Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm thi pháp của cấu trúc láy đôi tiếng Việt thể hiện qua các đặc điểm ngữ âm ở phụ âm đầu và thanh điệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (32.01 MB, 93 trang )

ĐAI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HOC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẶNG THÁI THU HƯƠNG
NGHIÊN CỨU MỘT s ố ĐẶC ĐIỂM th i p h á p
CỦA CẤU TRÚC LÁY ĐÔI TIẾNG VIỆT
THỂ HIỆN QUA CÁC ĐẶC ĐIỂM NGỮ ÂM
Ở PHỤ ÂM ĐẦU VÀ THANH ĐIỆU
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên Iĩ°ành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 5.04.08
Người hướng dẫn khoa học:
PTS. HOÀNG CAO CƯƠNG
HÀ NỘI 1998
MỤC LỤC
■ ■
Trang
Mở đầu

.

2
Phần thứ nhất. Cơ sở phân loại

9
Chương I. Cấu trúc từ song tiết tiếng Việt

10
Chương II. Cơ sở dữ liệu và phân loại
14
Phần thứ hai. Tính quy luật của trật tự sáp xếp ngữ âm trong
một cấu trúc láy đôi (chứng cứ từ thanh điệu và phụ àm đầu) 17


Chương I. Thanh điệu 18
Chương II. Phụ âm đầu 30
Phần thứ ba. Thảo luận về các ngoại lệ

51
Chương I. Những vấn đề còn lại

52
Chương II. Tính liên tục trong cấu trúc láy đôi tự nhiên
(nối kết A T I - A T 2 ) 59
Chương III. Trật tự tuvến tính trons cấu trúc láy đôi

75
Phần thứ tư. Kết luận
84
PHẤN MỞ ĐÂU
1. LÁY ĐÔI TRONG V ốN TỬ TIÊNG VIỆT
Trons vốn từ tiếng Việt, các từ gợi tả những sắc thái, mức độ khác
nhau của các sự vật, tính chất, độns tác chiếm một tỷ lệ tương đối lớn.
Ngoài việc biểu hiện tình cảm, nhữns từ nàv còn mang ý nghĩa bao hàm,
gộp hoặc đôi khi còn là hình thức để bộc lộ nhữns nội dung thòng tin
mang tính lặp lại, hài hoà và cân xứng, nhằm làm tự nhiên phát ngôn
trong giao tiếp hàng ngày. Những loại từ này thường là các loại tính từ
và động từ (Nguyễn Tài cẩn 1975, Nguyễn Thiện Giáp 1978). Nhiều
học giả đã dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu vốn từ này. Lê Văn
Lý (Lê Văn Lý, 1948) trong tác phẩm nổi tiếng của mình cũng đã thể
hiện mối quan tâm đến loại này. Ngoài ra, một loạt các học giả khác:
Phan Khôi (Phan Khôi 1955), M. B. Emeneu (M. B. Emeneu 1951), L.
c. Thompson (L. c. Thompson 1965), A. N. Barinova (A. N. Barinova
1963), M. V. Gordina (M. V. Gordina 1966), Nguyễn Kim Thản

(Nguyễn Kim Thản 1963), Đỗ Hữu Châu (Đỗ Hữu Châu 1962), Nguyễn
Tài Cẩn (Nguyễn Tài cẩn, 1975), Nguyễn Thiện Giáp (Nguyễn Thiện
Giáp, 1966), Đoàn Thiện Thuật (Đoàn Thiện Thuật, 1977), Hổ Lê (Hồ
Lê, 1976), Hoàng Văn Hành (Hoàng Văn Hành, 1985) cũng đã có
những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.
Vốn từ này không những được sử dụng rất nhiều trong đời sống
hàng ngày mà ngay trong thi ca cũng được khai thác khá triệt để (Tô
Hoài, Nguyễn Tuân, Nguyễn Duy ).
Với một đối tượng có nhiều nét đặc thù như vậy thì việc luôn xuất
hiện những kết quả mới trong khảo sát là một điều đương nhiên. Theo ý
nghĩa này, luận án của chúng tôi xin được tiếp tục bàn về các quan hệ
ngữ âm vốn được tồn tại trong vốn từ này. Theo GS. Nguyễn Tài cẩn
vốn từ này có tên sọi riêng là láy đôi: "Láy đôi là biểu hiện của loại từ
3
ghép mà các :hành tố trực tiếp được kết hợp lại với nhau chủ yếu là theo
quan hệ ngữ âm. Quan hệ ngữ âm được thể hiện ra ở chỗ: các thành tố
trực tiếp phải có sự tương ứng với nhau về hai mặt: mặt yếu tố siêu đoạn
tính (thanh điệu) và mặt yếu tố âm đoạn tính (phụ âm đầu, âm chính
giữa vần và âm cuối vần)" (Nguyễn Tài cẩn 1978, tr. 107 - 111). Trung
thành với quan niệm nàv, chúng tôi sẽ tiến hành phân loại và khảo sát
vốn từ láy đổi. Tuy nhiên, trong một vài ý tưởng quan trọng, chúng tôi
có tiếp ihu thêm những kết quả mới của các tác giả khác. Những ý tưởng
đó thường rơi vào trong nhữns trường hợp để giải thích hoặc khi thấy
thật cần thiết.
Cơ sở thứ hai cũng rất quan trọng được coi là những tri thức có tính
chất ngôn ngữ học đại cương được cập nhật từ các thành tựu gần đây
nhất của ngôn ngữ học cuối thế kỷ X X mà cụ thể là các thành tựu về "âm
vị học giải thích" (P. Kiparsky 1983, T. Gamkrelidze 1978, L. Hyman
1975 ) và "ngôn ngữ học thi pháp" (R. Jakobson 1960,1. Levý 1971 ).
Sự kết hợp giữa Việt ngữ học cùng các tư tưởng ngôn ngữ học hiện đại

