Tải bản đầy đủ (.pdf) (210 trang)

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội Philippin giai đoạn 1966 - 1986 Trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống F. Marcos

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 210 trang )


Đại học quốc gia Hà Nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
=====================



Quang Thị Ngọc Huyền





Quá trình phát triển kinh tế-xã hội
philippin giai đoạn 1966-1986
(Trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống F. Marcos)




Luận án tiến sĩ lịch sử











Hà Nội – 2005




Đại học quốc gia Hà Nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
=====================




Quang Thị Ngọc Huyền




Quá trình phát triển kinh tế-xã hội
philippin giai đoạn 1966-1986
(Trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống F. Marcos)


Chuyên ngành: Lịch sử cận đại và hiện đại
Mã số: 5.03.04


Luận án tiến sĩ lịch sử


Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS Nguyễn Quốc Hùng
2. PGS. TS Phạm đức Thành







Hà Nội – 2005


8
Danh mục các bảng


Trang
Bảng 2.1 GDP theo khu vực kinh tế, 1962-1969
66
Bảng 2.2 Kinh phí cấp cho hoạt động giáo dục trường công
70
Bảng 2.3 Xuất khẩu trực tiếp của Philippin vào các nước
110
Bảng 2.4 Xuất khẩu hàng công nghiệp không Truyền thống
111
Bảng 3.1 Tỷ giá hối đoái giữa đồng pêsô và đôla Mỹ (1981-1986)
148
Bảng 3.2 Khu vực vay nợ nước ngoài của Philippin (1981-1986)
150
Bảng 3.3 Sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chính của Philippin

153
Bảng 3.4 Dân số và lao động
155
Bảng 3.5 ước tính mức độ đói nghèo trong các vùng (1965-1985)
156
Bảng 3.6 Tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong GDP của mỗi nước, 1980-1987
172
Bảng 3.7 Tỷ lệ công nhân nông nghiệp trên một máy kéo 1980-1985
176
Bảng 3.8 Cân đối thu chi của ngân sách chính phủ
182














Mục lục
Trang
Trang phụ bìa
lời cam đoan


Mục lục

Bản đồ Philippin
5
Danh mục các chữ viết tắt
6
Danh mục các bảng
8
Phần mở đầu

9
Chương 1: Khái quát tình hình kinh tế-xã hội Philippin
20 năm sau độc lập (1946-1965)
21

1.1 Khái quát về đất nước Philippin
21
1.2 Cộng hoà Philippin 20 năm sau độc lập (4/7/1946-30/12/1965)
29
1.2.1 Cộng hoà Philippin
29
1.2.2 Quan hệ của Philippin với Mỹ và các nước khác
30
1.2.3 Tình hình kinh tế-xã hội Philippin sau 20 năm độc lập
38
1.3 Thành tựu phát triển kinh tế-xã hội và thách thức đặt ra

46
Chương 2: Sự phát triển kinh tế-xã hội Philippin
từ 1/1966 đến 1/1981


51
2.1 Bối cảnh lịch sử
51
2.2 Kinh tế-xã hội Philippin trong nhiệm kỳ thứ nhất của Tổng thống
Marcos (1/1966-/12/1969)
54
2.2.1 Kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế của Marcos
54
2.2.2 Thành tựu và những vấn đề kinh tế còn tồn tại
66
2.2.3 Chính sách phát triển xã hội và những vấn đề đặt ra
68
2.3 Kinh tế-xã hội Philippin giai đoạn từ 1-1970 đến 1/1981
72
2.3.1 Cuộc bầu cử tổng thống năm 1969 và những thách thức
đối với tổng thống đắc cử
72
2.3.2 Marcos tập trung quyền lực và tư tưởng xây dựng “Xã hội mới”
77
2.4 Phát triển kinh tế trong thời kỳ thiết quân luật (9/1972-1/1981)
93
2.4.1 Chính sách cải cách ruộng đất và phát triển nông nghiệp
94
2.4.2 Chính sách kinh tế đối ngoại mới, khuyến khích đầu tư, tích cực
tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới
107
2.4.3 Mở rộng khu vực kinh tế nhà nước
114
2.4.4 Chính sách phát triển xã hội

