận về
chính tên gọi “thuật ngữ”. Theo ông, nên dùng cụm từ "chuyên danh" để thay cho
các cụm từ "thuật ngữ", "thuật ngữ khoa học", "danh từ khoa học". Thực chất, đề
xuất nói trên không thỏa đáng vì thiếu sức thuyết phục bởi vì các cách gọi tên trên
có sự khác nhau chứ không phải hoàn toàn trùng nhau. “Thuật ngữ”, hay “thuật ngữ
khoa học” luôn luôn biểu thị khái niệm được xác định trong một ngành khoa học và
lệ thuộc vào hệ thống khái niệm của ngành đó, còn “chuyên danh” về bản chất chỉ
là danh mục tên gọi cụ thể của các đối tượng được dùng trong từng ngành khoa học
nhất định, chính vì vậy mà nó đã không thoát ra khỏi chính khái niệm “danh pháp”

vốn được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước sử dụng. Nguyễn Thiện Giáp
trong “Từ vựng học tiếng Việt” xuất bản năm 1985 đã đưa ra những thí dụ minh họa
cho sự khác biệt giữa “thuật ngữ” và “chuyên danh” hay “danh pháp”. Chẳng hạn
trong địa lý học, các từ như sông, hồ, núi, biển, sa mạc…v.v, là những thuật ngữ,
còn các tên gọi cụ thể như sông Hồng, hồ Ba bể, núi Tam đảo, biển Đông…v.v, là
các danh pháp. Tương tự có thể dẫn thêm thí dụ như các từ “mỏ, khai trường” –
“nơi diễn ra hoạt động khai khoáng”; hay “lò” là các thuật ngữ KTM, còn các tên

16

gọi như mỏ Đèo nai – “tên một mỏ than ở Cẩm phả, Quảng ninh”), và “lò chợ” –
“vị trí khai thác ngầm dưới lòng đất, nơi nhiều công nhân có thể tập trung lại để làm
việc, đông như cái chợ”…v.v, là các danh pháp. Để kết luận vấn đề này có thể sử
dụng định nghĩa của Г.О. Винокур “Còn về danh pháp thì khác hệ thuật ngữ, nó
chỉ là một hệ thống các phù hiệu hoàn toàn trừu tượng và ước lệ, mà mục đích duy
nhất là ở chỗ cấp cho ta có phương tiện thuận lợi nhất về mặt thực tiễn để gọi tên
các đồ vật, các đối tượng không quan hệ trực tiếp với những đòi hỏi của tư duy lý
luận hoạt động với những sự vật này” [72].
* Các công trình nghiên cứu về thuật ngữ gần đây
Vấn đề nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ đã và đang ngày càng được quan
tâm nhiều. Ở Việt Nam, gần đây đã có một số đáng kể luận văn thạc sĩ, luận án tiến
sĩ nghiên cứu về thuật ngữ, ví dụ: “Thuật ngữ kinh tế thương mại Nhật - Việt” của
Nguyễn Thị Bích Hà (Luận án Tiến sĩ, 2000); “Thuật ngữ điện tử Anh - Việt” của
Nguyễn Thị Kim Thanh (Luận văn Thạc sĩ, 2000); “Thuật ngữ thương mại Anh -
Việt” của Vũ Thị Bích Hà (Luận văn Thạc sĩ, 2003); “Đặc điểm thuật ngữ kiểm
toán tiếng Đức và cách chuyển dịch thuật ngữ kiểm toán tiếng Đức sang tiếng Việt”
của Lê Hoài Ân (Luận văn Thạc sĩ, 2003); “Khảo sát hệ thuật ngữ khí tượng thủy
văn tiếng Anh” của Đoàn Thúy Quỳnh (Luận văn Thạc sĩ, 2007) v.v

3. Tính chất của thuật ngữ

Thuật ngữ là những từ hoặc những cụm từ cố định dùng để biểu thị chính xác
các khái niệm và đối tượng thuộc lĩnh vực của mỗi ngành khoa học. Vì thế thuật
ngữ mang những tính chất, đặc điểm sau:
3.1. Tính chính xác
Nói thuật ngữ khoa học trước hết phải nói đến tính chính xác. Điều đó có
nghĩa là thuật ngữ phải biểu hiện đúng khái niệm khoa học mà không gây nhầm lẫn.
Một thuật ngữ lí tưởng là thuật ngữ phản ánh được đặc trưng cơ bản, nội dung bản
chất của khái niệm, tuy nhiên không thể đòi hỏi thuật ngữ phản ánh đầy đủ mọi
phương diện, mọi khía cạnh của khái niệm. Thậm chí cá biệt có trường hợp thuật