này chắc chắn sẽ giúp chúng ta chủ động hơn trong việc tìm kiếm các
đặc điểm ngữ âm quan trọng trong vốn từ láy đôi. Cái đích mà luận án
mong muốn đạt tới là làm rõ thêm một lần nữa mối quan hệ vốn có giữa
thực thê âm thanh với tính tự nhiên sẵn có của chúng trong sự hành chức
với tư cách là một phương tiện giao tiếp thể hiện tính văn hoá cao của xã
2. KHÁI NIỆM THI PHÁP t í THI PHÁP CỦA NGÔN NGỮ
Vào giữa những năm 60, R. Jakobson đã nhận thấy rằng ngôn ngữ
không phải là cơ chế "tự nó" và "cho nó". Đó là một hàm chứa các thông
điệp có tính người và dĩ nhiên trong nó phải ẩn chứa cái đẹp. Khi nói về
4
tính thi pháp của ngôn ngữ, ông cho rằng đó là một trong những chức
năng mà ngôn ngữ cần biểu hiện. Theo ông. dựa trên quá trình giao tiếp,
ngôn ngữ thể hiện 6 chức năns sau:
biểu thị
biểu cảm thi tính kêu gọi
tiếp xúc
siêu ngôn nsữ
Giao tiếp của con người suv cho cùng là luôn hướng tới cái đẹp.
Những thao tác về lựa chọn hay nối kết mà ngôn ngữ học truyền thống
quen gọi là những biểu hiện trực tiếp trong hệ hình và cú đoạn, ngoài
những nhiệm vụ khác, còn bộc lộ xu hướng làm đẹp phương tiện cho
người sử dụng ngôn ngữ. Mặt khác, ngôn ngữ cũng là sản phẩm, là sự
thể hiện trình độ văn minh của xã hội loài người nên ngoài những mục
đích khác, trong nó luôn luôn có khuynh hướng tiến tới cái đẹp. Rõ ràng
như vậy giữa người sử dụng và chất liệu luôn luôn có một mối quan hệ là
thi pháp sử dụng phương tiện giao tiếp. Để đạt được chức năng thi tính,
bản thân ngôn ngữ cũng rất chú ý và tự sắp xếp sao cho thuận lợi, tự
mhiên trên con đường hướng tới cái đep. Điều này được thể hiện không
những trong nội dung cấu trúc của ngôn ngữ mà còn trong những điểm
đánh dấu các loại cấu trúc mà ngôn ngữ bao hàm và cuối cùng còn là sự

biểu hiện của quy luật chung của thế giới về cái đẹp: sự đối xứng, tính
cân bằng, sự hài hoà và những kiểu trật tự "đẹp" (R. Jakobson, 1963).
5
3. TÍNH ĐÁNH DAU v à k h ô n g đ á n h d ấ u
N. Trubetzkoy (N. Trubetzkov 1939) trong cuốn sách của mình về
cơ sở âm vị học đã nói đến tính đánh dấu và khônơ đánh dấu âm vị học
của các nét khu biêt. Ôn£ cho rằns, bàn đến vấn đề này thưc chất là dưa
trên mối tương quan giữa cái "khó" và "dễ" trong nội dung âm vị học
của các nét khu biệt nằm trong một đối lập được gọi là đối lập có/khôns.
Điều này được thể hiện rõ nhất khi trong ngổn ngữ xuất hiện hiện tượng
trung hoà hoá âm vị học. Tuy nhiên, lv thuyết này vẫn mang tính định
tính hơn định lượng và người ta cũng khó xác định được nét khu biệt nào
trong một ngôn ngữ là bị đánh dấu và ngược lại.
Vào nhữns năm cuối 60, với tác phẩm "Mô hình âm thanh tiếng
Anh",.N. Chomsky và M. Halle đã đưa khái niệm đánh dấu và không
đánh dấu vào nội dung của một nét khu biệt. Những thành tựu xã hội
cùng với cách nhìn mở rộng có tính liên ngành đã cấp cho âm vị học sản
sinh một hướng tiếp cận mới: nét đánh dấu và không đánh dấu không chỉ
dừns lại ở nét khó và dễ mà còn được định lượng hoá. Tiếp cận này cho
phép có thể khách quan hoá được trong khi nghiên cứu những tương tác
giữa các nét khu biệt vốn tồn tại trong các cấu trúc ở bậc cao hơn. Như
vậy, nếu ở chức năng người ta chú trọng đến thi tính như là một biểu
hiện của chất liệu thì ở cấu trúc người ta sẽ nói về tính tự nhiên hay
không tự nhiên của chính chất liệu đó. Sự nối kết giữa tính tự nhiên của
lời nói và cái đẹp trong chính bản thân nó sẽ được bộc lộ ra qua sự sắp
xếp các nét khu biệt có bản chất tự nhiên hay khồng tự nhiên. Sự sắp xếp
đó có thể được hiểu qua trục liên tưởng hay theo trục cú đoạn. Tính tự
nhiên đồng nhất với cái đẹp qua sự phân tích về bản chất đánh dấu và
không đánh dấu của một hiện tượng.
6