116
2.5 Thành tựu kinh tế-xã hội trong thời kỳ thiết quân luật và những
vấn đề đặt ra
120
2.6 Phong trào chống chế độ độc tài, đòi bãi bỏ thiết quân luật

126
Chương 3: Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội
Philippin và sự sụp đổ của chính quyền Marcos
(1/1981-2/1986)

133

3.1 Bối cảnh quốc tế và khu vực
133
3.2 Cuộc khủng hoảng chính trị ở Philippin
134
3.2.1 Tổng thống Marcos tiếp tục duy trì chế độ độc tài
134
3.2.2 Vụ ám sát Aquino và hậu quả của nó
136
3.2.3 Hoạt động vũ trang của Đảng Cộng sản tăng mạnh
143
3.3 Cuộc khủng hoảng kinh tế
145
3.3.1 Cuộc khủng hoảng tài chính
145
3.3.2 Những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế đến sản
xuất nông nghiệp
151


3.3.3 Tình trạng đói nghèo gia tăng
154
3.4 Sự sụp đổ của chính quyền Marcos
157
3.4.1 Cuộc bầu cử tổng thống bất thường
157
3.4.2 Cuộc nổi dậy EDSA và hồi kết của “chế độ Marcos”
161
3.5 Những nguyên nhân kìm hãm kinh tế-xã hội Philippin phát triển
169
Phần kết luận
188
Danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố
194
Tài liệu tham khảo
195
Phần phụ lục









































9
Phần mở đầu


1. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Năm 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) được thành
lập. Từ 5 thành viên ban đầu, nay ASEAN đã trở thành tổ chức của 10 quốc
gia Đông Nam á. Gần 40 năm tồn tại và phát triển, đến nay AESAN được coi
là một trong số tổ chức liên kết khu vực thành công trên thế giới. ASEAN đã
có những đóng góp quan trọng trong bảo vệ hoà bình, ổn định và phát triển
của khu vực Đông Nam á và Châu á - Thái Bình Dương. Hiện nay, trước
những thách thức của thế kỷ mới như chống khủng bố, bảo vệ môi trường
sinh thái, sự hội nhập mạnh mẽ nền kinh tế thế giới ASEAN càng chứng tỏ
vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề của thời đại mà một nước
thành viên không thể làm nổi. Hơn nữa, việc mở rộng đối thoại giữa ASEAN
với các nước lớn và các tổ chức khu vực khác như Nhật Bản, Trung Quốc,
Mỹ, EU đã đem lại cho khu vực Đông Nam á một vị thế chính trị ngày càng
cao và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng lớn.
Tháng 7-1995 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN.
Đây là mốc quan trọng đánh dấu sự hội nhập của Việt Nam vào khu vực và
thế giới. Từ đó cho đến nay, Việt Nam đã có nhiều sáng kiến đóng góp vào sự
lớn mạnh của tổ chức này. Để tiếp tục giữ vững và nâng cao hơn nữa vai trò
của mình trong ASEAN, chúng ta, ngoài việc cần phải nỗ lực phát triển nền
kinh tế đất nước còn phải tập trung nghiên cứu sâu sắc hơn, toàn diện hơn về
khu vực Đông Nam á, trong đó việc nghiên cứu về mỗi thành viên của
ASEAN như Philippin là rất cần thiết. Đặc biệt, Philippin là một trong những
nước đưa ra sáng kiến thành lập ASEAN và đã có nhiều đóng góp cho sự hình
thành và phát triển của tổ chức này. Đồng thời, Philippin cũng là một nước
lớn có dân số đứng thứ ba của khu vực, sau Inđônêxia và Việt Nam, nhưng có

10
nền kinh tế chỉ cao hơn các nước thành viên mới của ASEAN. Thực tế,
Philippin đã bỏ qua các cơ hội thuận lợi để vươn lên trở thành nước có trình