17

ngữ phản ánh một đặc trưng không cơ bản, nhưng đó là đặc trưng đủ để khu biệt
thuật ngữ ấy với thuật ngữ khác.
Để đặt ra được những thuật ngữ chính xác, cần cố gắng sao cho trong nội bộ
một ngành khoa học mỗi khái niệm chỉ nên có một thuật ngữ biểu hiện và ngược lại
mỗi thuật ngữ chỉ được dùng để chỉ một khái niệm, nghĩa là không nên có hiện
tượng đồng nghĩa. Lẽ đương nhiên chúng ta sẽ không thể tuyệt đối hoá được
nguyên tắc này. Có thể có trường hợp do sự phát triển của khoa học mà một thuật
ngữ cũ vẫn song song tồn tại một thời gian với thuật ngữ mới. Đồng thời, thuật ngữ
cần phải có tính một nghĩa. Hiện tượng một nghĩa cũng như việc tránh đồng nghĩa
là yêu cầu đối với các thuật ngữ cùng thuộc một ngành khoa học, còn giữa các
ngành khoa học khác nhau mà đòi hỏi các thuật ngữ phải như vậy thì e là không
hoàn toàn thực tế. Thí dụ, thuật ngữ tiếng Anh “deposit”, trong ngành địa chất có
nghĩa là “vật liệu chưa hoặc đã được gắn kết tích tụ ở các bồn trũng”, còn trong
ngành khai khoáng thì có nghĩa là “mỏ hay khoáng sàn, tức nơi tích tụ tự nhiên của
quặng hoặc vật liệu quí, kể cả dầu khí có giá trị thương mại”. Trong khi đó, ở lĩnh
vực thương mại cũng thuật ngữ này lại có ý nghĩa là “khoản tiền đặt cọc, tiền ký
quĩ”. Thực tế này một lần nữa cho thấy đúng là "Thuật ngữ - đó không phải là một
từ đặc biệt mà chỉ là từ có chức năng đặc biệt ( ) đó là chức năng gọi tên" như

Ґ.O. Bинокур đã nhận xét.[72, 5 – 6]
Mặt khác, khi giữa các ngành khoa học khác nhau mà có những khái niệm về
cơ bản giống nhau thì nên thống nhất dùng chung một thuật ngữ.
3.2. Tính hệ thống
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Thuật ngữ là một bộ phận của ngôn ngữ.
Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống riêng. Thuật ngữ của mỗi nước cũng có hệ thống
riêng. Vì vậy, nói đến thuật ngữ là phải nói đến tính hệ thống.
Từ trước đến nay, các nhà ngôn ngữ học có nhiều cách hiểu khác nhau về
tính hệ thống của thuật ngữ khoa học. Chẳng hạn, P.A. Бударов cho rằng “thuật
ngữ có tính hệ thống hai mặt: một mặt, nó là yếu tố của hệ thống thuật ngữ, mặt
khác nó lại là yếu tố của hệ thống ngôn ngữ” [70, 3 - 36]. Trong khi đó,

18

E.H.Tолиĸина lại cho rằng các hệ thống thuật ngữ "không thể hoà lẫn vào hệ thống
từ vựng của ngôn ngữ toàn dân" [78]. B.П. Даниленĸо thấy rằng “trong tính hệ
thống có bản chất phân loại” [74, 58]. A.A. Pеформатсĸий lại khẳng định “đặc
trưng của thuật ngữ là tính hệ thống về mặt cấu tạo” [77, 51].
Ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu cho rằng tính hệ thống là một đặc trưng
về nội dung, một số khác lại coi đây là tiêu chuẩn về hình thức. Quan điểm đúng
hơn cả, theo chúng tôi là: khi nói đến tính hệ thống của thuật ngữ cần phải chú ý
đến cả hai mặt: hệ thống khái niệm (tức là xét về nội dung) và hệ thống các biểu thị
(xét về hình thức).
Theo Lưu Vân Lăng, “khi xây dựng hệ thống thuật ngữ, trước khi đặt hệ
thống ký hiệu (về hình thức) cần phải xác định cho được hệ thống khái niệm (về nội
dung) của nó, đảm bảo đúng mối quan hệ lô gích nội dung-hình thức. Không thể
tách rời từng khái niệm ra để đặt thuật ngữ, mà phải hình dung, xác định vị trí của
nó trong toàn bộ hệ thống khái niệm” [29, 427].
Tính hệ thống của các biểu thị thuật ngữ thường được thể hiện rõ ràng qua
mối liên hệ liên tưởng và mối quan hệ ngữ đoạn của các tín hiệu trong ngôn ngữ.