4. GIÓI HẠN VẤN ĐỀ & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
V ì vấn đề thời gian cũne như vốn tri thức còn hạn hẹp nên chúng
tôi cũng không có điều kiện để nghiên cứu và phát triển rộns vấn đề.
Nội dung cnủ yếu của luận án là: Khảo sát lại tính có lý xét về mặt thi
pháp của vốn từ mang khá rõ đặc tnmg Việt - láy đỏi - xét từ mặt cấu
trúc ngữ âm.
Trong khi làm nhiệm vụ này, điều thuận lợi đối với chúng tôi là tư
liệu về láy dôi và các loại từ tương tự đã được biên soạn khá kỹ lưỡng.
Đó là chính "Từ điển tiếng Việt" (Hoàng Phê chủ biên 1992), "Từ điển
từ láy tiếng Việt" (Hoàng Văn Hành và các cộng sự 1994) và rất nhiều
những tài liệu có liên quan khác. Tuy nhiên, để bám sát với quan điểm
đã trình bàv ở trên, khi tập hợp các từ để khảo sát, chúna tôi buộc phải
có những bổ sung và sửa chữa nhỏ.
Như trên đã nói, do điều kiện thời gian cũng như vốn tri thức còn
hạn hẹp và thực chất những giải pháp về âm vị học đối với tiếng Việt vẫn
còn chưa thật thống nhất, đặc biệt là phần vần, nên khi chọn yếu tố cấu
trúc của láy đôi để khảo sát, chúng tôi có khuynh hướng chỉ chọn các
y ếu tố âm vị học nào đã được coi là đương nhiên. Cụ thể là: Phụ âm đầu,
Thanh điệu. Còn vấn đề về Vần, do những tính phức tạp của nó, ở luận
á.n này tạm thời chưa bàn tới. Vậy đề tài này có tên là: “Nghiên cứu một
s ố đặc điểm thi pháp của cấu trúc láy đôi tiếng Việt thể hiện qua các đặc
điểm ngữ âm ở phụ âm đầu và thanh điệu”. Luận án này là sự tiếp theo
của luận án cử nhân trước đây của chúng tôi. Một số ý tưởng còn đang
dìang dở được phát triển đến triệt để. Trong quá trình làm việc, đĩ nhiên
cũng không tránh khỏi việc phải loại bớt một số ý tưởng trong luận án
cũ. Thông thường, những ý tưởng bị loại bỏ này là nhằm để cập nhật hơn
V ' ớ i nguồn tư liệu mới và để phù hợp với các kết luận vừa mới đạt được.
7
Để tiến hành khảo sát, ngoài sự vận dụng nhữns kiến thức được
học trong nhà trường, chúns tôi còn sử dụng phương pháp thống kè ngôn