độ kinh tế - xã hội phát triển. Vì vậy, nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của Philippin những năm 1966-1986, một giai đoạn đặc biệt trong lịch
sử Philippin, như đề tài đã lựa chọn của luận án, thiết nghĩ là một điều rất cần
thiết.
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, tham khảo mô hình phát triển kinh
tế - xã hội của những nước đã thành công hay chưa thành công để từ những
kinh nghiệm đó rút ra một hướng đi phù hợp cho đường lối phát triển kinh tế
của Việt Nam. Những sai lầm trong đường lối phát triển kinh tế đất nước mà
Philippin đã mắc phải sẽ là bài học giúp Việt Nam không lặp lại, tránh phải
trả giá cho những sai lầm tương tự.
2. Lý do và mục đích nghiên cứu
Năm 1946, Mỹ trao trả độc lập cho Philippin, Cộng hoà Philippin ra
đời. Nhân dân Philippin bắt tay vào xây dựng lại đất nước bị tàn phá nặng nề
sau chiến tranh. Với các chính sách phát triển kinh tế phù hợp của chính phủ,
nền kinh tế Philippin đã nhanh chóng được phục hồi và có những bước phát
triển nhất định.
Trong suốt thập niên 50, Philippin có tốc độ phát triển kinh tế cao đứng
hàng thứ hai ở châu á, sau Nhật Bản. Tuy nhiên, một Philippin “cất cánh”
trong những năm 50 đã từng được các nước xung quanh ngưỡng mộ, học tập
đã không duy trì đựoc tốc độ phát triển lâu dài. Philippin không thể tiếp tục
vươn lên để trở thành nước công nghiệp mới như Nam Triều Tiên, Đài Loan,
Hồng Kông trái lại, bị tụt hậu thành nước có nền kinh tế chỉ đứng trên các
nước nghèo nhất của khu vực Đông Nam á. Vì sao lại như vậy ? Có nhiều

11
nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân mà không ai có thể phủ nhận, đó là
sự cầm quyền của Tổng thống Marcos suốt 20 năm (1966 - 1986) có nhiều sai
lầm đã làm cho kinh tế - xã hội Philippin rơi vào khủng hoảng, thụt lùi, phát

triển chậm lại so với các nước khác trong khu vực. Hậu quả tai hại của đường
lối lãnh đạo đất nước theo kiểu độc tài của Marcos có thể nói đến nay
Philippin vẫn còn phải trả giá.
Lịch sử Philippin giai đoạn 1966-1986 thường được gọi là “thời kỳ
Marcos”. Trong 20 năm cầm quyền, đã có lúc Tổng thống Marcos được đánh
giá là một nhà lãnh đạo xuất sắc nhất châu á, nhưng điều đó không có nghĩa
ông là một tổng thống hết lòng phấn đấu cho sự phồn vinh của đất nước, cho
hạnh phúc của nhân dân. Marcos lên nắm quyền lãnh đạo đất nước ngày 30-
12-1965, cũng là lúc nền kinh tế của Philippin bắt đầu suy giảm sau một thập
kỷ có tốc độ tăng trưởng cao. Sau 4 năm cầm quyền đầu tiên, Marcos đã thể
hiện là một Tổng thống có năng lực lãnh đạo đất nước. Ông trở thành người
đầu tiên trong lịch sử Philippin tái đắc cử tổng thống trong cuộc bầu cử năm
1969. Song để duy trì quyền lực lâu dài, Marcos đã dùng mọi biện pháp, thủ
đoạn chính trị dù cho điều đó làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Tháng 9-1972
bằng việc ban bố thiết quân luật trên cả nước, Marcos chính thức thâu tóm
mọi quyền lực, cai trị đất nước theo chế độ độc tài. Quả thực, xét ở từng thời
điểm nhất định, Marcos đã gặt hái được những thành tích đáng kể trong phát
triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội của đất nước. Người dân Philippin đã
từng đặt nhiều hy vọng vào Marcos, những tin ông sẽ đem lại cho họ một
cuộc sống tốt đẹp trong một xã hội ổn định và phát triển. Thực tế đã có lúc
ông làm được ít nhiều như vậy. Nhưng để thoả mãn tham vọng quyền lực quá
lớn của mình, Marcos đã huỷ bỏ nền dân chủ truyền thống của đất nước, thiết
lập chế độ độc tài, thực hiện đường lối phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu
nhằm phục vụ cho lợi ích của gia đình và những người bạn thân của ông ta.

