Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 142 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
KHOA NGÔN NGữ
  



NGUYỄN THANH NGA




NGHIÊN CỨU MỘT SỐ KỊCH BẢN VĂN
HỌC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG VÀ
NGUYỄN HUY THIỆP THEO CÁCH NHÌN
CỦA LÍ THUYẾT HỘI THOẠI







Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ














Hà Nội - 2008
Đại học quốc gia Hà Nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
KHOA NGÔN NGữ
  



NGUYỄN THANH NGA





NGHIÊN CỨU MỘT SỐ KỊCH BẢN VĂN
HỌC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG VÀ
NGUYỄN HUY THIỆP THEO CÁCH NHÌN
CỦA LÍ THUYẾT HỘI THOẠI




Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ



Ngành: Lí luận ngôn ngữ
Mã ngành: 60.22.01


Người hướng dẫn: gs.ts nguyễn thiện giáp











Hà Nội - 2008
Mục lục
Mở đầu……………………………………………………………………… 1
1) Lí do chọn đề tài……………………………………………………… 1
2 Lịch sử vấn đề…………………………………………………………… 2
3) Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………… 2
4) Mục đích nghiên cứu…………………………………………………… 3
5) Đóng góp của luận văn…………………………………………………… 3
6) Phương pháp nghiên cứu……………………………………………… 4
Phần nội dung 6
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung………………………………… 6
1.1 Kịch bản văn học là một thể loại diễn ngôn…………………………… 6
1.2 Đặc trưng của kịch bản văn học………………………………………… 9

1.2.1 Xung đột kịch……………………………………………………… 9
1.2.2 Hành động và cốt truyện kịch……………………………………… 9
1.2.3 Nhân vật kịch……………………………………………………… 10
1.2.4 Ngôn ngữ kịch………………………………………………………11
1.3 Lí thuyết hội thoại và hội thoại sân khấu……………………………… 12
1.3.1 Quan niệm về hội thoại và và các văn bản hội thoại……………… 12
1.3.2 Cấu trúc hội thoại………………………………………………… 14
1.4 Ngôn cảnh trong kịch bản văn học………………………………………16
1.5 Kịch bản văn học theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại……………… 19
1.6 Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Huy Tưởng và
các kịch bản văn học……………………………………………………………20
1.7 Tiểu kết………………………………………………………………… 23
Chương 2: Kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp………………… 24
2.1 Kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp………………………………24
2.2 Các dạng ngôn ngữ kịch trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp28
2.2.1 Đối thoại…………………………………………………………….29
2.2.2 Độc thoại……………………………………………………………36
2.2.3 Bàng thoại………………………………………………………… 38
2.3 Cấu trúc cặp thoại trong kịch bản văn học………………………………39
2.3.1 Cấu trúc nội tại của cặp thoại……………………………………….40
2.3.2 Tính chất các cặp thoại…………………………………………… 42
2.4 Cơ chế tạo ra hàm ý hội thoại trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy
Thiệp……………………………………………………………………………43
2.4.1 Cơ chế thứ nhất: Sự vi phạm quy tắc chiếu vật và chỉ xuất…………44
2.4.2 Cơ chế thứ hai: Các hành động ngôn từ gián tiếp………………… 46
2.4.3 Cơ chế thứ ba: Sự vi phạm các quy tắc hội thoại……………………52
2.4.5 Nhận xét về hàm ý hội thoại trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy
Thiệp……………………………………………………………………………67
2.5 Lịch sự và giao tiếp…………………………………………………… 67
2.5.1 Lịch sự và nguyên tắc lịch sự……………………………………….67

A- Chiến lược lịch sự và sự thể hiện chiến lược lịch sự trong kịch bản văn
học của Nguyễn Huy Thiệp……………………………………………………71
B- Một số mô hình câu biểu thị cầu khiến và biểu thị sự khen trong các
kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp…………………………………… 77
2.5.2 Vai giao tiếp và quan hệ giao tiếp………………………………… 85
A- Quan hệ và vai giao tiếp…………………………………………… 85
B- Chiến lược “Xưng khiêm hô tôn”……………………………………87
2.6 Tiểu kết………………………………………………………………… 91
Chương 3: Kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng……………… 93
3.1 Kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng…………………………… 94
3.2 Các dạng ngôn ngữ kịch trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy
Tưởng………………………………………………………………………… 98
3.2.1 Đối thoại…………………………………………………………….99
3.2.2 Độc thoại………………………………………………………… 102
3.3 Cấu trúc các cặp thoại trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng105
3.3.1 Cấu trúc nội tại của cặp thoại…………………………………… 105
3.3.2 Tính chất các cặp thoại…………………………………………….107
3.4 Cơ chế tạo ra hàm ý hội thoại………………………………………… 108
3.4.1 Cơ chế thứ nhất: Sự vi phạm quy tắc chiếu vật và chỉ xuất………108
3.4.2 Cơ chế thứ hai: Các hành động ngôn từ gián tiếp…………………110
3.4.3 Cơ chế thứ ba: Sự vi phạm các quy tắc lập luận………………… 116
3.4.4 Cơ chế thứ tư: Sự vi phạm các quy tắc hội thoại…………………117
3.4.5 Nhận xét………………………………………………………… 125
3.5 Lịch sự và giao tiếp…………………………………………………….126
3.5.1 Lịch sự trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng…………126
3.5.2 Quan hệ giao tiếp và vai giao tiếp…………………………………132
3.6 Tiểu kết…………………………………………………………………136
Kết luận………………………………………………………………… 138




Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 1 -
Mở đầu
1) Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, các chuyên ngành của ngôn ngữ ngày càng
đƣợc quan tâm chú ý nghiên cứu nhiều hơn. Các phân ngành của ngôn ngữ học
càng ngày càng gia tăng các công trình nghiên cứu. Một trong những lí do ấy là
hoạt động đời sống của con ngƣời vô phong phú và phức tạp, chính vì vậy, đề
hiểu sâu và hiểu cặn kẽ về chúng, cần những nghiên cứu của ngôn ngữ học.
Đi cùng với sự phát triển của các phân ngành nhƣ từ vựng học, ngữ pháp
học, âm vị học… ngữ dụng học đang trở thành một phân ngành thu hút và đặt ra
nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Lí thuyết hội thoại chính là một trong những vấn
đề ấy.
Trên thực tế, các công trình nghiên cứu về lí thuyết hội thoại không ít, xét
cả ngôn ngữ học thế giới hay ngôn ngữ học Việt Nam. Các vấn đề trong lí thuyết
hội thoại đƣợc tranh luận và đƣa ra ứng dụng vào thực tế rất nhiều. Lí thuyết hội
thoại đƣợc nghiên cứu ứng dụng trên các văn bản hội thoại, tuy nhiên các nghiên
cứu đa số chỉ dừng lại nghiên cứu một hoặc một số vấn đề của lí thuyết hội
thoại, chƣa có sự tích hợp của các vấn đề khác nhau. Chính vì vậy, trong phạm
vi luận văn này, chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu nhiều vấn đề khác nhau trong lí
thuyết hội thoại nhƣ hàm ý hội thoại, nguyên tắc hội thoại… Hơn nữa, các vấn
đề đƣợc nghiên cứu trên một thể loại văn bản khá mới mẻ, đó là kịch bản văn
học.
Kịch bản văn học là một thể loại của diễn ngôn. Thể loại này cũng đã từng
là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều vấn đề trong ngôn ngữ học nhƣ những nghiên

cứu về phép lặp trong kịch hay mạch lạc… nhƣng về lí thuyết hội thoại trong
kịch thì chƣa có nghiên cứu nào.


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 2 -
Kịch bản văn học có những đặc trƣng riêng biệt rất thú vị. Điều này sẽ
đƣợc chúng tôi nêu cụ thể trong phần nội dung của luận văn. Điều đặc biệt, nhìn
kịch bản văn học dƣới góc nhìn của lí thuyết hội thoại sẽ phát hiện ra rất nhiều
điều mới mẻ. Đề tài của luận văn có tổng hợp và tiếp thu những công trình sẵn
có liên quan đến đề tài.
2) Lịch sử vấn đề
Lí thuyết hội thoại từ trƣớc đến nay vẫn luôn là vấn đề nhận đƣợc sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ học hiện đại, giai đoạn
thứ hai của ngôn ngữ học văn bản và là thời kì hƣng thịnh của dụng học, vấn đề
lí thuyết hội thoại đƣợc đề cập khá thƣờng xuyên, hầu nhƣ trong các công trình
nghiên cứu về diễn ngôn, dù là trực tiếp hay gián tiếp.
Trên thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về hội thoại. Ở Việt
Nam, các nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức
Dân,… là những ngƣời đi đầu trong việc nghiên cứu các vấn đề về lí thuyết hội
thoại. Các luận văn và khoá luận các chuyên ngành văn học, ngôn ngữ học cũng
đã từng có những đề tài nhắc đến lí thuyết hội thoại cũng nhƣ kịch bản văn học
của một số tác giả.
Trên cơ sở tiếp thu và tổng hợp các công trình sẵn có, luận văn đặt nhiệm
vụ đi vào tìm hiểu các vấn đề về lí thuyết hội thoại, qua đó hi vọng sẽ rút ra
đƣợc các đặc trƣng sử dụng lí thuyết hội thoại trong đối thoại kịch cũng nhƣ

phong cách của hai tác giả.
3) Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn chính là các kịch bản văn học của hai
tác giả Nguyễn Huy Tƣởng và Nguyễn Huy Thiệp. Sở dĩ tại sao chúng tôi lại lựa
chọn kịch bản văn học của hai tác giả này làm đối tƣợng nghiên cứu của mình


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 3 -
mà không phải là kịch bản văn học của các tác giả khác vì nhiều lí do. Và điều
này sẽ đƣợc trình bày cụ thể trong các chƣơng sau.
Luận văn chọn đối tƣợng nghiên cứu là các kịch bản văn học của Nguyễn
Huy Thiệp và Nguyễn Huy Tƣởng, từ đó, ứng dụng những vấn đề của lí thuyết
hội thoại và trong nghiên cứu các kịch bản này.
4) Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt ra mục đích tìm hiểu kĩ những kịch bản văn học của Nguyễn
Huy Thiệp và Nguyễn Huy Tƣởng. Đồng thời tìm hiểu cả những vấn đề của lí
thuyết hội thoại, sự ứng dụng các vấn đề ấy vào phân tích các tác phẩm kịch bản
của hai tác giả Nguyễn Huy Tƣởng và Nguyễn Huy Thiệp.
Làm rõ đƣợc sự khác nhau trong việc sử dụng ngôn từ vào các mục đích
thể hiện ý đồ của tác giả cũng là việc mà luận văn phải làm. So sánh sự giống và
khác nhau của từng tác giả về các vấn đề của lí thuyết hội thoại trong các kịch
bản văn học. Khi nghiên cứu, chúng ta sẽ thấy đƣợc ở kịch của mỗi tác giả lại có
những nét “bản sắc”, những “dấu ấn” của từng cá nhân mỗi nhà viết kịch. Chính
công việc này sẽ giúp cho việc tìm hiểu đặc trƣng phong cách viết của từng tác
giả.

5) Đóng góp của luận văn
Về mặt ngôn ngữ học, luận văn sẽ là một tài liệu chuyên ngành nhằm nêu
ra và làm rõ các vấn đề của hội thoại trong kịch bản văn học, đồng thời là tài
liệu cung cấp những kiến thức và hiểu biết về kịch bản văn học của hai tác giả
nói riêng và các lí luận hội thoại trong kịch nói chung.
Trên thực tế, kịch bản văn học của hai tác giả Nguyễn Huy Tƣởng và
Nguyễn Huy Thiệp là những tài liệu đƣợc nhiều ngƣời trong ngành nói riêng và
ngoài ngành nói chung rất quan tâm và cũng đã từng có những công trình nghiên
cứu. Tuy nhiên, lại chƣa có tài liệu nào nghiên cứu sâu về các tác phẩm kịch bản


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 4 -
văn học này dƣới góc độ của lí thuyết hội thoại. Chính vì vậy, luận văn sẽ là tài
liệu cung cấp những kiến thức chuyên ngành ngôn ngữ cho những ngƣời quan
tâm.
6) Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các thủ pháp thống kê, phân tích,
cải biến, so sánh và tổng hợp.
Thủ pháp chêm xen cũng đƣợc sử dụng trong một phạm vi nào đó của luận
văn.
7) Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, trong phần nội dung luận văn sẽ bao gồm 3
chƣơng với các đề mục sau:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung
1.1 Kịch bản văn học là một thể loại của diễn ngôn

