Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Những đặc trưng xã hội - ngôn ngữ học của tên riêng chỉ người trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.82 MB, 131 trang )

ĐẠI H Ọ C Q U Ố C G IA HÀ N Ộ I
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGỔN N(ỉừ
VŨ THỊ KIM HOA
N H Ữ N G Đ Ậ C T R Ư N G X Ã H Ộ I - N G Ồ N N G Ử H Ọ C
• • •
C Ủ A T Ê N R IÊ N G C H Ỉ N G Ư Ờ I T R O N G T IÊ N G V IỆ T
LUẬN VÃN THẠC SỸ
Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ
Mã sô : 5 0408
Người hướng dản
TS. PHẠM TẤT THẮNG
HÀ NỘI - 2005
MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứ u 2
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu
4
4. Nội dung nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Tư liệu nghiên cứu 6
7. Cấu trúc luận văn 6
( ’hương I- Những cơ sở lí luận của việc nghiên cứu tên riêng
1. Tên người và khoa nhân danh học 8
2. Sự khác biệt giữa tên riêng và tên chung
9
3. Ý nghĩa của tên riêng 12
4. Chức năng của tên riêng
14
5. Đặc điểm ngữ pháp của tên riêng


16
6. Các loại tên riêng 19
7. Lịch sử nghiên cứu tên riêng ở Việt Nam

20
('hương II- Cấu tạo của tên người Việt
I. Khái niệm về tên người 28
1. ỉ .Về thuật ngữ “tên người”
28
1.2. Về khái niệm “ Tên thật” 28
] .3.Về khái niệm “Tổ hợp định danh”
30
2. Các loại thành tố trong tên người V iệt 31
2. ỉ . Tên họ 31
1. Tên họ đơn 32
2. Tên họ kép 34
3. Tên họ ghép 36
Ten đệm 37
1. Ten đệm zero 39
2.1
2.1
2.1
2.2.2. Tên đệm đ ơ n 39
2.3. Ten cá nhân 41
2.3.1. Tên cá nhân đơn 42
2.3.2. Tên cá nhân k ép 44
3. Các kiểu cấu trúc của tên thật người Việt 45
4.Ý nghĩa của tên người 47
4 .1 .Tên người có nghĩa hay không có nghĩa?


47
4.2. Các kiểu ý nghĩa trong tên người V iệt
48
4.2.1. Về ý nghĩa của tên họ 48
4.2.2. Về ý nghĩa của tên đệm 50
4.2.3. Về ý nghĩa của tên cá nhân 50
("hương III- Những đặc trưng về mặt xã hội của tên thật người Việt
1. Đặt vấn đề 54
-ì~2. Tên gọi và giai cấp 55
2.1 .Tên gọi của nông dân 56
2.1.1. Về tên đệm 56
2.1.2. Vẽ tên cá nhân 57
2.2. Tên gọi của công nhân
59
2.2.1. Về tên đệm 59
2.2.2. Về tên cá nhân 61
2.3. Tên gọi của tầng lớp trí thức
62
2.3.1. Về tên đệm 62
2.3.2. Về tên cá nhân 63
3. Tên gọi và giới tín h 65
3.1. Tên gọi của nam 66
3.1.1. Về tên đệm 66
3.1.2. Về tên cá nh ân 68
3.2. Tên gọi của nữ
69
3.2.1. Về tên đệm 69
3.2.2.về tên cá nhân
4. Tiểu kết


71
72
( ’hương IV-Sự hình thành và biến đổi của tên thật người Việt trong đời
sống xã hội
1. .Sự hình thành tên gọi 74
2. Cách gọi tên trong giao tiếp
77
3. Sự thav đổi tên gọi 80
4. Cách viết hoa tên người 84
5. Cách sắp xếp tên người 92
Kết luận 98
Tài liệu tham khảo 100
PhiU lục 105
MỎ ĐẨU
ỉ. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ, tên riêng làm thành một
mảng tên gọi khá đặc biệt. Chúng không chỉ có số lượng rất lớn, mà còn
(lược cấu tạo dưới nhiều hình thức rất phong phú và đa dạng như: tên người
(Nhân danh), tên đất (Địa danh), tên gọi cơ quan, tổ chức còn gọi là (Hiệu
danh), tên gọi sách báo, tên riêng của động vật (Động vật danh), tên riêng
của thực vật (Thực vật danh), tên gọi các đồ vật (Đồ vật danh), tên gọi các
hiện tượng vũ trụ (Vũ trụ danh), tên gọi thần linh (Thần danh),v.v.
Cũng như các từ (còn gọi tên chung), tên riêng tồn tại dưới hình thức
các kí hiệu ngôn ngữ. Chính vì thế, chúng trở thành đối tượng nghiên cứu
trước hết của ngôn ngữ học.Và trong ngôn ngữ học, tên riêng được nghiên
cứu trong một chuyên ngành riêng biệt- đó là Môn tên riêng hay Danh xiũig
học (Onomatika).
Môn tên riêng nghiên cứu những quy luật cơ bản về nguồn gốc phát
sinh, thành phần cấu tạo, quá trình phát triển và sự hoạt động của các tên
riêng trong hệ thống ngôn ngữ.