12
Hay nói cách khác, Marcos đã không thực hiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển xã hội một cách đúng mức. Rốt cuộc, những người dân nghèo
Philippin không cam chịu đã nổi dậy lật đổ chế độ độc tài Marcos, khôi phục
lại chế độ dân chủ để xây dựng một xã hội “công bằng” và “bình đẳng” cho

tất cả mọi người.
Với những lý do trên chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Quá trình phát triển
kinh tế - xã hội Philippin trong những năm 1966-1986 (trong thời kỳ cầm
quyền của Tổng thống Marcos)” để làm nội dung nghiên cứu cho Luận án tiến
sĩ lịch sử (chuyên ngành Lịch sử thế giới). Giai đoạn 1966-1986 là thời kỳ
khá đặc biệt trong lịch sử đương đại Philippin. Nghiên cứu 20 năm cầm quyền
của Tổng thống Marcos hy vọng góp phần lý giải cho chúng ta hiểu vì sao
Philippin đã không tận dụng được các cơ hội, điều kiện kinh tế thuận lợi đã có
trong thập kỷ 50 để từ đó vươn lên trở thành một “con rồng”. Và cho đến nay
đất nước quần đảo này vẫn chưa tìm được con đường bứt phá vươn lên đuổi
kịp các nước trong khu vực có nền kinh tế vốn có xuất phát điểm còn thua
kém hơn như Thái Lan, Inđônêxia và Malaixia.
Một lý do nữa thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế
- xã hội của Philippin những năm 1966 -1986 là do hiểu biết của chúng ta về
Philippin còn quá ít ỏi, nhất là con đường phát triển kinh tế - xã hội của nước
này. Vì vậy, việc nghiên cứu để hiểu sâu một giai đoạn phát triển kinh tế - xã
hội được in dấu sâu đậm trong lịch sử đương đại Philippin là hết sức cần thiết.
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ hơn về Philippin, một thành
viên của ASEAN.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
ở Việt Nam, một số quốc gia như Lào, Cămpuchia, Thái Lan đã được
giới thiệu, nghiên cứu khá kỹ lưỡng và sâu rộng. Trái lại, do nhiều nguyên
nhân những hiểu biết về đất nước Philippin còn rất ít ỏi, sơ sài. Trước năm

13
1975, ở miền Nam cũng chỉ có một số ít ấn phẩm mang tính khái lược về lịch
sử - đất nước - con người Philippin. Cho đến năm 1986, quan hệ giữa hai
nước Việt Nam - Philippin vẫn trong bầu không khí lạnh nhạt do sự lo ngại về
chủ nghĩa cộng sản trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Marcos. Trong
khoảng 10 năm trở lại đây, khi Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN,

Philippin mới được một số nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm nhiều hơn,
nhưng Philippin thường được đề cập đến với tư cách là một thành viên trong
bối cảnh chung của khối ASEAN.
Giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội Philippin trong thời kỳ 1966-1986
mới chỉ được đề cập một cách khái quát như trong bài viết của tác giả Nguyễn
Thu Mỹ: Con đường phát triển kinh tế- xã hội của Philippin (1946-1993) [11,
tr.139-188], Cao Minh Chơng và Nguyễn Thanh Nguyên: Nền kinh tế
Philippin qua các thời kỳ lịch sử [17, tr.182-224]. Trong ấn phẩm Kinh tế
Philippin của Đinh Quý Độ, xuất bản năm 1997 đã trình bày sơ lược các kế
hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nêu lên những mục tiêu và giải
pháp thực hiện của chính phủ Philippin. Đó là các kế hoạch ngắn hạn, trung
hạn phát triển kinh tế 1946 đến 1996. Tác giả còn phân tích đặc điểm một số
lĩnh vực kinh tế chủ yếu như nông nghiệp, các ngành công nghiệp chủ yếu, hệ
thống tài chính - ngân hàng của Philippin, song vẫn chỉ mang tính khái lược.
Vai trò của chính phủ Philippin đối với sự phát triển kinh tế đất nước từ
khi độc lập đến năm 1996 đã được tác giả Nguyễn Văn Hà trình bày khá cụ
thể trong bài viết: Vai trò của chính phủ trong phát triển kinh tế của Philippin
sau độc lập [18, tr. 221-261]. Sau khi phân tích vai trò của chính phủ
Philippin là người điều tiết nền kinh tế đất nước, tác giả đã đưa ra một số
nhận xét khá thuyết phục về sự thiếu năng lực của chính phủ Philippin trong
suốt bốn thập kỷ và điều đó đã phần nào lý giải vì sao cho đến nay Philippin
vẫn là nước có nền kinh tế trì trệ.