1.2 Đặc trƣng của kịch bản văn học
1.3 Lí thuyết hội thoại và hội thoại sân khấu
1.4 Ngôn cảnh trong kịch bản văn học
1.5 Kịch bản văn học theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại
1.6 Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Huy Tƣởng và Nguyễn Huy Thiệp
và các kịch bản văn học
1.7 Tiểu kết
Chương 2: Kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp
2.1 Kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp
2.2 Các dạng ngôn ngữ kịch trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp
2.3 Cấu trúc các cặp thoại
2.4 Cơ chế tạo ra hàm ý hội thoại trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy
Thiệp


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 5 -
2.5 Lịch sự và giao tiếp
2.6 Tiểu kết
Chương 3: Kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng
3.1 Kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tƣởng
3.2 Các dạng ngôn ngữ kịch trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy
Tƣởng
3.3 Cấu trúc cặp thoại
3.4 Cơ chế tạo ra hàm ý hội thoại trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy
Tƣởng

3.5 Lịch sự và giao tiếp
3.6 Tiểu kết











Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 6 -
Phần nội dung
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung
1.1 Kịch bản văn học là một thể loại diễn ngôn
Theo từ điển thuật ngữ văn học, thuật ngữ kịch đƣợc dùng theo hai cấp độ:
- Cấp độ loại hình, kịch là một trong ba phƣơng thức cơ
bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu,
vừa thuộc văn học. Nó vừa để diễn lại vừa để đọc. Vì vậy, kịch
bản chính là phƣơng diện văn học của kịch.
- Cấp độ thể loại, thuật ngữ kịch (dram) đƣợc dùng để
chỉ một thể loại văn học sân khấu có vị trí tƣơng đƣơng với bi
kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch cũng còn gọi là chính kịch

(hoặc kịch dram).
Trong luận văn này, thuật ngữ kịch đƣợc sử dụng ở cấp độ thứ nhất, tức là
cấp độ loại hình.
Kịch bao gồm hai bộ phận lớn: kịch bản và trình diễn. Kịch bản hay còn
gọi là kịch bản văn học, do kịch tác gia viết, còn trình diễn là do đạo diễn
chuyển kịch bản thành một ngôn ngữ phức hợp khác, thể hiện kịch bản trên sân
khấu. Muốn thấy rõ đặc trƣng của kịch bản văn học, trƣớc hết cần có cách tiếp
cận sát hợp, nếu tách rời nó với sân khấu, với mục đích viết ra là để trình diễn
của kịch thì có thể không hiểu đƣợc đặc trƣng của loại hình văn bản nghệ thuật
này.
Trong các bộ môn sân khấu Việt Nam, kịch nói ra đời muộn nhất. Đến đầu
thế kỉ XX, nó mới xuất hiện do bối cảnh lịch sử khá đặc biệt. Ban đầu với mục
đích truyền bá nền văn hoá “mẫu quốc” của nƣớc Đại Pháp trên tờ Đông Dƣơng
tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh chủ trì, các kịch bản của Molie bắt đầu đƣợc dịch


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 7 -
sang tiếng Việt. Việc đem trình diễn một số tác phẩm sân khấu dịch ở Hà Nội đã
tác động mạnh mẽ đến giới trí thức đƣơng thời. Nhiều ngƣời mong sân khấu
Việt Nam có thể diễn các vở hài kịch theo lối thái Tây để bổ ích cho nhân dân
phong tục nƣớc nhà. Bối cảnh đó đã tạo ra một phong trào sáng tác kịch nói đầu
thế kỉ với các tên tuổi nhƣ Vũ Đình Long, Vi Huyền Đắc, Tô Giang, Trần Tuấn
Khải, Hồ Trọng Hiến, Nguyễn Phú Kim, Đoàn Phú Tứ, Tƣơng Huyền… Trong
đó, Vi Huyền Đắc đƣợc ngƣời đƣơng thời đánh giá cao với các tác phẩm tiêu
biểu nhƣ Uyên ƣơng (1927), Mộng Hồ Điệp (1928), Ông Kí Cóp, Kim Tiền…

Sau này, đến thời kì chống Pháp và chống Mĩ, kịch nói đã phát triển một
cách rầm rộ và đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể về cả quy mô lẫn chất lƣợng
vở diễn. Tiêu biểu có thể kể đến các tác giả nhƣ Nguyễn Huy Tƣởng, Trúc
Đƣờng, Nguyễn Đình Thi, Ngô Y Linh, Đào Hồng Cẩm…
Tuy nhiên, với gần một thế kỉ kịch nói tồn tại ở Việt Nam, vấn đề về kịch
nói và những nghiên cứu ngôn ngữ chuyên sâu về kịch nói vẫn còn ít và chƣa có
những nghiên cứu thực sự cụ thể và sâu sắc.
Rõ ràng, kịch bản văn học phải đƣợc xem xét và tìm hiểu nhƣ một thể loại
của diễn ngôn. Bởi bên cạnh thơ, tiểu thuyết, kịch bản là một loại văn bản cần
đƣợc nghiên cứu cụ thể và tỉ mỉ, không chỉ về cấu trúc của nó mà còn ở các khía
cạnh khác.
Trƣớc khi tìm hiểu về cấu trúc thông thƣờng của một kịch bản văn học,
hãy xem xét lí thuyết phong cách chức năng nhìn kịch bản văn học nhƣ thế nào?
Một số thể loại kịch có đặc trƣng chính là tính đối thoại. Văn bản kịch viết
ra không phải chỉ để đọc mà còn là để diễn viên trình diễn nhƣ thật, do đó nó có
nhiều đặc điểm gắn liền với khẩu ngữ tự nhiên. Từ phong cách khẩu ngữ tự
nhiên cho đến phong cách sáng tác kịch bản văn học là một quá trình chuyển
hoá giữa các phong cách chức năng. Về nguyên tắc, đối thoại trong phong cách
nghệ thuật đƣợc xây dựng trực tiếp từ các đối thoại trong khẩu ngữ tự nhiên.


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 8 -
Tuỳ thuộc theo cách thể hiện của từng tác giả mà các đối thoại đó đƣợc gia công
khác nhau, đƣợc lọc bỏ những nét dƣ, nét rƣờm nhằm đảm bảo cho tính trong
sáng của ngôn ngữ đối với việc thể hiện các ý đồ nghệ thuật.