ngữ học, phin loại và mồ tả các đặc điểm ngữ âm về cấu trúc từ theo các
kiến thức nsôn ngữ học hiện đại và tất nhiên là theo khuynh hướns Thi
pháp học của trường phái Praha. Trên cơ sở những kiến thức về ngữ pháp
và từ vựns học, chúng tôi xử lý, phân loại các từ điển để đưa ra một danh
sách láy đôi cho nguồn tư liệu để làm việc. Dựa trên các kiến thức về
ngôn ngữ học hiện đại, chúng tôi so sánh tìm những điểm tương hợp và
không tương hợp giữa cấu trúc và chức năng. Bằng phương pháp thống
kê, chúng tôi xác định mức độ chính xác của tư liệu đã được thực hiện và
tiến hành thiết lập các hàm tương quan giữa cấu trúc và chức năng.
Ngoài ra, yếu tố mẫn cảm của người bản ngữ cũng được tận dụng.
Những kiến thức từ Phương ngữ học, Văn hoá dân gian học và thực tiễn
văn học cũng như đời sống giao tiếp hàng ngày là những kiến thức bổ trợ
rất cần thiết khi làm luận án.
5. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, luận án gồm bốn phần:
Phần thứ nhất. Cơ sở phân loại.
Phần thứ hai. Tính quy luật của trật tự sắp xếp ngữ âm trong
một cấu trúc láy đôi (chứng cứ từ thanh điệu và
phụ âm đầu).
Phần thứ ba. Thảo luận vể các ngoại lệ.
Phần thứ tư. Kết luận.
Nhằm mục đích minh hoạ cho các vấn đề đã nêu ra trong luận án,
ngoài chính văn, chúng tồi còn đính thêm một số phụ lục và bảng biểu
khi thấy thật cần thiết.
8
PHẦN THỨ NHẤT
Cơ sở PHÂN LO61
CHƯƠNG MỘT
CẤU TRÚC TỪ SONG TIÊT TIẾNG VIỆT
1.1 .1. VẤN ĐỂ

Vốn từ tiếng Việt có thể phân chia thành nhiều từ loại dựa theo số
lượng âm tiết có trong từ. Trong khi giao tiếp, khi tạo một phát ngôn,
người Việt (cũng như những người sử dụng ngôn ngữ đơn lập khác)
thường nghĩ đến "tiếng" hơn là từ (Nguyễn Tài cẩn, 1964, Nsuyễn
Quang Hổng 1976, Cao Xuân Hạo 1985, Nguyễn Thiện Giáp 1996). Tuy
nhiên, bên cạnh những yếu tố đơn tiết tạo nên từ còn có những tổ hợp
lớn hern một âm tiết và những tổ hợp này xét về mặt nội dung ngữ nghĩa
thì rất gần với cái gọi là từ. Ngoài ra, trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta
còn sử dụng hàng loạt các tổ hợp lớn hơn một âm tiết mà khổng thể coi
là những tổ hợp tự do xét cả về nội dung cũng như hình thức, ví dụ: nhà
cửa, đất đai, bù nhìn (Đỗ Hữu Châu, 1986).
Mặc dù người Việt quen dùns các từ đơn tiết (Theo Trần Thị Minh
Phương, 1993: 87,2% các âm tiết có khả năng là các âm tiết được sử
dụng dưới dạng từ hoặc các thành tố cấu tạo từ) nhưng điều đó không có
nghĩa là khi sử dụng, người ta bao giờ cũng phải tìm một tương ứng giữa
âm tiết và từ. Bởi vậy, nhữns khái niệm từ song tiết hay đa tiết cũng
nên được sử dụng như những thuật ngữ bình thường trong vốn từ tiếng
Việt. Trên thực tế, trong vốn từ tiếng Việt, bên cạnh từ đơn tiết thì từ
song tiết hay đa tiết chiếm một vị trí tương đối lớn. Chúng tôi cũng cho
rằng việc tồn tại từ ghép bên cạnh các loại từ đơn là điều hiển nhiên
trong vốn từ tiếng Việt. Và để dễ dàng trons việc tiếp cận với vấn để láy
đôi, chúng tôi chia từ ghép thành bốn loại như GS. Nguyễn Tài cẩn đã
10
đề nghị:
1. Ghép nghĩa: Láv nshĩa.
Phụ nghĩa.
2. Láy âm: Láy đôi.
3. Ngẫu hợp: Nơẫu hợp.
Chúng tôi cũng quan niệm rằng: Láv đôi là đơn vị tiêu biểu trons
vốn từ tiếng Việt. Nó được cấu tạo bed hai yếu tố có quan hệ với nhau về