14
Nhìn chung, Philippin là quốc gia còn ít được biết đến ở Việt Nam. Vì
vậy, “Quá trình phát triển kinh tế - xã hội Philippin những năm 1966-1986”
là một vấn đề, tất nhiên, cũng chưa được ai quan tâm nghiên cứu, cho đến khi
chúng tôi quyết định lựa chọn làm đề tài của luận án.
Trái lại, tình hình kinh tế, xã hội Philippin thời kỳ 1966-1986 lại được
nhiều người Philippin và phương Tây nghiên cứu khá cômg phu và kỹ lưỡng.

Trước hết, chúng ta không thể bỏ qua ấn phẩm “The Marcos regime:
rape of the nation” (Chế độ Marcos: sự chiếm đoạt quốc gia) của Filemon
C.Rodriguez. Tác giả người Philippin đã trình bày toàn cảnh bức tranh kinh
tế, chính trị, xã hội của Philippin. Ông không phủ nhận những thành tích đã
đạt được, đồng thời cũng chỉ ra những sai lầm trong suốt 20 năm cầm quyền
của Tổng thống Marcos. Theo ông, nạn tham nhũng, hối lộ trong chính phủ và
sự đói nghèo của đa số nhân dân còn kéo dài chưa biết đến bao giờ mới kết
thúc.
Cuốn “The meaning of land reform” (ý nghĩa của cải cách ruộng đất)
của Conrado F. Estrella, Bộ trưởng cải cách nông nghiệp dưới thời cầm quyển
của Marcos, cùng với cuốn “Land reform in Asia” (Cải cách ruộng đất ở châu
á) của Mariano N. Querol lại tập trung vào lĩnh vực cải cách ruộng đất, một
vấn đề hết sức nhạy cảm ở Philippin. Cả hai tác giả đều nêu rõ tầm quan trọng
và sự cần thiết của cải cách ruộng đất ở Philippin và đều cho rằng chỉ khi nào
Philippin thực hiện thành công cải cách ruộng đất và sản xuất nông nghiệp
của Philippin được đầu tư phát triển cơ giới hoá, hiện đại hoá thì nông dân
Philippin mới thoát khỏi nghèo đói. Hơn nữa, cải cách ruộng đất còn là thước
đo về công bằng xã hội.
ấn phẩm “Vital documents on agrarian reform in the New Society”
(Những tài liệu chủ chốt về cải cách ruộng đất trong Xã hội mới) dày 410
trang đã tập hợp tất cả những sắc lệnh quan trọng nhất về cải cách ruộng đất

15
của Tổng thống Marcos cũng như các thông tư chỉ đạo thực hiện chương trình
cải cách ruộng đất của Bộ trưởng Bộ cải cách ruộng đất từ sau khi Philippin bị
đặt trong tình trạng thiết quân luật.
Vẫn trong lĩnh vực nông nghiệp, cuốn “Capitalism in Philippine
agriculture” (Chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp Philippin) của Rene E.
Ofreneo lại trình bày một cách cô đọng toàn bộ nền nông nghiệp Philippin, từ
những tàn tích của chủ nghĩa thực dân đến chương trình cải cách ruộng đất và