Ở thể loại kịch, cũng xuất phát từ đặc trƣng cơ bản là đối thoại mà bối cảnh
chung, tình huống của nhân vật cùng với quá trình theo dõi diễn xuất, tất cả
những yếu tố trên đã tạo ra một thứ ngôn ngữ “tiền đề” không cần lặp lại trƣớc
ngƣời xem. Chính vì lẽ đó, cú pháp trong ngôn ngữ kịch là một thứ cú pháp tỉnh
lƣợc cao độ nhƣng hoàn toàn rất dễ chấp nhận và dễ hiểu. Mỗi nhân vật ở đây
vốn đã mang một thông tin riêng về ngôn ngữ trong quá trình diễn biến logic của
vở kịch. Câu nào nhân vật nói ra cũng nằm trong thế tỉnh lƣợc ở bề mặt. Nhƣng
ngƣời nghe tiếp nhận đầy đủ những cái cần có ở cấu trúc sâu. Sự không lặp lại
những tiền giả định trong giao tiếp giữa các nhân vật và khán giả đƣợc thực hiện
rất triệt để.
Trong kịch ít khi xuất hiện ngƣời kể chuyện, chỉ có đối thoại giữa các nhân
vật với nhau. Chính vì đƣợc xây dựng trên cơ sở các lời thoại nên ngôn ngữ kịch
là ngôn ngữ nghệ thuật gần với khẩu ngữ nhất. Ngôn ngữ ở đây có phối hợp
những hành động khác, tác động trực tiếp đến ngƣời nghe, tuỳ thuộc theo những
phản ứng ngay tức khắc của đối tƣợng đối với từng ý, từng lời.
Một kịch bản văn học có cấu trúc theo kiểu chƣơng hồi cảnh lớp, đây là cấu
trúc đƣợc xếp từ lớn đến nhỏ. Tuy nhiên không phải kịch bản văn học nào cũng
có cả 4 yếu tố trên. Có những vở kịch chỉ có hồi và cảnh, có những vở kịch lại
có hồi cảnh và lớp… Điều này tuỳ thuộc vào cách xây dựng kịch bản văn học
của từng tác giả. Nhƣng dù ở kịch bản văn học nào thì chƣơng hồi cảnh lớp đều
có mối liên quan hữu cơ theo tính thống nhất của tƣ tƣởng chủ đề. Tuy nhiên,
nói nhƣ vậy không phải là các yếu tố này không có tính độc lập tƣơng đối, mà
ngƣợc lại chúng đều có tính độc lập tƣơng đỗi, mỗi hồi, mỗi chƣơng hay mỗi


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại


- 9 -
lớp trong kịch bản văn học lại có những chủ đề riêng, độc lập mặc dù chúng đều
phục vụ cho đề tài chung của một kịch bản văn học.
1.2 Đặc trưng của kịch bản văn học
Nhƣ trên đã nói, không nên đánh đồng kịch bản văn học với nghệ thuật sân
khấu nói chung. Kịch bản văn học đƣợc coi là một trong ba loại chính của văn
học. Trong kịch bản văn học đúng là chủ yếu chỉ có đối thoại nhƣng đối thoại
cũng chỉ là một trong những đặc điểm về hình thức của kịch bản văn học (nhƣng
không phải là ngƣợc lại).
Sau đây, chúng ta sẽ cùng xét đến những đặc trƣng của một kịch bản văn
học, về xung đột kịch, hành động và cốt truyện kịch, nhân vật kịch cũng nhƣ
ngôn ngữ kịch.
1.2.1 Xung đột kịch
Xung đột kịch là đặc điểm về đề tài và chủ đề của kịch bản văn học. Trong
tiểu thuyết, do không hạn chế về không gian và thời gian nên có thể phản ánh
những mâu thuẫn trong cuộc sống một cách tỉ mỉ, sâu rộng, có thể đề cập đến
những mâu thuẫn trong trạng thái manh nha, âm ỉ, cũng nhƣ ở những giai đoạn
đối lập, đấu tranh, xung đột. Nhƣng đối với kịch bản văn học thì lại khác, thời
gian trong câu chuyện của một kịch bản văn học đƣợc mô tả là thời gian ƣớc lệ,
tức là có thể phóng đại không gian và thời gian.
1.2.2 Hành động và cốt truyện kịch
Cốt truyện và hành động kịch phải thống nhất, tập trung, đòi hỏi chi tiết,
tình tiết sự kiện không những phải cô đúc, gãy gọn, mà còn phải liên đới nhau
một cách chặt chẽ, logic, tất yếu, tự nhiên. Nhƣng điều đó không có nghĩa là đơn
nhất, đơn giản. Cốt truyện là nhằm triển khai xung đột. Cốt truyện kịch đƣợc
dẫn dắt theo quy luật nhân quả, các mối liên hệ phải thật chặt chẽ, nhƣng không
có nghĩa là quá tất yếu, quá hiển nhiên, vì nhƣ thế sẽ làm mất đi cái hay, cái hấp


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A


Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 10 -
dẫn của một kịch bản, mà trong kịch phải có những chỗ ngoặt, những đoạn đột
biến, những bƣớc nhảy vọt.
1.2.3 Nhân vật kịch
Hãy so sánh, nếu không có nhân vật, ta vẫn có thể có một bài thơ. Còn
trong tiểu thuyết, có nhân vật nhƣng đối với tiểu thuyết thì không chỉ có nhân
vật. Nhƣng đối với kịch thì chỉ có nhân vật mà thôi. Nhƣng lời chỉ dẫn về cảnh
vật là không đáng kể và không thật cần thiết.
Hơn nữa, nhân vật trong kịch bản văn học do hạn chế về không gian và thời
gian sân khấu nên số lƣợng nhân vật kịch thƣờng không quá nhiều nhƣ trong
tiểu thuyết. Ngoài ra, kịch bản văn học không có nhân vật kể chuyện.
Trong tiểu thuyết, trong truyện, những con ngƣời đƣợc tác giả miêu tả hành
động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn ở bên cạnh họ… kịch bản không
cho phép tác giả đƣợc tự do can thiệp nhƣ vậy, kịch bản loại trừ việc tác giả
mách nƣớc cho độc giả. Tác giả ở đây đƣợc hiểu chính là ngƣời kể chuyện.
Tính cách của nhân vật trong kịch thƣờng rất nổi bật. Điều này khác với
nhân vật trong tiểu thuyết, vì nhân vật trong tiểu thuyết thƣờng đƣợc khắc hoạ tỉ
mỉ, do vậy, tính cách rất phức tạp.
Tính cách nhân vật kịch cũng không phải là tính cách đơn giản, một chiều,
mà nó còn có các nét tính cách khác vừa liên đới, vừa biến thái, làm cho gƣơng
mặt nhân vật sinh động, đa dạng. Nhân vật kịch cũng thƣờng chứa đựng các
cuộc đấu tranh nội tâm.
1.2.4 Ngôn ngữ kịch
Đây là một trong những đặc trƣng rất quan trọng của một kịch bản văn học.
Cần khẳng định, kịch tồn tại dƣới hai dạng thức: trên kịch bản và trên sân khấu.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học cũng nhƣ tác giả của luận văn này

chú ý chủ yếu đến kịch bản chứ không phải là kịch đƣợc trình diễn trên sân
khấu. Và kịch bản thì tất nhiên là ở trạng thái tĩnh và bất biến.