Ở thời kỳ đầu, môn tên riêng chú trọng đến hai lớp tên gọi quan
trọng nhất trong hệ thống tên riêng- đó là tên người và tên địa lý. Chúng
được nghiên cứu trong một chuyên ngành riêng gọi là Nhân danh học
(anthroponymie) và Địa danh học (toponymie).
Ngoài Nhân danh và Địa danh, môn tên riêng còn nghiên cứu cả các
loại tên riêng khác như: tên riêng của động vật; tên riêng thực vật; tên riêng
đồ vật; tên riêng của các vị thần linh; tên cơ quan và các tổ chức chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội; tên gọi sách báo, các tác phẩm nghệ thuật và các
văn bản hành chính,v.v. So với nhân danh và địa danh, các loại tên riêng
này có số lượng khiêm tốn hơn và chưa được quan tâm nhiều.
Như vậy, cùng với Địa danh, Nhân danh chiếm một vị trí rất quan
trọng trong hệ thống tên riêng. Tên người không chỉ là một kí hiệu định
danh, gọi tên cho một người cá biệt và duy nhất, mà trong thành phần tạo
nên chúng còn chứa đựng những thóng tin mang tính lịch sử, truyền thống,
văn hoá, xã hội, đặc trưng cho mỗi cộng đồng dân tôc nhất định.
Chính vì thế trong Việt ngữ học, giáo sư Nguyễn Tài cẩn đã xem tên
người là “ mảng quan trọng nhất” trong tên riêng gốc Việt Nam. [2]
Xuất phát từ vị trí quan trọng của tên người trong hệ thống tên riêng
của một ngôn ngữ và vai trò quan trọng của chúng trong đời sống xã hội,
chúng tôi đã chọn đề tài tên người Việt để làm đối tượng nghiên cứu cho
luận văn này.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong tiếng Việt, tên người làm thành một tiểu hệ thống riêng biệt
với nhiều hình thức biểu hiện đa dạng như: tên thật, tên tục, tên huý, tên
hiệu, bút danh, bí danh, hài danh, mật danh,v.v.
Một người có thể có một hay nhiều tên gọi khác nhau tuỳ thuộc vào
lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hoá hay nguyện vọng của mỗi cá nhân.
Lúc còn nhỏ, trẻ em ở nông thôn nước ta vào thời kì phong kiến trước đây
thường được gọi bằng tên tục như: Cu, Cồ, Bồi, Đĩ, Hĩm, Mẹt, Tồ, Tẹt,
Khi đứa trẻ đã trưởng thành, người ta thường sử dụng tên thật (còn gọi là

tên khai sinh, tên chính, chính danh hay tên cái). Bên cạnh tên thật, các nhà
trí thức và nhà hoạt động chính trị còn có tên Huý, tên Tự, tên Hiệu, Bí
danh, Biệt danh, Mật danh, Bút danh,
Chẳng hạn, Nguyễn Thiếp (1723- 1804) người xã Nguyệt Ao (còn
gọi là Nguyệt Úc) huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh)
2
là người đã giúp Tây Sơn lập Sùng chính thư viện. Ngoài ten thật Nguyền
Tlìicp, ông còn có tới 12 tên tự và tên hiệu khác nhau.
Ví dụ, tên tự của ông là: Khải Chuyên, Quang Thiếp. Ông còn có các
ten hiệu là: La Sơn Phu Tử, Lam Hổng Dị Nhân, Hầu Lục Niên, Lục Niên
PlìH Tứ, Hạnh Am, Lạp PltoníỊ CưSĩ,
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê gốc ở
làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh ra ở phường
Bích Câu, Thãng Long (Hà Nội). Ông là đại thi hào của dân tộc Việt Nam
và là danh nhân văn hoá thế giới.
Trong thời kỳ còn hoạt động bí mật, nguyên chủ tịch nước Nguyễn
Lưitng Bằng đã lấy bí danh là Sao Đỏ .
Nhà thơ Lê Tư Lành lấy bút danh là Tô Hữu. Nhà văn Nguyễn Tuân
có nhiều bút danh khác nhau như: Ngột Lôi Quất, Thanh Hà, Nhất Lang,
Tuân, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa sắc.
Mặc dù tên người Việt biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng như
vậy, nhưng trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ tập trung sự
chú ý của mình vào việc khảo sát và miêu tả một loại tên gọi cơ bản và
quan trọng nhất- đó là tên thật của người Việt. Đây là loại tên gọi cơ bản và
chủ yếu nhất trong hệ thống tên người của một ngôn ngữ. Bởi vì bất kỳ
người nào cũng phải mang tên thật. Tên thật là tên gọi có giá trị về mặt
pháp lý. Chúng được sử dụng chính thức trong các văn bản chính thức của
nhà nước. Tên thật không chí là tên gọi khu biệt cho tính cá thể đơn nhất
của đối tượng được gọi tên mà trong thành phần câu tạo của chúng còn thể
hiện được tính dân tộc đặc trưng cho mỗi cộng đồng nhất định.

Các loại tên riêng chỉ người khác không nằm trong phạm vi khảo sát
chính của luận văn, mà chỉ có giá trị so sánh để làm rõ đối tượng nghiên
cứu.
3
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu
(1). Mục đích của luận văn nhằm khảo sát và miêu tả những đặc
trưng về mặt xã hội-ngôn ngữ học của tên thật người Việt. Đây là một
hướng nghiên cứu mới không chỉ đối với các hiện tượng ngôn ngữ khác
trong Việt ngữ học, mà đối với cá việc nghiên cứu tên riêng tiếng Việt. Trên
bình diện nghiên cứu này, tên người không chỉ được làm rõ về mặt cấu trúc
- ngữ nghĩa, mà còn được miêu tả cả những đặc trưng về mặt xã hội của các
kí hiệu tên gọi được phát sinh và phát triển trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Nói cách khác, các kiểu cấu trúc của tên thật người Việt cũng
như ý nghĩa của chúng ít nhiều cũng phản ánh những dấu hiệu về mặt xã
hội thông qua sự phân tầng xã hội.
(2). Với tư cách là tên gọi- một loại kí hiệu ngôn ngữ, việc nghiên
cứu tên người có ý nghĩa trước hết về mặt ngôn ngữ học. Khác với các tên
chung (các từ), tên thật của người được chúng tôi xem là một tổ hợp vị định
đanh. Quan niệm này có nhiều khả năng tiếp cận một cách chân thực, gần
với bản chất của tên gọi hơn so với quan niệm xem tên thật là từ giống như
những từ loại danh từ khác.
Việc nghiên cứu tên thật người Việt trên bình diện xã hội- ngôn ngữ
học còn góp phẩn làm rõ bản chất xã hội của các tín hiệu ngôn ngữ, trong
đó tên riêng chỉ người là một loại tín hiệu ngôn ngữ đặc biệt.
Về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu tên người trẽn bình diện xã hội-
ngôn ngữ học còn có ý nghĩa trong việc tìm hiểu những giá trị truyền
thống, văn hoá của người Việt thông qua cách đặt tên và gọi tên.
4. Nội dung nghiên cứu
Để làm rõ những đặc trưng xã hội- ngôn ngữ học của tên riêng chỉ
người trong tiếng Việt, luận văn đã tiến hành việc khảo sát và micu tả