cuộc cách mạng xanh dưới thời Marcos. Cuốn sách cũng phân tích sự lệ thuộc
ngày càng nhiều của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp Philippin dưới sự bảo hộ
của tư bản nước ngoài. Và cuối cùng là sự tăng trưởng không đi đôi với công
bằng xã hội, sự độc quyền trong nông nghiệp đã dẫn đến cuộc khủng hoảng
nông nghiệp ở Philippin đầu thập kỷ 80.
Một tác giả Philippin có nhiều sách và bài viết về kinh tế - xã hội
Philippin giai đoạn 1966-1986 phải kể đến chính là Tổng thống Marcos. Sau
khi loại bỏ những đánh giá chủ quan của tác giả, những ấn phẩm này giúp
người đọc thấy rõ chủ trương, đường lối, chính sách suốt 20 năm cầm quyền
của Tổng thống Marcos, đặc biệt là thời kỳ cai trị đất nước theo chế độ độc tài
của ông. Cuốn “A president’s call to greatnes: a collection of speeches of
president Ferdinand E. Marcos” (Những bài phát biểu quan trọng của Tổng
thống Marcos) dày 269 trang tập hợp các bài phát biểu của Marcos trên mọi
lĩnh vực trong năm đầu nhiệm kỳ tổng thống lần thứ nhất cuả Marcos. Trong
các cuốn: “Revolution from the center”, (Cuộc cách mạng từ trung tâm),
“Towards a Filipino ideology” (Hướng tới hệ tư tưởng của người Philippin),
Marcos chủ yếu giải thích cho hành động dẫn đến việc ban bố thiết quân luật
trên cả nước và trình bày tư tưởng và nội dung “Xã hội mới” của ông. Các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nông nghiệp, phát triển
công nghiệp, chính sách ngoại giao mới trong thời kỳ thiết quân luật lại được

16
trình bày qua các ấn phẩm như: “Notes on the new society the Philippines I”
(Những chú giải về Xã hội mới của Philippin, I), “Notes on the new society
the Philippines II” (Những chú giải về Xã hội mới của Philippin II). Ngoài ra,
Marcos còn ca ngợi những thành tích đã đạt được về kinh tế, chính trị, xã hội
của Philippin trong quá trình xây dựng “Xã hội mới” trong các ấn phẩm như:
“Progress and martial law” (Sự tiến bộ và thiết quân luật), “The New
Philippine Republic” (Cộng hòa Philippin mới).
Nhiều học giả nước ngoài, đặc biệt là Mỹ đã bỏ nhiều công sức nghiên

cứu tìm hiểu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Philippin, trong đó giai đoạn
1966-1986 là đối tượng được nghiên cứu khá công phu, kỹ lưỡng.
Phó giáo sư kinh tế thuộc trường đại học Massachusetts, James
K.Boyce, tác giả cuốn: “The Philippines: The political economy of growth
and impoverishment in the Marcos Era” (Philippin: kinh tế chính trị về tăng
trưởng và đói nghèo trong thời đại Marcos) đã đi sâu phân tích đường lối phát
triển kinh tế của chính phủ Philippin từ thập kỷ 60 đến hết thập kỷ 80. Theo
tác giả, trong giai đoạn này, lợi ích xã hội từ tăng trưởng kinh tế đã bị thu hẹp
dần. Tình trạng nghèo đói trong dân chúng ngày một gia tăng. Xuất khẩu
nông nghiệp như đường, dừa, chuối, dứa của Philippin chỉ làm lợi cho một số
ít ông chủ giàu có chứ không phải cho chính người lao động. Chương trình
đẩy mạnh sản xuất lúa của Marcos thông qua cuộc cách mạng xanh kết cục đã
đẩy nông dân vào cảnh thiếu đói trầm trọng hơn. Chính sách vay nợ nước
ngoài tràn lan mà thực chất là để làm giàu cho cá nhân hơn là đầu tư có hiệu
quả của chính phủ Philippin cũng được tác giả phân tích chi tiết.
Cuốn: “Changeless land: continuity and change in Philippine politics”
(Mảnh đất không thay đổi: sự liên tục thay đổi trong đời sống chính trị
Philippin) của David G. Timberman, một chuyên gia người Mỹ chuyên theo
dõi về Đông Nam á lại khảo sát các yếu tố làm cho đời sống chính trị của