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 11 -
Trƣớc hết, phải khẳng định ngay rằng, dù trong kịch, không có ngôn ngữ
ngƣời kể chuyện, tuy nhiên, vẫn có những lời chú thích trực tiếp của tác giả
nhằm nêu rõ thời gian, không gian, đặc điểm, bối cảnh của câu chuyện.
Ngôn ngữ trong kịch nói chung thƣờng phải có tính hành động, tính khẩu
ngữ, tính hàm súc và tính tổng hợp và nhất là phải phù hợp với tính cách nhân
vật. Xem xét từng đặc điểm của ngôn ngữ kịch:
Ngôn ngữ kịch có tính hành động và phải mang tính chất khơi gợi và phối
hợp chặt chẽ với các hành động hình thể, hành động có tính chất biểu đạt. Ví dụ
trong kịch bản “Không có vua” của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật lão Kiền vừa
xua tay đuổi quầy quậy bà bán xôi, vừa nói: “Đi mà! Đi mà! Không có bán chác
gì ở đây!”
Ngôn ngữ trong kịch cũng gần với tiếng nói thƣờng ngày (điều này ở mục
trên chúng tôi đã nói tới). Ngôn ngữ kịch thƣờng mang tính khẩu ngữ chứ không
nhƣ văn viết.
Ngôn ngữ chính là phƣơng tiện quan trọng nhất để bộc lộ tính cách nhân
vật, do đó ngôn ngữ kịch phải đƣợc tính cách hoá. Trong quan hệ với ngôn ngữ,
nên phân biệt nội tâm với tính cách. Ngôn ngữ nào cũng cần và có thể phù hợp
với tính cách nhƣng không phải lời nói nào cũng phù hợp với nội tâm.
Ngôn ngữ văn học nói chung có tính hàm súc “ý tại ngôn ngoại”, ngôn ngữ
kịch lại càng phải ngắn gọn súc tích.

Mặc dù kịch chỉ có nhân vật nhƣng nhân vật cũng có thể qua độc thoại và
đối thoại đóng vai trò chủ thể trữ tình và trần thuật ở một mức độ nhất định.
Ngôn ngữ kịch vì thế có tính chất tổng hợp, nghĩa là mang cả yếu tố trữ tình và
tự sự.
Riêng về phần ngôn ngữ kịch này sẽ đƣợc trở lại ở các chƣơng tiếp theo
của luận văn.
1.3 Lí thuyết hội thoại và hội thoại sân khấu


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 12 -
1.3.1 Quan niệm về hội thoại và các văn bản hội thoại
* Quan niệm về hội thoại
Giao tiếp là một nhu cầu thiết yếu của con ngƣời. Qua giao tiếp con ngƣời
nắm bắt đƣợc thông tin, tích lũy đƣợc các tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết khoa
học…Con ngƣời muốn phát triển hay hoà nhập vào một cộng đồng, xã hội nào
đó phải có khả năng giao tiếp tốt, mà muốn giao tiếp tốt thì phải có năng lực sử
dụng ngôn ngữ. Nhƣ vậy, ngôn ngữ đóng vai trò chính và là yếu tố quyết định
thành công của hoạt động giao tiếp.
Hoạt động giao tiếp thông thƣờng là hội thoại, là sự trao đổi thông tin giữa
hai ngƣời với nhau. Qua hội thoại các yếu tố ngôn ngữ bộc lộ khả năng vận hành
và phát huy tác dụng cao nhất. Có thể nói giao tiếp hội thoại là hoạt động cơ bản
và là hình thức giao tiếp thƣờng xuyên phổ biến của của con ngƣời.
Cho đến nay chƣa có một định nghĩa hoàn toàn chính xác về hội thoại. Các
nhà nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới tuy đã có rất nhiều công trình về hội
thoại, song họ cũng chỉ đƣa ra những quan niệm khác nhau về vấn đề này chứ đó

chƣa đƣợc coi là một định nghĩa hoàn chỉnh.
Thông thƣờng hội thoại thƣờng đƣợc hiểu là hoạt động giao tiếp thƣờng
xuyên, phổ biến của con ngƣời, là sự trao đổi thông tin theo mục đích nào đó
của những ngƣời tham gia giao tiếp.
* Văn bản hội thoại
Văn bản (text) là phần ghi ở dạng viết của một sự kiện giao tiếp, truyền đạt
một thông điệp hoàn chỉnh. Văn bản có thể biến đổi từ những từ đơn đến những
quyển sách dài vài trăm trang.
Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện một cách tự nhiên dƣới
dạng nói, viết hoặc một biểu hiện bằng cử chỉ, đƣợc nhận dạng vì những mục


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 13 -
đích phân tích. Nó thƣờng là một chỉnh thể ngôn ngữ với một chức năng giao
tiếp có thể xác định đƣợc, ví dụ nhƣ: một cuộc hội thoại, một tờ áp phích…
Nhƣ vậy, văn bản đƣợc hiểu là một sản phẩm mang một nội dung ý nghĩa
hoàn chỉnh và bao gồm cả dạng nói và viết. Do đó sẽ có nhiều loại văn bản khác
nhau với những chức năng cụ thể nhƣ: văn bản hội thoại, văn bản khoa học, văn
bản nghệ thuật…
Hội thoại cũng là một dạng văn bản tồn tại ở dạng nói và dạng viết với
những quy tắc đặc thù. Hội thoại ở dạng nói là những trao đổi của con ngƣời
trong sinh hoạt hàng ngày và đi kèm theo là những hành vi của ngƣời tham gia
giao tiếp. Hội thoại ở dạng viết là sự hiển ngôn bằng văn tự hội thoại ở dạng nói,
nhƣng không tránh khỏi những đặc trƣng do tồn tại ở dạng văn tự.
1.3.2 Cấu trúc hội thoại