mặt ngữ âm và ít nhiều nội dung thể hiện mang ý nghĩa biểu trưng, biểu
cảm Nhưng láy khác với lặp xét cả về quan hệ ngữ âm lẫn quan hệ ngữ
nghĩa. Một cấu trúc lặp chỉ có thể được coi là láy khi ngữ nghĩa của nó
cũng nằm trong c ấ u trúc ngữ nghĩa chung của từ láy. Và đương nhiên về
mặt hình thức, hai yếu tố trong lặp khi đã trở thành yếu tố của từ láy thì
tuy giống nhau về cấu trúc ngữ âm (âm vị, thanh điệu) nhưng thật ra là
khác nhau trong thể hiện (vì có yếu tố trọng âm xen vào). Mặt khác, một
cấu trúc có hai yếu tố dẫu thoả mãn về mặt hài âm và hài thanh, nhưng
nếu trong tri nhận mỗi một yếu tố này vẫn còn chứa một nghĩa thực nào
đó (hoặc có thể được cảm nhận ngav cả khi đứng độc lập), thì cấu trúc
đó cũng không thể được xếp vào láy. GS Nguyễn Tài cẩn coi những cấu
trúc này là các từ song tiết đẳng lập có hình thức hài âm ngẫu nhiên.
1.1.2. CẤU TRÚC
Khi làm việc với láy đôi, chúng ta phải xét đến 2 tiêu chí: tiêu chí
nôi dung v à tiêu chí hình thức.
Vé tiêu chí hình thức: Chúng ta xét tiêu chí ngữ âm trùng hợp và
ti‘êu chí ngữ âm khác biệt. Và chúng ta sẽ để ý đến tiêu chí khác biệt bởi
11
trong một cấu trúc láv đôi, nếu phần khác biệt lại trội hơn phần trùng
hợp thì khó có thể nhận ra được tính chất láv của nó. Theo chúng tôi cấu
trúc âm tiết tiếng Việt gồm ba thành tố. Đó là: Phụ âm đầu, Vần và
Thanh điệu. Việc chia tiếp Vần thành các thành tố nhỏ hơn là việc làm
rất phức tạp và chưa chắc đã phản ánh được đặc điểm thi pháp riêng của
tiếng Việt (ss. Các hiện tượng vần thơ và các lối chơi chữ trons tiếng
Việt).
Vậy, cho tiện phân tích về hiện tượng láy đôi, chúng ta có thể mô
hình hoá cấu trúc ârn tiết Việt như sau:
1. ATI (TI - 1 - R), AT2 (T2 - 1 - R).
2. A T I (T - II - R), AT2 (T -12 - R).
3. ATI (T - 1 - Rl), AT2 (T - 1 - R2).

Trong đó: Âm tiết đi trước là A T I, âm tiết đi sau là AT2, thanh
điệu là T, phụ âm đầu là I và vần là R.
Vé tiêu chí nòi dung: Khi hai yếu tố láy đồi mang nghĩa khác nhau
thì sẽ xảy ra bốn khả năng sau đây:
1. ATI (■), AT2 (□).
2. ATI (□), AT2 (■).
3. ATI (■), AT2 (■).
4. ATI (□), AT2 (□).
Trong đó: ■ Thành tố cấu tạo từ còn mang nghĩa, có thể được
sử dụng độc lập.
□ Thành tố cấu tạo từ không mang nghĩa, không
được sử dụng độc lập hoặc chỉ có thể suy ra từ cấu
trúc đơn lẻ, ngẫu nhiên.
12
về lý thuyết khi phối hợp các tiêu chí hình thức và nội dung đã nêu
trên, chúng ta sẽ có tới 12 khả năng cho phân tích các từ láy đôi. VI hạn
chế về thời gian, trong luận án bước đầu chỉ khảo sát các dạng sau đây:
1. ATI (TI - 1 - R), A T2 (T2 - 1 - R).
A TI (T - II - R), AT2 ( T - I 2 - R ) .
2. ATI (TI - 1 - R), AT2 (T2 - 1 - R).
A TI (T - II -R ), AT2 ( T - I 2 -R ) .
3. ATI (TI - I - R), AT2 (T2 - 1 - R).
A T I (T - II - R), AT2 ( T -I 2 - R ) .
4. A TI (TI - 1 - R), A T2 (T2 - 1 - R).
ATI (T - II - R), AT2 (T - 1 2 - R).
Các loại liên quan đến R không được khảo sát ở đây.
13
1.2.1. Cơ SỞ Dữ LIỆU
Ngay từ đầu có thể thấy rằng ở khu vực từ láy đồi tiếng Việt có
những quy luật riêng rất mạnh đang hoạt động. Nhờ những luật này mà