những vấn đề cơ bản sau đây:
4
(1). Micu tả câu trúc của tên thật người Việt, bao gồm cả việc mô
hình hoá cấu trúc khái quát, các kiểu cấu trúc cụ thể và ý nghĩa của tên thật
người Việt.
(2). Khảo sát và miêu tả những đặc trưng về mặt xã hội học của tên
thật người Việt thông qua sự phân tầng xã hội về mặt giới tính và thành
phần giai cấp trong xã hội
(3). Tìm hiểu quá trình hình thành, biến động của tên riêng người
Việt trong đời sống xã hội trên cá lĩnh vực văn tự và s;iao tiếp lời nói.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tên người là đối tượng nghiên cứu không chỉ của ngôn ngữ học, mà
còn của nhiều ngành khoa học xã hội khác như : sử học, dân tộc học, tâm lí
học, xã hội học, nghiên cứu văn học, Chính vì thế việc nghiên cứu tên
riêng có thể được tiến hành bằng các phương pháp của ngôn ngữ học thuần
tuý hay bằng các phương pháp nghiên cứu liên ngành của xã hội học, tâm lí
học hay dân tộc học,
Trên bình diện thuần tuý ngôn ngữ học, tên người có thể được
nghiên cứu trên bình diện cấu trúc, nghĩa là tiến hành việc miêu tả và mô
hình hoá tất cả các kiểu cấu trúc tên gọi về mặt hình thức là chủ yếu. Sự
hình thành và phát triển của tên người trong xã hội có thể được nghiên cứu
trên bình diện đồng đại và lịch đại.
Ngoài ra, tên người còn được nghiên cứu cả trên bình diện xã hội -
ngôn ngữ học, dân tộc- ngôn ngữ học, tâm lí- ngôn ngữ học, Đây là những
khuynh hướng nghiên cứu mới mang tính liên ngành, nhằm phát hiện ra
những đặc trưng về mặt xã hội, dân tộc hay tâm lí của người đặt tên thông
qua các kí hiệu tên gọi.
Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu xuất phát từ bình diện xã
hội- ngôn ngữ học của tên riêng để tiến hành khảo sát và miêu tả những đặc
trưng về mặt xã hội của tên thật người Việt.

5
Để thực hiện được điều đó, luận văn đã phái sử dụng đến các
phương pháp và thủ pháp nghiên cứu truyền thống của ngôn ngữ học là
thống kê, phân tích, micu tả, mô hình hoá và so sánh các các kiểu cấu trúc
tên người cá trên bình diện dồng đại và lịch đại.
Ngoài ra, để làm rõ nhữne, đặc trưng về mặt xã hội của đối tượng
nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng đến các phương pháp điều tra của dân
tộc học và xã hội học để khảo sát sự biến động của các tên người dưới sự
tác động của các nhân tố xã hội.
6. Tư liệu nghiên cứu
Để làm rõ nội dung nghiên cứu, luận văn đã tiến hành việc thống kê
tên thật của người Việt chủ yếu trên các văn bản hành chính như: sổ theo
dõi dân số ở các địa phương, danh sách các cán bộ công nhân viên chức
làm việc trong một số cơ quan, tổ chức nhà nước, danh sách học sinh, sinh
viên ở các trường mẫu giáo, tiểu học, THCS, THPT trên địa bàn Hà Nội và
Hà Tây.
Các loại tên gọi đó không chỉ được thống kê một cách đơn lẻ, rời rạc,
mà còn được điều tra, xem xét trong cùng một hệ thống với tên gọi của bố
mẹ, anh chị em trong gia đình để thấy được mối liên hệ về mặt cấu trúc
cũng như về mặt ý nghĩa của tên gọi.
Ngoài ra, để tìm hiểu những đặc trưng về mặt xã hội ngôn ngữ học
của tên riêng, luận văn còn tiến hành việc thống kê, điều tra tên gọi theo các
phạm vi giới tính và thành phần giai cấp của người có tên xuất hiện ở vùng
đồng bằng Bắc bộ (chủ yếu là trên địa bàn Hà Nội và Hà Tây từ năm đầu
thế kỷ XX đến nay). Số lượng tên gọi được thu thập qua các thời kì vào
khoáng 10.000 đơn vị.
7. Cấu trúc của luận vãn
Ngoài phần Mứ đầu, phần Kết luận, phần Tài liệu tham khảo và Phụ
lục luận văn gồm 3 chương sau đây:
6

Chương I- Những cơ sơ lí luận của việc nghiên cứu tên riêng
Chương II- Cấu trúc của tên thật người Việt
Chưưng III- Những đặc trưng về mặt xã hội của tên thật người Việt
Chương IV- Sự hình thành và biến động của tên thật người Việt trong
đời sống xã hội
7
Chương I
NHŨNG C ơ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC
NGHIÊN CỨU TÊN RIÊNG
1. Tèn người và khoa Nhân danh học
Trong hệ thống tên riêng của một ngôn ngữ, tên người làm thành một
mảng tên gọi khá đặc biệt. Do mỗi người có một tên gọi riêng, nên tên
người có số lượng vô cùng lớn và không xác định. So với các loại tên riêng
khác, tên người tồn tại dưới nhiều hình thức rất phong phú và đa dạng như:
tên tục, tên huý, tên tự, tên hiệu, bút danh, biệt danh, bí danh, hài danh,
nghệ danh,
Về cấu tạo, tên người là một hệ thống không đồng loại. Trừ tên thật
(còn gọi là Tên chính) có cấu tạo khá phức tạp, còn cấu trúc của các loại
tên người khác đơn giản hơn và thường được sử dụng trong một phạm vi
nhất định.
Về ý nghĩa, cũng so với các loại tên riêng khác, tên người là một loại
kí hiệu ngôn ngữ có nhiều khả năng phản ánh một cách nhạy cảm mọi sự
biến động diễn ra trong đời sống xã hội. Người ta có thể tìm thấy trong ý
nghĩa của tên người những dấu hiệu của lịch sử, truyền thống, văn hoá, xã
hội và nhiều thứ khác đặc trưng mỗi một cộng đồng dân tộc nhất định.
Chính vì thế, tên người đã trở thành đối tượng quan tâm nghiên cứu không
chi của ngôn ngữ học, mà còn của nhiều ngành khoa học xã hội khác như
sử học, xã hội học, tâm lí học,
Trong ngôn ngữ học tên người được nghiên cứu trong một môn học
riêng gọi là Nhân danh học.