Các cuộc thoại tuy thiên biến vạn hoá về kiểu loại và trôi chảy nhƣ một
dòng nƣớc với những đơn vị phân định không thật rõ ràng nhƣng giữa chúng
vẫn có những cái gì đó chung về cấu trúc. Chính vì điều này, chúng ta mới hiểu
đƣợc sự tƣơng tác trong hội thoại, và hiểu đƣợc ngƣời viết muốn nói gì. Phần
này chúng ta sẽ tìm hiểu về cấu trúc hội thoại.
Có ba trƣờng phái có quan điểm khác nhau về cấu trúc hội thoại. Thứ nhất
là trƣờng phái phân tích hội thoại ở Mĩ (conversation analysis); thứ hai là trƣờng
phái phân tích diễn ngôn (discourse analysis); và thứ ba là trƣờng phái lí thuyết
hội thoại ở Thuỵ Sĩ (Geneve) và Pháp.
Tuy nhiên, hiện nay, các nhà nghiên cứu đều thống nhất hội thoại có ba
bậc lớn:
- Cuộc thoại (talk)
- Đoạn thoại (sequence)
- Cặp thoại (adjacency)


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 14 -
Cuộc thoại là đơn vị lớn nhất của hội thoại. Cuộc thoại là một lần nói
chuyện trao đối giữa cá nhân, ít nhất là hai câu, trong một cộng đồng, xã hội.
Cuộc thoại ngắn nhất chỉ gồm một cặp câu nhƣ chào – chào, hỏi – đáp…Cuộc
thoại dài có thể là một cuộc thƣơng lƣợng mua bán, một buổi nói chuyện về
ngôn ngữ học… Cấu trúc của cuộc thoại: Mở thoại - Thân thoại - Kết thoại.
Cuộc thoại có thể xác định theo: sự thống nhất về nhân vật hội thoại; sự thống
nhất về môi trƣờng hội thoại; sự thống nhất về chủ đề.
Đoạn thoại là tập hợp các lƣợt lời trao đổi về một vấn đề. Một cuộc thoại

có thể có hơn một đoạn thoại. Mỗi đoạn thoại lại bao gồm nhiều lời trao đổi chứ
không thể chỉ có một lời nói. Các đoạn thoại đƣợc liên kết với nhau cả về hình
thức và ý nghĩa. Tuy nhiên cách chuyển từ đoạn thoại này sang đoạn thoại khác
dựa trên nghĩa hay logic ngữ nghĩa nhiều hơn. Đoạn thoại cũng có cấu trúc nhƣ
của một cuộc thoại, nghĩa là bao gồm mở thoại, thân thoại và kết thoại. Có thể
nói, tóm lại đoạn thoại bao gồm các diễn ngôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau
về ngữ nghĩa, ngữ dụng.
Dƣới đoạn thoại là cặp thoại và tham thoại.
Cặp thoại đƣợc tạo nên từ các tham thoại hay nói cách khác cặp thoại là
cấu trúc gồm hai tham thoại do hai đối tác của cuộc thoại tạo nên. Cấu tạo của
cặp thoại: phần lớn các cặp thoại gồm hai tham thoại (dẫn nhập và hồi đáp),
những cũng có những cặp thoại đặc biệt. Ngoài ra, trong khái niệm cặp thoại còn
có khái niệm cặp thoại liên tục và cặp thoại gián cách. Trong đó, cặp thoại liên
tục là cặp thoại chứa các tham thoại kế tiếp nhau, còn cặp thoại gián cách là cặp
thoại chứa các tham thoại không kế tiếp nhau, giữa các tham thoại của một cặp
thoại có tham thoại khác.
Về cấu tạo của tham thoại thì tham thoại đƣợc tạo nên từ các hành động
ngôn từ. Có thể coi hành động ngôn từ chính là nòng cốt của tham thoại.


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 15 -
Về tổ chức nội tại, một tham thoại do một hoặc một số hành động ngôn ngữ
tạo nên. Nếu hành động do nhiều hành động ngôn ngữ tạo nên thì tham thoại đó
sẽ chứa một hành động ngôn ngữ nòng cốt (gọi là hành động ngôn ngữ chủ
hƣớng) và một hoặc các hành động ngôn ngữ phụ thuộc.

Hành động ngôn ngữ nòng cốt của tham thoại là hành động ngôn ngữ quyết
định bản chất của tham thoại và quyết định hƣớng hồi đáp của tham thoại hồi
đáp.
Hành động ngôn ngữ nòng cốt không chỉ quyết định bản chất của tham
thoại dẫn nhập mà còn quyết định cả bản chất của cặp thoại.
1.4 Ngôn cảnh trong kịch bản văn học
Trong mục này chúng ta cần tìm hiểu về ngôn cảnh và ý nghĩa của ngôn
cảnh nói chung trong ngôn ngữ cũng nhƣ nói riêng trong các kịch bản văn học.
Vì trong đời sống hằng ngày, muốn hiểu đƣợc những điều đối phƣơng nói,
không thể không tính đến yếu tố ngôn cảnh. Trong kịch bản văn học cũng vậy.
Ngƣời ta thƣờng nói rằng, muốn biết một câu nói ra phản ánh sự tình cụ thể
nào, có đúng hay không, phải biết sở chỉ của các thành tố của nó. Muốn xác định
sở chỉ của các thành tố cũng nhƣ sở chỉ của câu phải đặt câu vào tình huống khi
phát hiện ra nó. Nói điều này để thấy đƣợc ngữ cảnh có vai trò đặc biệt quan
trọng trong ngữ dụng học nói chung và phân tích hội thoại nói riêng.
Các nhà ngôn ngữ học hiện nay phân biệt hai loại ngôn cảnh. Đó là:
- Ngôn cảnh tình huống
- Ngôn cảnh văn hoá
Ngôn cảnh tình huống là ngôn cảnh của một hiện tƣợng ngôn ngữ, của một
văn bản, một trƣờng hợp cụ thể của ngôn ngữ. Trong kịch bản văn học, ngôn
cảnh là chính tình huống trong đối thoại giữa các nhân vật.
Ngôn cảnh văn hoá là ngôn cảnh của ngôn ngữ với tƣ cách là một hệ
thống. Những nhà nhân chủng học Anh nhƣ Malinowski, Firth nhấn mạnh vào