người ta có thể dễ dàng tạo lập ra được một cấu trúc có vẻ như láy từ một
yếu tố độc lập. V í dụ như: xanh —> xanh xanh, mập —» mầm mập, ngừng
—> ngập ngừng, lửng —» lơ lửng, vuông —> vuông vắn Việc cấu tạo một
cách dễ dàng như thế các cấu trúc kiểu này sẽ làm tăng rất nhanh số
lượng.các mục từ trong từ điển chuyên biệt về láy và cũng thật khó để
phân biệt được đâu là hiện tượng lời nói, đâu là hiện tượng ngôn nsữ.
Chính vì vậy, cũng nên đặt câu hỏi là thật cần thiết không việc phải liệt
kê tất cả các đơn vị như: xanh xanh, mầm mập, ngập ngừng, lơ lửng,
vuông vắn này vào một danh sách làm việc về từ láy. Trong quá trình
làm việc, chúng tôi cho rằng nên loại bớt các từ được cấu tạo một cách
dễ dàng như vừa trình bày và nên chỉ lấy các từ tiêu biểu. Việc chọn từ
tiêu biểu này cần chú ý một cách thích đáng đến tỷ lệ tương quan của
các tiểu loại. Ngoài ra, cũng cần chú ý đến hiện tượng các nhà làm từ
điển trong khi sưu tập vốn từ đã không để ý thích đáng đến các đặc điểm
phương ngữ. V í dụ: một số từ láy có cùng gốc nhưng lại được họ coi là
các từ láy khác nhau chỉ do lối phát âm địa phương khác nhau như:
nhằng nhịt/dằng dịt, làu bàu/lầu bầu hay những sai biệt về hình thức
chính tả như: đàng hoàng, đường hoàng Trong trường hợp này, tốt nhất
là nên chọn đại diện. Cũng cần phải có một thái độ linh hoạt trong đối
CHƯƠNG HAI
Cơ SỞ DỮ LIỆU VÀ PHÂN LOẠI
14
xử với các từ vay mượn. Trong quá trình lịch sử, sự vay mượn tiếp xúc
giữa tiếng Việt và các tiếng Hán, Nga hav Pháp là điều khó tránh khỏi.
BỜI vậy cần phải loại ra khỏi danh sách những từ có kết cấu kiểu như hài
âm nhưng không thoả mãn các tiêu chí về nội dung như đã trình bày ở
trên. V í dụ các từ như: ảo não, bàng hoàng hoặc loong toong, pinh
pỏng Trong thực tế các từ điển còn xuất hiện các từ kiểu như: bì boạp,
ngoam ngoáp, bia thia, hê hủm Đây là những từ rất đặc biệt xét về mặt
cấu trúc (hiện tượng giới âm kết hợp với âm môi, các âm tiết thực chỉ

xuất hiện có một lần trong mỗi cấu trúc vừa được kể trên). Do tính phức
tạp của vấn để nguồn gốc của các từ này, tạm thời nên loại ra ngoài danh
sách các từ cần khảo sát. Và cuối cùng, như đã nói ở trên, những từ láy
có hai thành tố đều mang nshĩa rõ rệt và mỗi thành tố này đều có thể
hoạt động tích cực độc lập như: tướng tá, tôm tép, sắm sửa thì cũng
không được đưa vào danh sách. Nên quan niệm chúng là các cấu trúc
lỏng có quan hệ đẳng lập hơn là có bản chất láy đôi.
Những nguyên tắc trên đã được chúng tôi sử dụng khi khai thác các
loại từ điển tiếng Việt cho việc thiết lập danh sách các từ láy của luận
án. Mặc dầu rất thông cảm với các quan điểm của các tác giả từ điển,
nhưng để có thể tìm ra được tính quy luật của các phối hợp hài âm chúng
tôi buộc phải loại bỏ đi khá nhiều từ. Có thể nhìn thấy được toàn cảnh từ
láy tiếng Việt cũng như các quan điểm của các tác giả trong vấn đề này
nếu như sử dụng được lại toàn bộ danh sách mà họ đã thiết lập. Tiếc là
thời gian cũng như khuôn khổ của luận án không cho phép xử lý một
khối lượng tư liệu không đồng chất như vậy. Chúng tôi tạm bằng lòng
với cơ sở dữ liệu như đã thiết lập để làm việc. Có nghĩa là các kết luận
trong luận án này chỉ được dựa trên sự phân tích 3.459 đơn vị mà chúng
tôi coi là láy đôi mà thôi.
15
1.2.2. PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI
Theo quan niệm như đã trình bày ở trèn, chúng tôi cho rằng một
cấu trúc láv đôi phải có ít nhất là hai đặc điểm sau: 1. Thứ tự của các
thành tố cấu tạo từ (hình tiết) và 2. Nội dung nghĩa có trong nó, khả
năng độc lập của mỗi thành tố. V ì vậy, láy đôi tiếng Việt sẽ gồm 4 tiểu
loại. Phân bố lượng của các tiểu loại này được trình bày trong Bảng 1
dưới đây.
Tiểu loai
Tổng cộng
■ ■

ỉ 1 í j
I
%
In
1009 1092 619 739
3459
%
29.17
29.74
17.89 21.36
100
Bảng 1
Nhân xét sơ bỏ: Các từ láy đôi có một hình vị thực chiếm tỷ lệ cao
hơn hai loại còn lại (ss. 58.91%/4 1.09%). ở hai loại còn lại, từ láy đôi
gồm hai thành tố đều là hình vị hư (vô nghĩa) chiếm tỷ lệ cao hơn so với
loại cả hai thành tố đều là hình vị thực (ss. 21.36 % /17.89 % ). Phân bố
này thể hiện các tương quan có thực trong vốn từ láy đôi tiếng Việt giữa
các tiểu loại. Những vấn đề thuộc về chi tiết của các phân bố này sẽ
được xem xét cụ thể ở hai phần tiếp theo.
16
PHẦN THỨ HAI
TÍNH QUY LU6T củfĩ TRỢT Tự sổp XẾP NGỠ m
TRONG MỘT CÂU TRÚC LÁY t)ÔI
(CHỨNG Cứ Tử THANH ĐIỆU VÀ PHU ÂM ĐẤU)
17
CHƯƠNG MỘT. THANH ĐIỆU
Theo quan niệm truyền thống, chúnơ tôi sử dụng khuôn 8 thanh vị
cho các đơn vị được thống kê. Các thanh "sắc" và "nặng" ở nhữns vần có
kết thúc bằng các yếu tố phụ âm được thể hiện bằng các chữ "p", "t",
"ch", "c" được coi không phải là những biến thể của thanh sắc và nặng.