Nhàn danh học (anthroponymie) nghiên cứu về tên người. Nhiệm vụ
chú yếu của môn học này là nhằm phát hiện ra những quy luật cơ bản về
8
quá trình hình thành, biến đổi và phát triển của tên người trên cả bình diện
cấu trúc- chức năng lẫn bình diện lịch sử- xã h ộ i.
Cùng với Địa danh học, Nhân danh học xuất hiện ở châu Âu vào
những năm cuối của thế kỷ XIX và bắt đầu phát triển vào đầu thế kỷ XX.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu tên riêng nói chung và tên người nói
riêng mới xuất hiện vào khoảng những năm 60-70 của thế kỉ XX. Hiện nay,
tên riêng chỉ người trong tiếng Việt ngày càng thu hút sự quan tàm chú ý
của giới chuyên môn.
2. Sự khác biệt giữa tên riêng và tên chung
Trong hệ thống vốn từ của một ngôn ngữ có sự đối lập giữa hai hệ
thống tên gọi hoàn toàn khác nhau- đó là tên riêng và tên chung.
Trong “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học”, tên riêng được
định nghĩa như sau:
“ Từ, cụm từ hoặc câu dùng để tách biệt đối tượng được gọi tên ra
khỏi tập hợp các đối tượng khi cá thể hóa chúng. Đặc điểm của tên riêng là
dùng để gọi tên (kí hiệu) người hoặc các sự vật riêng lẻ, không liên quan gì
đến đặc trưng của chúng, tức là không có sự tương ứng giữa tính chất của sự
vật được gọi tên (kí hiệu) và nghĩa của từ, cụm từ hoặc câu”. [56]
Tác giả Nguyên Tài cẩn trong cuốn: ‘T ừ loại danh từ trong tiếng
Việt hiện đại” năm 1975 đã viết: “Cũng như ở các ngôn ngữ khác, trong
danh từ tiếng Việt cũng cần phải tách danh từ riêng thành một tiểu loại đặc
biệt. Bất kì đó là nhân danh hay địa danh, tên sách báo hay tên gọi tổ chức,
tên gọi thời đại, danh từ riêng bao giờ cũng có đặc điểm là chí dùng để gọi
tên của một sự vật duy nhất, cá biệt. Chính đặc điểm này là đặc điểm đã
làm cho danh từ riêng khác hẳn các danh từ còn lại, cả về mặt ý nghĩa, cả
về mặt đặc trưng ngữ pháp” [2].
9

Năm 1979, tác giả Nguyễn Văn Thạc cho rằng: “Danh từ riêng là
những danh từ về mặt nội dung ý nghĩa chỉ biểu thị một đối tượng, sự vật
riêng lẻ, duy nhất không có mối liên hệ nào với đặc trưng của đối tượng sự
vật với ý nghĩa của từ. Danh từ riêng chỉ là cái tên dùng để gọi chứ không
phải từ dùng để hiểu. Nó chỉ có ý nghĩa biểu vật chứ không có ý nghĩa biểu
niệm. Danh từ riêng có thể xem là bộ phận hạt nhân của tên riêng”. [32]
Tác giả Đỗ Hfru Châu, năm 1981 viết: “Tên riêng là tên đặt cho
từng cá thể sự vật. Tên riêng không phải hoàn toàn không có nghĩa biểu
niệm. Giả định rằng ở một dân tộc nào đó, tên riêng của người khác hẳn
với tên riêng đất đai, núi sông, khác hẳn với tên riêng động vật, thì chỉ
cần nghe tên riêng người nghe sẽ không rơi vào tình trạng mơ hồ chiếu
vật. Lúc này phạm trù người, đất đai, sông núi mà tên niêng gợi ra (do sự
khác nhau trong cách đặt tên) là nét biểu niệm của tên riêng. Chức năng
cơ bản của tên riêng là chỉ cá thể sự vật đúng với phạm trù của cá thể được
gọi tên bằng tên riêng đó. Thí dụ tên riêng chỉ người có chức năng cơ bản
là chỉ cá thể người trong phạm trù người, tên riêng của sông, núi có chức
năng cơ bản là chỉ cá thể núi, sông trong phạm trù vật thể tự nhiên Tuy
nhiên trong sử dụng, tên riêng có thể được dùng theo lối dịch chuyển
phạm trù theo phương thức chuyển nghĩa hoán dụ.
Ví dụ: Dùng tên địa phương để chỉ người (Cụ Tiên Điền, Tiên Điên
là tên làng ở đây dùng với nghĩa chiếu vật : Nguyễn Du), dùng tên người
để chỉ tác phẩm nghệ thuật (xem triển lãm Tô Ngọc Vân) dùng tên riêng
của hãng sản xuất để gọi tên sản phẩm (dùng Hon đa để gọi tên cho bất
kỳ loại xe máy nào, )
Quan trọng hơn ià tên riêng được dùng trong chức năng xưng hô. Tuy
là phạm trù ngôn ngữ học phổ quát, nhưng tên riêng mang đậm bản sắc dân
tộc cả về quy tắc đặt tên cả về quy tắc dùng” [3]
10
Đến năm 2004, sự khác nhau căn bản giữ tên riêng và tên chung đã
được tác giả Phạm Tất Thắng phân biệt một cách khá chi tiết. Ông viết:

“Tên chung (general names) - đó là những từ chung có ý nghĩa chỉ ra
một lớp đối tượng cùng loại; còn tên riêng (proper names) chỉ là những kí
hiệu định danh cho một đối tượng cá biệt, đơn nhất và xác định. NÓI cách
khác, tên chung có mối liên hệ với khái niệm, còn tên riêng thì không có
môi liên hệ với bất kỳ khái niệm nào cả.( )
Ở đâu mà sự vật riêng lẻ được con người chú ý đến, thì ở đó có tên
riêng. Tên riêng xác nhận sự tồn tại của sự vật, còn tên chung nêu lên đặc
tính của sự vật này khác biệt với đặc tính của những sự vật khác cùng loại.
Tên riêng thì cá thể hoá, còn tên chung thì khái quát hoá. Nếu tính
cá thể của đối tượng được gọi tên trở nên không xác định và có tính khái
quát hoá, thì sẽ nảy sinh hiện tượng chuyển tên riêng thành tên chung.
Trong bất kỳ một hệ thống ngôn ngữ nào cũng diễn ra một sự chuyển
hoá thường xuyên như vậy giữa tên chung và tên riêng. Chính sự chuyển
hoá này đã làm phong phú thêm vốn từ vựng của ngôn ngữ.
Thường là các cá thể bao giờ cũng xuất hiện đầu tiên, nhưng dường
như các tên riêng lại xuất hiện sau những tên chung. Người ta thường sử
dụng các ký hiệu có sẩn là những tên chung để làm tên gọi cho các cá thể.
Do vậy có thể xem tên ricng là những kí hiệu ngôn ngữ đặc biệt được tạo
thành lừ một hệ thống ký hiệu đã có để gọi tên cho một đối tượng khác.( )
Chức năng cơ bản của tên chung là gọi tên để thông báo, để biểu
niệm. Còn chức năng của tên riêng là gọi tên để phân xuất và phân biệt với
các đối tượng cùng loại.
Cũng như tên chung, tên riêng cũng có nghĩa, nhưng tên riêng có
nghĩa đồng thời có giá trị chỉ khi nào nó xác lập được mối liên hệ trực tiếp
1 I
của nó với đối tượng, nếu không tên gọi đó chỉ giống như những cái "nhãn"
được dán vào đối tượng hoặc giống như các từ tượng thanh mà thôi.
Về nguyên tắc, mọi đối tượng đều có thể có cả tên chung lẫn tên
riêng. Tuy nhiên những đối tượng có tên riêng thường phải có mối liên hệ
đặc biệt đối với con người. Nói cách khác, các đối tượng có tên riêng bị quy

định bởi các giá trị xã hội của chúng đối với con người. [43]
Như vậy sự khác nhau giữa tên rêng và tên chung khòng chỉ về mặt
cấu tạo, mà còn cả về chức năng, ngữ nghĩa và những đặc trưng mang
tính xã hội khác.
3. Ý nghĩa của tên riêng.
Trong lịch sử Danh xưng học, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến trái
ngược nhau về ý nghĩa của tên riêng. Tựu trung lại, có hai trường phái đối
lập nhau: một trường phái cho rằng tên riêng có nghĩa ; trường phái khác lại
quan niệm tên riêng không có nghĩa.
Chẳng hạn, Theo J. St. Mill, tên riêng cũng giống như vệt phấn đánh
dấu ở một cái nhà : nó không có nghĩa mà chỉ có mục đích là chỉ ra biểu vật
[36]
Theo E. S. Aznaurova, tên riêng khiếm nghĩa, nó không mang tính
thông tin xã hội hoá. Bởi vậy ở nó nổi lên rất rõ nội dung hàm chỉ, tức là
nội dung ngữ nghĩa tu từ bổ sung được nảy sinh trên cơ sở các mối liên
tưởng thường trực trong tâm thức của cộng đồng ngôn ngữ.[ 36]
Theo tác giả Lý Tống Địch của Trung Quốc, thì tên người có ý nghĩa
văn học. Theo ông, đó là ý muốn chủ quan của người đặt tên được chuyển
vào trong mỗi hình thức tên gọi. Chẳng hạn muốn con mình học hành uyên
bác thì có thể gọi là: Ngạn Bác, Chung Văn, Chung Thư, Văn Uyên, Tam
Tư, Đoan Học, Vãn Lâm

[8 I
12
Trong Việt ngữ học, cũng có hai quan niệm khác nhau về nghĩa của
tên riêng.
Chẳng hạn, theo tác giá Hoàng Phê: Tên riêng là những kí hiệu thuần
túy không có nghĩa. Có những tên riêng vốn có nghĩa thì cái nghĩa đó
thường cũng không ai nghĩ đến, nó trở thành thật sự “vô nghĩa”.[26]
Ngược lại với quan niệm này, nhiều ý kiến khi đề cập đến tên riêng