3.3. Tính quốc tế
Các khái niệm khoa học mà thuật ngữ biểu thị là tài sản chung của toàn nhân
loại, do đó nó mang tính quốc tế.
Theo Nguyễn Thiện Giáp [12, 247] thuật ngữ là bộ phận từ vựng đặc biệt
biểu hiện những khái niệm khoa học khác nhau. Vì vậy, sự thống nhất thuật ngữ
giữa các ngôn ngữ là cần thiết và bổ ích. Chính điều này đã tạo nên tính quốc tế của
thuật ngữ. Thông thường, nói tới tính quốc tế của thuật ngữ, người ta chỉ chú ý tới
biểu hiện hình thức cấu tạo của nó: các ngôn ngữ dùng các thuật ngữ giống hoặc
tương tự nhau, cùng xuất phát một gốc chung.
Tính quốc tế của thuật ngữ không phải chỉ thể hiện ở mặt hình thức cấu tạo
ngữ âm, mà còn thể hiện ở mặt hình thái bên trong của nó (nghĩa là cách chọn đặc
trưng của sự vật, khái niệm, ) tạo cơ sở định danh và đưa vào tên gọi làm thành
hình thái bên trong của tên gọi.

19

Tuy nhiên, tính quốc tế của thuật ngữ thể hiện ở hình thức cấu tạo cũng chỉ
tương đối vì dường như không có thuật ngữ nào có sự thống nhất ở tất cả các ngôn
ngữ. Tính thống nhất của thuật ngữ thể hiện ở phạm vi khu vực. Ở các ngôn ngữ
châu Âu thuật ngữ thường bắt nguồn từ tiếng Latinh và Hy Lạp. Hai thí dụ sau đây
sẽ minh họa cho nhận định này. Thứ nhất là khái niệm “điện thoại” với tư cách là
một phương tiện liên lạc giữa hai người ở cách xa nhau, không nhìn thấy nhau.
Trong tiếng Anh – “telephone”
Trong tiếng Pháp – “téléphone”
Trong tiếng Đức – “telephone”
Trong tiếng Nga – “телефóн”
Và ngay cả trong tiếng Việt - “tê-lê-phôn”, hay “phôn”.
Thuật ngữ này vốn bắt nguồn từ tiếng Hy lạp với hai thành tố là “tele” nghĩa
là “xa” và “phone” – “âm thanh”
Thứ hai là khái niệm “đài phát thanh, máy thu thanh”.

Trong tiếng Anh – “radio”
Trong tiếng Pháp – “radio”
Trong tiếng Đức – “radio”
Trong tiếng Nga – “радио”
Và trong tiếng Việt – “ra-đi-ô”
Thuật ngữ này có nguồn gốc từ tiếng La tinh “radiare” nghĩa là “phát ra, sản
ra tia”
Các ngôn ngữ như tiếng Việt, tiếng Nhật, tiếng Hàn chịu ảnh hưởng sâu sắc
của tiếng Hán, đặc biệt là về khía cạnh từ vựng, do vậy mà vốn từ văn hóa hầu hết
đều có nguồn gốc từ tiếng Hán nên có thể nói gần như toàn bộ hệ thống thuật ngữ
đều dựa trên cơ sở các yếu tố gốc Hán.
3.4. Tính đơn nghĩa
Thuật ngữ chính xác là một thuật ngữ khi nói hay viết ra thì làm cho người
nghe, người đọc hiểu một và chỉ một khái niệm khoa học tương ứng với nó. Vì thuật
ngữ nằm trong một hệ thống thuật ngữ nhất định nên thuật ngữ chỉ có một nghĩa,

×