Trên thực tế, những thanh này có tên gọi riêng là các thanh "nhập".
2.1.1. CÁC Từ LÁY ĐÔI LOẠI
1. Dữ liệu: (Bảng 2 và Biểu đổ 1)
\ AT2 khòng
huyền
ngã hòi sắc nặng
"sắc"
"nậag”
En
%
a t K ^
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
không
57 6
37
24
21
145
14.37
huyển
21 59
38 3 31 3
21

176 17.44
ngã
6
44
9 21 13
95
9.41
hòi
59 8 1
10
29
1
30 138
13.67
sắc
51 6 2
21 43
16
2
141 13.97
nặng
12
39
15
5
23
2
21
117
11.59

'sắc"
37
1 8 32 29 2 109
10.80
"nậng"
2 36
11
2
2
13
6
16
88 8.72
In 245 199 76
78
138
89
107 77
1009
%
24.3
19.72
7.53
7.73 13.67 8.82
10.60
7.63
100
Bảng 2
2. Nhận xét:
- Các thanh "nhập" không có sự khác biệt nhiều về mặt vị trí tuyến

tính.
18
- Thanh không và thanh huyền có sự trao đổi về vị trí tần số xuất
hiện (TSXH). Thanh khôns trong hệ thống thanh điệu tiếng Việt là thanh
không bị đánh dấu (ss. thống kê tỷ lệ tần xuất của các thanh trên tổng số
các âm tiết thực có trong từ điển cho thấy thanh không chiếm 26%,
thanh huvền chiếm 24%). Sự trao đổi vị trí này ở ATI và AT2 cho ta
thấy vị trí được ưa thích của thanh không là ở ATI. Điều đó có nghĩa là
ở ATI thanh ưa thích là thanh dễ phát âm, không bị đánh dấu âm vị học.
- Các thanh "nhập" như đã nói ở trên, là những thanh ít có sự khác
biệt về vị trí tuyến tính. Tuy nhiên trong tương quan với thanh nsã thì
chúng vẫn là những thanh ít tính đánh dấu hơn. Do vậy, chúng có xu
hướng được phân bố ở A T I nhiều hơn so với AT2.
khong huyen nga hoi sac nang "sac" "nang"
Biểu đồ 1. Tỷ lệ TSXH các thanh điệu của các từ láy loại
19
2.1.2 CÁC Tư LÁY ĐÔI LOẠI
1. Dữ ỉiệu: (Bảng 3 và Biểu đồ 2)
\AT2
khỏng
huyền
ngã hòi sắc nặng "sắc" "nặng"
I n
%
A T K ^
(1)
(2)
(3) (4)
(5) (6) (7)
(8)

khòng
99 2
12
6
13
2 134
12.27
huyền
10 111
6
1
3
5 25 161
14.74
ngã
5
31
11
1 8
56 5.12
hỏi
67
1
51 3
13
1 136 12.45
sắc
84 6
3 79 28
200 18.31

nặng
1 44
1 3 3 28 80 7.32
'sắc"
95 1
6 14 42 158 14.46
"n ặn g"
2
99
1 1 13 6 45
167
15.29
In
■ 363 295
18 77 109 46 103 81 1092
%
33.24 27.01
1.64 7.05
9.98
4.21
9.43 7.41 100
Bảng 3
35-1
nga
nang
nang
□ AT1
□ AT2
khong huyen
Biểu đổ 2. Tỷ lệ T S X H các thanh điệu của các từ láy loại