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại


- 16 -
tình huống làm ngôn cảnh cho ngôn ngữ với tƣ cách là văn bản và nhìn nhận
ngôn ngữ nhƣ một hình thức hoạt động hay diễn tả các quan hệ và quá trình xã
hội. Những nhà nhân chủng học Mĩ nhƣ Sapir và Whorf lại nhấn mạnh vào văn
hoá làm ngôn cảnh cho ngôn ngữ nhƣ một hệ thống và coi ngôn ngữ nhƣ một hệ
thống, một hình thức phản ánh hay sự sắp xếp kinh nghiệm thành lí thuyết hoặc
mô hình hoá hiện thực.
Ngôn cảnh tình huống là thế giới xã hội và tâm lí mà trong đó, ở một thời
điểm nhất định, ngƣời ta sử dụng ngôn ngữ. Trong kịch bản văn học cũng có
ngôn cảnh tình huống. Ngôn cảnh tình huống trong kịch bản văn học có thể bao
gồm sự hiểu biết về vị thế của ngƣời nói và ngƣời nghe, sự hiểu biết về vị trí,
thời gian và không gian, sự hiểu biết về phép xã giao trong xã hội và sự hiểu
biết về mã ngôn ngữ đƣợc dùng, sự hiểu biết về nội dung giao tiếp và bối cảnh
giao tiếp. Ngôn cảnh tình huống trong kịch bản văn học cũng bao gồm cả sự
chấp nhận ngầm của ngƣời nói và ngƣời nghe về tất cả các quy ƣớc, các niềm
tin và các tiền đề đƣợc coi là đƣơng nhiên của các thành viên trong cộng đồng
của ngƣời nói và ngƣời nghe.
Còn ngôn cảnh văn hoá trong kịch bản văn học, cũng nhƣ trong ngôn ngữ
nói chung, bao gồm hàng loạt nhân tố văn hoá nhƣ phong tục, tập quán, chuẩn
tắc hành vi, quan niệm giá trị, sự kiện lịch sử, những tri thức về tự nhiên và xã
hội, về chính trị và kinh tế.
Nhƣ đã biết, từ vựng của ngôn ngữ là nơi bộc lộ rõ nhất bản sắc văn hoá
của dân tộc. Về mặt nội dung, từ không chỉ đơn thuần chứa đựng khái niệm mà
còn gợi lên ý thức con ngƣời, tổng thể các tri thức gắn liền với từ đó. Ngữ nghĩa
dân tộc luôn gắn liền với văn hoá dân tộc. Để hiểu một ngôn ngữ cần phải hiểu
cả nền văn hoá dân tộc gắn liền với từ đó trong môi trƣờng ngôn ngữ văn hoá
của nó.


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A


Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 17 -
Nếu nhƣ ngƣời biết tiếng Việt không biết Truyện Kiều của Nguyễn Du,
truyện cổ tích Thằng Cuội, Chúa Chổm… thì sẽ không hiểu đƣợc một số những
đối thoại trong kịch bản văn học có sử dụng các thuật ngữ tên riêng trong các
tác phẩm này.
Ví dụ: Trong kịch bản văn học “Cái chết đƣợc che đậy” của Nguyễn Huy
Thiệp, nếu ngƣời đọc chƣa bao giờ đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du thì sẽ
không hiểu đƣợc đoạn đối thoại sau:
Bảo: Cô Mơ ạ, 200 năm trƣớc cũng có một ngƣời y hệt tình cảnh nhƣ cô…
Duyên do cũng chỉ bởi một thằng bán tơ vớ vẩn vu vạ. Cô ta tên là Vƣơng Thuý
Kiều…
Mơ: Bác ơi… Thân em còn khổ hơn cả Thuý Kiều ngày xƣa nhiều… Em
cơ cực lắm, chẳng ai thƣơng em.
Hay đoạn sau:
Bảo: Tất cả là do tay Nguyễn Du hết… Thật chẳng ra sao. Rồi còn khổ, chị
Xuân Lan ạ…
Xuân Lan: Anh nói thế là thế nào? Tôi chẳng hiểu ra sao…
Bảo: Còn thế nào nữa. Tội của Nguyễn Du khi viết “Truyện Kiều”. Hoàn
cảnh của cô Mơ kia có khác nào hoàn cảnh của Vƣơng Thuý Kiều. Khi tai hoạ
đến, bao giờ cũng có một nghìn linh một giải pháp, chƣa chi đã vội tìm ngay
giải pháp cực đoan nhất, “rẽ ra cho thiếp bán mình chuộc cha”. Vừa nôn nóng,
vừa dại dột, vừa vớ vẩn… chị có thấy Nguyễn Du tội to không nào. Đấy! Hậu
duệ của Vƣơng Thuý Kiều là cô Mơ kia cũng đã hành động hệt nhƣ tổ phụ của
mình…
Nhƣ vậy, nếu chƣa đọc tác phẩm Truyện Kiều và chƣa có những tri thức
nền về nhân vật Thuý Kiều thì ngƣời đọc sẽ rất khó để hiểu đƣợc đoạn đối thoại

trên.


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 18 -
Qua sự phân tích sơ lƣợc trên đây, ta cũng đã hình dùng đƣợc phần nào vai
trò của ngôn cảnh trong các kịch bản văn học. Để tìm hiểu và nghiên cứu các
đối thoại trong kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Huy Tƣởng
không thể nào không đề cập đến ngôn cảnh, vì nó đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong việc hiểu và phân tích những đối thoại ấy.
1.5 Kịch bản văn học theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại
Kịch bản văn học có thể nhìn và phân tích dƣới nhiều góc độ.
Nhìn dƣới góc độ thơ, ta sẽ thấy nét đẹp từ bản thân của thể loại kịch bản
văn học sinh ra từ việc phân tích ngữ âm, từ ngữ. Vì với thơ, các nét đẹp đều
nằm trên bề mặt con chữ cũng nhƣ âm điệu, nhịp điệu, nhạc điệu. Muốn thấy
đƣợc cái hay, cái đẹp của thơ, phải phân tích đƣợc nét đẹp toát ra từ từ ngữ, âm
điệu của thơ. Khi nhìn kịch bản văn học dƣới góc độ của thơ cũng vậy. Ta cũng
có thể thấy các nét đẹp, nét đặc sắc của kịch bản văn học dựa trên việc phân tích
các con chữ, các từ ngữ của nó. Và bất cứ phƣơng pháp nào xử lí vận luật trong
thơ, mô hình ngữ âm, cú pháp và ngôn ngữ so sánh đều có thể dùng để phân tích
kịch.
Đồng thời cũng có thể nhìn và nghiên cứu kịch bản văn học từ góc độ tiểu
thuyết. Vì ở cả kịch bản văn học và tiểu thuyết đều có điểm chung là cùng có
nhân vật và tình tiết. Muốn nhìn kịch bản văn học dƣới góc độ của tiểu thuyết
cũng đƣợc. Nhân vật và tình tiết là hai yếu tố chính có mặt trong tiểu thuyết.
Trong kịch bản văn học cũng vậy. Nhân vật đƣợc coi là trung tâm, chính từ nhân