đéu cho rằng tên riêng có nghĩa, mặc dù quan niệm về nghĩa của tên riêng ở
mỗi lại không hoàn toàn như nhau.
Theo tác giả Hoàng Tuệ: “ tên riêng không phải là một con số, một
cái nhãn chỉ có tác dụng đủ để phân biệt, mà là một biểu trưng” [28]
Tác giả Lê Trung Hoa quy tên riêng về những ý nghĩa cụ thể từ đó
ông mới đưa ra những cách đặt tên khác nhau. [16]
Riêng tác giả Phạm Tất Thắng đã dành hẳn một bài báo nói về ý
nghĩa của tên riêng. Ông viết: “Về mặt hình thức các tên riêng không có sự
khác biệt rõ rệt so với các tên chung. Vì rằng, hầu hết các tên riêng đều sử
dụng các ký hiệu sẵn có trong hệ thống tên chung để làm ký hiệu cho
mình. Do vậy sự khác nhau căn bản giữa tên riêng và tên chung không phải
ở mặt hình thức, mà chủ yếu thể hiện qua nội dung, tức là cái nội dung được
biểu hiện thông qua ký hiệu ngôn ngữ.”
“(•••) khi thực hiện chức năng định danh, các tên riêng cũng đồng
thời thực hiện chức năng biểu vật. Bởi vì chức năng định danh chỉ là một
dạng của chức năng biểu vật. Các tên chung cũng thực hiện chức năng này,
nhưng ý nghĩa biểu vật trong các tên chung có tính khái quát, còn ý nghĩa
biểu vật trong các tên riền lại mang tính cá biệt và đơn nhất. Do vậy để hiểu
tên riêng người ta cần phải có sự hình dung rõ ràng và cụ thể về đối tượng
được gọi tên chứ không phải thông qua các đặc điểm của nó. Một tên riêng
bất kỳ (cụ thể là tên người) hoàn toàn xa lạ với chúng ta sẽ không nói lên
được điều gi ngoài thứ âm thanh trống rỗng nên chúng ta không thể hiểu
13
biết gì về đối tượng được gọi tên là nam hay nữ, già hay trẻ, cao hay thấp,
béo hay gầy”.
“(•••) nghĩa của tên riêng chỉ người cũng chính là đối tưựng với đầy
đủ các đặc điểm từ ngoại hình cho đến các đặc điểm về tâm sinh lý giới
tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, của người có tên.”
“Bên cạnh chức năng định danh, tên riêng còn có khả năng phản
ánh những tư tưởng, tình cảm hay nguyện vọng của con người đối với việc

hiện thực thông qua việc lựa chọn và sử dụng các hình thức ký hiệu tên
gọi.” [36]
Như vậy là theo tác giả Phạm Tất Thắng, tên riêng hoàn toàn có
nghĩa. Nghĩa của tên riêng (cụ thể là tên người) thường mang giá trị biểu
trưng và có giá trị hàm chỉ. Ý nghĩa biểu trưng theo ông là ý nghĩa “dựa vào
mối liên hệ với ý nghĩa từ vựng của những từ sản sinh ra chúng”. Còn ý
nghĩa hàm chỉ là ý nghĩa thể hiện những dấu ấn mang tính xã hội của tên
gọi. Ông gọi chung cho cả hai loại nghĩa này là “ý nghĩa xã hội của các kí
hiệu tên riêng”.
4. Chức năng của tên riêng
Trong các tài liệu viết về tên riêng tiếng Việt, vấn đề chức năng của
tên riêng hiện vẫn chưa có ý kiến thống nhất.
Theo tác giả Hoàng Phê: “Chức năng của tên riêng chỉ là để nhận
diện, làm sao cho nhận diện đúng, không nhầm và dễ dàng” [26]
Tác giả Hoàng Tuệ lại cho rằng, tên riêng có hai chức năng: chức
năng ngữ nghĩa và chức năng xã hội. Ông viết: "Một tên riêng tạo nên trong
trí óc ta sự liên hệ đến một thực thể trong tính chất cá thể. Đó là chức năng
ngữ nghĩa của tên riêng. Chức năng đó xác định cho tên riêng một vai trò
rất quan trọng đối với tư duy, đối với đời sống con người "
14
về chức năng xã hội, ông cho rằng: " Có thể nói một cách khái quát
rằng hễ có tên riêng thì một cá thể nhất định đã có quan hệ với xã hội", "
( ) hễ có tên là không tách rời khỏi xã hội", “Các tổ chức, các công trình,
và cả những sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, trong ý nghĩa tinh thần và
vật chất, đều bao hàm những quan hệ nhất định với xã hội", " Với chức
năng xã hội của nó, tên riêng không phải là một con số, một cái nhãn chỉ có
tác dụng đủ để phân biệt, mà là một biểu trưng", “ Mỗi người cần có khả
năng từ những tên riêng ấy liên hệ đến các thực thể cá thể. Khả năng đó là
một phần không thể không có ở một trình độ tư duy, trinh độ văn hoá. Đó là
khả năng định hướng của trí óc ta, bao hàm khả năng nhận thức được quan

hệ giữa ta với các cá thể tồn tại trong không gian mênh mông và thời gian
bao la. Nghĩa là tên riêng phải thực hiện tốt cả hai chức năng: chức năng
ngữ nghĩa và chức năng xã hội.”[28]
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Chức năng cơ bản của tên riêng là
chỉ cá thể sự vật ” và “Quan trọng hơn là tên riêng được dùng trong chức
năng xưng hô.” [3]
Trong một bài báo gần đây đăng trên T/c Ngôn ngữ & Đời sống có
tên gọi: “Bàn tiếp về tên người”, tác giả Đào Tiến Thi còn cho biết: tên
riêng còn có chức năng duy trì bản sắc văn hoá. [47]
Theo tác giả Phạm Tất Thắng, chức năng chủ yếu của tên riêng là
chức năng định danh. Ngoài ra, ông còn cho tên riêng còn có chức năng
biểu vật. Ông viết: “ khi thực hiện chức năng định danh, các tên riêng cũng
đồng thời thực hiện chức năng biểu vật. Bởi vì chức năng định danh chỉ là
một dạng của chức năng biểu vật”. [36]
Tác giả Trần Ngọc Thêm không bàn đến chức năng của tên riêng nói
chung mà chỉ đề cập khá kĩ về chức năng của tên người. Ông cho rằng, tên
người có 5 chức năng sau đây:
15
(1) Chức năng phân biệt. Đây là chức năng chính, chủ đạo. Bởi vì
tên gọi nói chung xuất hiện là do nhu cầu phân biệt.
(2) Chức năng biệt giới (phân biệt nam nữ). Sự phân biệt này
mạnh hay yếu tuỳ thuộc vào những đặc trưng về ngôn ngữ, tập quán của
mỗi dân tộc.
Ví dụ: tên của người Nga phân biệt nam nữ dựa vào các phương tiện
ngữ pháp như: Cô va lép xkaja (nữ) Cô va lép xki (nam). Người Việt Nam
lại dựa vào phương tiện từ vựng dể phân biệt nam nữ.
(3) Chức năng thẩm mỹ là chức năng tồn tại trong tên gọi của mọi
dân tộc. Khi đặt tên, người ta thường liên hệ đến một kỷ niệm một sự kiện
gì hoặc thông qua đó để thể hiện thị hiếu riêng. Ngoài ra nó còn có các quy
luật khác chi phối như : phong tục, tập quán, truyền thống, mốt,