20
2. Nhận xét:
- Ở vị trí A T I có một khoảng cách rất lớn giữa thanh có tỷ lệ cao
nhất với thanh chiếm tỷ lệ thấp nhất. Còn ở AT2 xu hướng chung là có
sự "san đều” về tỷ xuất. Điều này cho thấy ở AT2 không có sự phân bậc
nghiêm ngặt như đối với A T I.
<—• o .
- Thanh không và thanh huyền chiếm tỷ lệ khá cao ở vị trí ATI
(33,24% và 27,01%), còn ở AT2 thanh sắc lại trội lên. Cùng một thứ
hạng với thanh sắc và thanh "sắc" ở A T I (9.98% và 9.43%) là các thanh:
thanh "nặng", thanh huyền, thanh "sắc" ở AT2 (15,9%, 14,7%, 14,46%).
Điều này khẳng định A T2 có xu hướng “san đều” về TSXH
(cùng một vị trí thứ hạng, ở A T I chỉ có 2 thanh thì ở AT2 có tới 3
thanh). Có thể so sánh thứ hạng TSXH của thanh không ở hai âm tiết để
thấy rõ hơn ảnh hưởng của tính hình tuyến đối với sự xuất hiện của tần
số: ở A T I thanh này có TSX H cao nhất, nhưng sang AT2 nó gần như là
thanh có TSXH thấp nhất. Tương tự như vậy khi chúng ta so sánh với
loại thanh không cũng chiếm một trong những vị trí đầu tiên trong
bảng sắp xếp.
Như vậy, vai trò trật tự tuyến tính (ATI - AT2) được thể hiện một
cách rõ rệt hơn so với loại láy đôi Ở A T I thể hiện một sự phân hoá
rõ rệt giữa thanh có TSX H cao nhất và thanh có TSXH thấp nhất
(33,24% so với 1,64%). Trái lại ở AT2 sự phân hoá này không rõ rệt
bằng. Các thanh có xu hướng bị “san đều” (18 ,31% so với 5,12%). AT2
không tuân thủ theo quy luật chung về TSXH của các thanh trong âm vị
học tiếng Việt. So với TSXH chung của các thanh trong từ điển thì các
thanh ở AT2 có TSXH không mang tính quy luật. Rõ nhất là sự trội lên
một cách bất thường của thanh sắc, thanh "nặng" và thanh "sắc". Như
vậy, trong khi A T I vẫn mang những nét tự nhiên của âm vị học (nét
21

không đánh dấu) thì ờ A T2 dường như có sự phá vỡ quy luật này (tạo
nên nét bị đánh dấu). Phải chăng đàv là một đặc điểm riêng của loại hình
láv đôi
2.1.3. CÁC LÁY ĐỒI LOẠI ■ ■
1. Dữ liệu: (Bảng 4 và Biều đổ 3)
V AT2
khòng huyền ngã
hỏi
sắc nặng "sác"
"nặng”
I n
%
A T K
(1)
(2)
(3) (4) (5)
(6) (7)
(8)
không
124
3 18 12 1
6 2
164
26.49
huvền
6
124
5 8 4
1
7 154

24.87
ngã
2
12
8 1 1 5
6 35
5.65
hỏi
28
4
5
5
5
46 7.43
sắc
24
6
1
24
1 8
1
64 10.33
nặng
6
24
2 1 6 11
50
8.07
"sắc"
27 1 4 10 23

64 10.33
"nặng"
2 23
2
1 6
9
6
42 6.78
In
214 196 17
31
66
28
45 22 619
%
34.57 31.66 2.74
5.00
10.66
4.52
7.26 3.55
100
Bảng 4
2. Nhận xét:
- So sánh TSX H của một số thanh có tần số cao nhất theo hai vị trí
A T I và A T2 thấy một sự chênh lệch khá lớn: thanh không:
34.57%/26.49%; thanh huyền: 3 1.66%/24.87%. Điều này có nghĩa là
AT2 vẫn bị tác động bởi quy luật san đều TSXH. Sự quan sát về chênh
lệch TSXH giữa nhóm thanh có TSX H cao và nhóm thanh có TSXH thấp
ở A T I và AT2 cũng đưa đến một kết luận như kết luận đã được rút ra ở
2. 1. 2.

22
Tuv nhiên, sự phân hoá của các thanh theo hai vị trí âm tiết ở loại
này có phần thấp hơn so với những loại láv đôi đã được phân tích ở trên.
Điều này có thể có liên quan đến vấn để mang nghĩa thực hay nghĩa hư
của một cấu trúc láy. Phải chăng vì láy đôi loại này cả hai yếu tố đều
mang nghĩa nên tính đẳng lập trong quan hệ giữa các thành tố vẫn có
ảnh hường mạnh đến cấu trúc. Một khi một cấu trúc đẳng lập được xét
như một dạng từ láy đôi thì các ảnh hưởng về mặt nguồn gốc vẫn chiếm
ưu thế hơn so với tính hài âm ngẫu nhiên của chúng, cái đặc điểm về mặt
cấu trúc duy nhất về hình thái học đã cho phép chúng được nhập vào khu
vực từ láy đôi.
khong huyen nga hoi sac nang "sac" "nang"
Biểu đổ 3. Tỷ lệ TSXH các thanh điệu của các từ láy loại ■ ■
23
2.1.4 CÁC LÁY ĐÔI LOẠI □ □
1. Dữ liệu: (Bảng 5 và Biểu đồ 4)
Bảng 5
35-1
Biểu đổ 4. Tỷ lệ TS X H các thanh điệu của các từ láy loại □ □
24

×