vật sẽ nảy sinh các tình tiết và nhất là các xung đột. Những phƣơng pháp hữu
quan để xử lí nhân vật và tình tiết trong tiểu thuyết cũng có thể đƣợc dùng để
phân tích kịch.
Tất nhiên, về cơ bản kịch không giống với tiểu thuyết, vì kịch thƣờng
không có ngôn ngữ trần thuật. Khi chuyển thể từ tiểu thuyết sang kịch, phải sử
dụng những phƣơng pháp kịch khác để thể hiện những thông tin và thái độ mà


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 19 -
ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết truyền đạt. Trong kịch có rất nhiều cách để
xử lí ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết.
Nhƣ vậy, muốn nghiên cứu kịch bản văn học, ta có thể nhìn nó dƣới nhiều
góc độ. Thơ, tiểu thuyết và kịch bản văn học chính là ba thể loại chính của văn
học. Nhƣng không vì thế mà nghiên cứu thể loại này, không thể đặt nó trong cái
nhìn với thể loại khác. Mà ngƣợc lại, có thể xem xét nghiên cứu kịch bản văn
học dƣới góc độ thơ, cũng có thể nghiên cứu nó dƣới góc độ tiểu thuyết.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này, chúng tôi không
nghiên cứu kịch bản văn học dƣới cái nhìn của thơ, hay của tiểu thuyết, mà
chúng tôi tập trung nghiên kịch bản văn học dƣới cái nhìn của lí thuyết hội thoại,
của những vấn đề hội thoại nhƣ cấu trúc hội thoại, ngữ pháp hội thoại, hàm ý hội
thoại, vai giao tiếp, quan hệ giao tiếp… Một vấn đề mấu chốt mà kịch khác với
thơ và tiểu thuyết là nó nhấn mạnh vào sự giao lƣu ngôn ngữ, thông qua giao lƣu
để thiết lập và phát triển tƣơng hỗ giữa mọi ngƣời với nhau. Phân tích lời thoại
có thể giúp chúng ta phân tích quá trình giao lƣu giữa các nhân vật.
Có thể thấy đây sẽ là một cách nhìn rất mới mẻ đối với thể loại kịch bản

văn học. Với hi vọng đóng góp phần nhỏ bé các nghiên cứu mới mẻ vào thể loại
kịch bản văn học, chúng tôi sẽ xem xét kịch bản văn học dƣới cái nhìn của
chuyên ngành ngôn ngữ học.
1.6 Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Huy
Tưởng và các kịch bản văn học
Mục này, tác giả luận văn muốn giới thiệu đôi nét, một cách chung nhất và
khái quát nhất về hai tác giả và các kịch bản văn học đƣợc lựa chọn làm đối
tƣợng nghiên cứu trong luận văn. Đồng thời cũng giải thích nguyên nhân vì sao
luận văn lại lựa chọn đối tƣợng này để nghiên cứu.
Trƣớc hết, nói về hai tác giả này, không thể phủ nhận đây là những tác giả
có tên tuổi trên diễn đàn văn học Việt Nam. Cả hai tác giả đều là những cây bút


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thanh Nga – Cao học NG50A

Nghiên cứu một số kịch bản văn học của Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Huy Thiệp
theo cách nhìn của lí thuyết hội thoại

- 20 -
viết văn, viết tiểu thuyết và kịch rất sắc sảo, một là nhà văn đã quá cố (Nguyễn
Huy Tƣởng, sinh năm 1912, mất năm 1960) và một là nhà văn đƣơng đại
(Nguyễn Huy Thiệp, sinh năm 1950, hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội).
Tác giả luận văn cũng rất vinh dự đã có dịp gặp và nói chuyện với Nguyễn Huy
Thiệp để trao đổi về những tác phẩm kịch của ông đƣợc lựa chọn làm đối tƣợng
nghiên cứu cho luận văn.
Nguyễn Huy Tƣởng là nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam nổi tiếng. Ông đã
từng giữ nhiều chức vụ quan trọng và có nhiều cống hiến cho nền văn học nƣớc
nhà. Nguyễn Huy Tƣởng không chỉ sáng tác những tiểu thuyết lịch sử nhƣ Đêm
hội Long Trì, Lá cờ thêu sáu chữ vàng… ông còn có những kịch bản văn học rất
nổi tiếng. Những kịch bản văn học đƣợc lựa chọn làm đối tƣợng nghiên cứu của

luận văn đều là những sáng tác lớn của Nguyễn Huy Tƣởng nói riêng của nền
văn học Việt Nam nói chung. Đó là các kịch bản văn học:
1. Vũ Nhƣ Tô
2. Bắc Sơn
3. Những ngƣời ở lại
Cả ba kịch bản văn học này đều đã đƣợc chuyển thể thành những vở kịch
trình diễn sân khấu và đều đã đƣợc công diễn. Nguyễn Huy Tƣởng là một cái tên
quen thuộc, những nghiên cứu về kịch của ông chƣa phải là không có, trái lại,
cũng đã từng có khá nhiều, nhƣng nghiên cứu kịch bản văn học của Nguyễn Huy
Tƣởng dƣới cái nhìn của lí thuyết hội thoại thì hầu nhƣ chƣa có.
Đó chính là những lí do tại sao tác giả luận văn lại lựa chọn kịch bản văn
học của Nguyễn Huy Tƣởng để nghiên cứu.
Nguyễn Huy Thiệp cũng là một nhà văn tên tuổi của văn đàn Việt Nam,
nhất là văn đàn Việt Nam đƣơng đại. Dù xuất hiện muộn trên văn đàn Việt Nam,
nhƣng chỉ sau vài năm xuất hiện, Nguyễn Huy Thiệp đã gây xôn xao trong làng
văn học Việt Nam với những truyện ngắn và kịch bản văn học xuất sắc nhƣ:

×