(4) Chức năng bảo vệ. Nếu khéo chọn, tên có thể tránh cho người
mang tên khỏi những tai hoạ, thậm chí còn được thần phù hộ.
(5) Chức năng xã hội, trong xã hội cũ giữa các tầng lớp vua quan trí
thức với dân thường có sự phân biệt rõ rệt. Chức năng này còn thể hiện ở sự
đổi tên theo lứa tuổi. [46]
Như vậy, trong Danh xưng học tiếng Việt, vấn đề chức năng của tên
riêng chưa được nghiên cứu nhiều và còn nhiều ý kiến chưa thống nhất.
Chắc chắn, đây là mảng đề tài còn thu hút sự quan tâm chú ý của giới
chuyên môn.
5. Đặc điểm ngữ pháp của tên riêng
Theo cách phân loại truyền thống trong Việt ngữ học, tên riêng
thường được xếp vào cùng nhóm với từ loại danh từ, vì thế chúng gọi là
danh từ riêng, v ề điều này, tác giả Hoàng Tuệ đã viết: “Theo truyền thống
rất lâu đời trong ngữ pháp học phương Tây, tên riêng và tên chung được coi
16
là thuộc cùng một hệ thống, một từ loại danh từ. Tên riêng: danh từ riêng;
tên chung: danh từ chung. Sự phân loại này đã thành một nếp nghĩ.” [28]
Theo tác giả Nguyễn Kim Thản, đặc trưng ngữ pháp của tên riêng
nằm trong từ loại danh từ nói chung, nên ngoài những đặc trưng cho cả tiểu
loại danh từ nói chung, danh từ riêng còn có những đặc trưng từ vựng- ngữ
nghĩa như : “ biểu thị tên gọi của một sinh vật, một tập thể, hay một sự kiện
riêng biệt, và nói chung, không bị số từ, lượng từ, phó danh từ và đại từ chỉ
định hạn chế.”
- Không trực tiếp làm vị ngữ, mà phải kết hợp với hệ từ là, hoặc
không phải, không phải là ở trước nó. Không đặt sau các từ : đã, đừng, sẽ.
- Có thể kết hợp với một trong các từ loại sau đây: số từ, đại từ chỉ số
(tất cả, cả), lượng từ (những, các) phó danh từ (con, cái, )
- Không đặt sau: hãy, đừng, chớ,
Đối với danh từ riêng chỉ tên người, đặc trưng ngữ pháp nói trên cũng
không tuyệt đối.

Theo ông, những danh từ riêng chỉ người có đặc điểm chung là: có
thể đặt sau những phó danh từ có tác dụng phân biệt tính biệt, tuổi tác,
trọng hay khinh.
Ví dụ: cụ Hồ, ông Nguyễn, cậu Nam, chị Thu, thằng Tí,
Trường hợp đặc biệt, danh từ riêng chỉ người có thể kết hợp với đại từ
chỉ định.
Trong trường hợp có hai người trùng tên nhau, danh từ riêng chỉ
người có thể đặt sau một số từ.
Ví dụ: Trong ìớp này có hai Bảo.
Ngoài ra, danh từ riêng chỉ tên người có thể đặt sau một nếu từ này có
nghĩa như một mình.
Ví dụ: “ Thêm một Thứ nữa vừa là bày ” " một Bính còn chả lọt
huống hồ lại đèo thêm một con”
- Tự xưng có ý nhấn mạnh: Bảo này quyết không sợ quân thù\
- Đặt sau tổ hợp: Cái + phó danh từ và có ý khinh bỉ.
Ví dụ: Cái thằng Ngọc kia! Mày có im đi không'?” [33]
Trong cuốn “Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại', tác giả
Nguyễn Tài cẩn cũng cho rằng: trong danh ngữ, danh từ riêng thường
thường chỉ đứng một mình, đứng ở vị trí trung tâm, còn ở vị trí phụ thì đều
bỏ trống. Đôi khi danh từ riêng cũng tạo thành danh ngữ, nghĩa là dùng có
kèm thêm một đôi từ phụ nào đó, nhưng ngay những lúc này cũng có những
nét đặc biệt làm cho danh từ riêng khác hẳn với các tiểu loại danh từ khác.
Điều đó thể hiện ở chỗ:
- Danh từ riêng đôi khi có thể dùng kèm với “ cả ”, “íứ/ cả ” trong
danh ngữ.
Ví dụ: cả Hà Nội, cả Nguyễn VănNam, cả Sống mòn
- Trường hợp danh từ riêng không dùng để gọi tên một sự vật duy
nhất, cá biệt mà lâm thời dùng rộng ra để chỉ nhiều sự vật có đặc điểm
giống như sự vật có tên riêng đó thì có thể dùng được “ những, các”.
Ví dụ: “ Tất cả những gì mà chúng ta gọi là đẹp đẽ đã được Vũ

Trọng Phụng dựng lên thành người, những Nghị Hách, những Tuyết,
Loan". Hoặc “ Sẽ còn những Điện Biên Phủ chờ đợi lũ chúng nó ở châu
Mỹ là- tinh và ở châu Phi”.
- Khi tình cờ có đến hai ba sự vật trùng tên, cùng gọi chúng bằng một
danh từ riêng, thì có thể kết hợp với số từ.
Ví dụ: Ớ đây có hai Nguyền Ván Nam, anh cần gặp Nam nào?
18
Như vậy, danh từ riêng mang những đặc trưng ngữ pháp rất khác so
với danh từ chung. Chính vì thế mà tác giả Hoàng Tuệ cũng đã từng nhận
xét rằng:
Nếu căn cứ chức năng ngữ nghĩa khác nhau của tên riêng và tên
chung, thì có thể thấy rằng tên riêng đáng được tách ra thành một hệ thống;
còn danh từ chung có thể với động từ và tính từ làm thành một hệ thống
khác, vì những loại này đều biểu thị khái niệm: khái niệm về sự vật (danh từ
chung), về hoạt động (động từ) về tính chất (tính từ)” [28]
6. Các loại tên riêng
Trong lịch sử Việt ngữ học, trước đây cũng đã có một vài tác giả
tiến hành việc phân loại tên riêng tiếng Việt. Có lẽ người đầu tiên phân
loại tên riêng đó là tác giả Hoàng Tuệ. Ông phân chia tên riêng làm các
loại sau đây:
(1). Tên người: Nguyễn Trãi, Lê Lợi
(2). Tên nơi chốn: Hà Nội, Thăng Long, gồm cả sao Hoả, sao
Kim
(3). Tên thời kỳ, thời điểm, sự kiện lịch sử: Bắc thuộc, Lê - Trịnh,
30-4, (năm) Thìn, (năm) Ngọ
(4). Tên tổ chức: Đông Kinh Nghĩa Thục, Đảng cộng sản Việt
Nam, Fafim
(5). Tôn công trình: Truyện Kiều, Tháp Chăm,
Bên cạnh đó ông còn nhắc đến tên riêng của súc vật, gia súc, nhưng
theo ông, những tên riêng này không quan trọng. [28]

Năm 1992, tác giả Lê Trung Hoa cho rằng, tên riêng có hai loại:
nhân danh và địa danh. [16]
Gần đây nhất, vào năm 2003, tác giả Phạm Tất Thắng đã phân chia
tên riêng một cách khá chi tiết. Theo ông tên riêng tiếng Việt gồm có 13
loại sau đây:
19
1. Tên người,
2. Tên Thánh, Thần, tên Phật
3. Tên văn vật
4. Tên thời đại, thời kỳ, thời nhật.
5. Tên công trình kiến trúc, cơ quan, xí nghiệp, tàu bè, vũ khí
6. Tên sách báo, vở diễn, phim ảnh.
7. Tên sự kiện, phong trào xã hội, nhân vật, địa danh lịch sử, nhãn
hiệu hàng hoá.
8. Tên đất (địa danh).
9. Tên các vùng không gian - vũ trụ, thiên hà, chòm sao
10. Tên các thiên thể.
11. Tên các thiên tai.
12. Tên gia súc, gia cầm.
13. Tên cây cỏ, hoa lá. [40]
Tóm lại, trong cách phân loại trước đây, của hầu hết các tác giả đều
thống nhất cho rằng, tên riêng tiếng Việt chủ yếu gồm có nhân danh, địa
danh; tên cơ quan, tổ chức; tên gọi sách báo. Các loại tên riêng khác vẫn
chưa được phân ioại một cách rõ ràng trong hệ thống tên riêng.
7. Lịch sử nghiên cứu tên người ở Việt Nam
Vấn đề nghiên cứu tên riêng chỉ người trên thế giới đã có lịch sử
khá lâu đời. Ở Pháp, nó được nghiên cứu từ thế kỉ XVII, ở Anh có từ thế
kỷ XIX.
Còn ở Việt Nam, vào khoảng những năm 50- 60 của thế kỉ XX, việc
nghiên cứu tên người Việt mới chính thức được đặt ra. Nhưng phải đến

những năm 70, trước sự đòi hỏi về sự thống nhất cách viết hoa tên riêng
tiếng Việt và tên riêng nước ngoài trên sách báo tiếng Việt, thì vấn đề tên
riêng tiếng Việt mới thực sự thu hút sự chú ý của giới chuyên môn. Nhìn
chung, ở giai đoạn này, các công trình nghiên cứu về tên riêng thường tập
trung chú yếu cho mục đích chính tả viết hoa trên các sách báo tiếng Việt.
2 0
Sau đây là một số công trình và tác giả tiêu biểu viết về tên riêng
trong thời kì này:
Lê Anh Hiền: Bàn về qui tắc viết hoa tên riêng chỉ người, chỉ đất
trong tiếng Việt ,T/c Ngôn ngữ, 1972
Nguyễn Quang Lệ: v ề việc viết hoa tên riêng ,T/c Ngôn ngữ, 1972
Nguyễn Huy Minh: v é qui tắc viết hoa tên người, tên đất ,T/c Ngôn
ngữ, SỐ 2, 1973
Lê Xuân Thại: Nhìn lại cuộc tháo luận về qui tắc viết hoa, T/c Ngôn
ngữ, số 2, 1973.
Nguyễn Kim Thản: Vài nét về tên riêng người Việt ,T/c Dân tộc học,
1975
Trần Ngọc Thêm: v ề lịch sử hiện tại và tương lai của tên riêng người
Việt ,T/c Dân tộc học, số 3, 1976
Phạm Tất Thắng, Vài nhận xét về yếu tố “Đ ệm” trong tên gọi người
Việt, Trong “Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Ẩ”, Nxb KHXH, 1988
Bình Long: Nghĩa tên riêng của người, T/c Ngôn ngữ - số phụ-
1989; v.v
Phần lớn các tác giá đều tập trung ý kiến vào việc đưa ra các giải
pháp viết hoa tên riêng như thế nào cho vừa hợp lí lại vừa tiện dùng. Bcn
cạnh đó là một số tác giả còn đi sâu hơn trong việc tìm hiểu ý nghĩa tên
riêng chỉ người và khai thác những khía cạnh khác về dân tộc- ngôn ngữ
học, xã hội- ngôn ngữ học của tên người Việt. Đáng chú ý là vào năm
1992, tác giả Lê Trung Hoa đã xuất hản tác phẩm “Họ và tên người Việt
Nam”. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu và có tính hệ thống nhất

từ trước đến nay về tên gọi của người Việt Nam trên bình diện dân tộc-
ngôn ngữ học.
21

×