17
Philippin không ổn định trong suốt 4 thập kỷ, từ đầu những năm 60 đến cuối
những năm 90. Tác giả vạch trần sự lừa bịp chính trị của Marcos khi ông sử
dụng con bài thiết quân luật để thi hành “chủ nghĩa độc đoán hợp hiến” mà
thực chất nhằm duy trì quyền lực lâu dài. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những
nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Tổng thống Marcos.
Cuốn: “Crisis in The Philippines: The Marcos era and beyond” (Khủng
hoảng ở Philippin: thời đại Marcos và sau đó) do John Bresnan chủ biên đã
tập hợp đựơc nhiều bài viết có nội dung phong phú về nhiều lĩnh vực như:
tình hình xã hội Philippin; cuộc khủng hoảng chính trị; cuộc khủng hoảng

kinh tế; mối quan hệ giữa Mỹ - Philippin. Các tác giả đã phân tích kỹ nguyên
nhân bên trong cũng như các yếu tố tác động từ bên ngoài dẫn đến cuộc
khủng hoảng kinh tế, chính trị và xã hội ở Philippin trong những năm cuối
cùng của chế độ Marcos.
Được trao trả độc lập năm 1946, nhưng nền kinh tế, chính trị, xã hội
Philippin vẫn tiếp tục bị Mỹ chi phối mạnh mẽ. Thực chất chính Mỹ là nước
được hưởng lợi từ các mối quan hệ kinh tế, quân sự, chính trị với Cộng hòa
Philippin, ngược lại Philippin phụ thuộc nặng nề hơn vào Mỹ. Điều này đựoc
phản ảnh trong các cuốn: “The bases factor realpolitik of RP-US relations”
(Các nhân tố cơ bản trong mối quan hệ Philippin- Mỹ) của Patricia Ann Paez,
“U.S. Bases in the Philippines: in whose interest?” (Các căn cứ quân sự Mỹ ở
Philippin: lợi ích thuộc về ai ?) của Boone Schirmer, Megan Van Frank và
Michael Bedford, “U.S. Philippines economic relation” (Quan hệ kinh tế Mỹ-
Philippin) do Center for Strateggic and International Studies (Trung tâm nhiên
cứu chiến lược quốc tế) xuất bản, “United States Military bases in the
Philippines: issues and scenarios” (Các căn cứ quân sự Mỹ ở Philippin: quá
khứ và tương lai) do International studies Insntitute of the Philippines (Viện
nghiên cứu quốc tế Philippin) xuất bản.

18
Bên cạnh các nguồn tài liệu sách, chúng tôi còn tham khảo các bài viết
trong nhiều tạp chí, đặc biệt là tạp chí Asian Survey từ năm 1960 đến 1990.
Đây là nguồn tài liệu khá phong phú, cung cấp nhiều lượng thông tin quý giá,
đa dạng với những cái nhìn nhiều chiều của các tác giả người nước ngoài
hoặc chính người Philippin. Qua đó giúp chúng tôi nhìn nhận vấn đề một cách
toàn diện hơn, sâu sắc hơn và như vậy việc đánh giá các sự kiện cũng mang
tính chính xác và khách quan hơn.
Có thể thấy, tình hình kinh tế, xã hội, chính trị của Philippin giai đoạn
1966-1986 đã được nhiều tác giả là người phương Tây và chính người
Philippin quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu kỹ. Tuy nhiên, thường mỗi tác giả

chỉ tập trung sâu vào một vài khía cạnh thuộc lĩnh vực kinh tế hoặc xã hội,
chính trị.
4. Phạm vi nghiên cứu và nguồn tư liệu
- Về không gian, đề tài nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế -xã hội
của một quốc gia thuộc thành viên của ASEAN là Philippin trong đó có sự
liện hệ, so sánh với các quốc gia khác thuộc trong và ngoài khu vực.
- Về thời gian, luận án đi sâu nghiên cứu giai đoạn phát triển kinh tế -
xã hội của Philippin giai đoạn 1966-1986. Tuy nhiên, Philippin là nước chịu
sự đô hộ lâu dài của Tây Ban Nha (hơn 3 thế kỷ) và Mỹ (gần nửa thế kỷ) nên
hậu quả của các chính sách đô hộ thực dân vẫn có ảnh hưởng hoặc còn chi
phối mạnh mẽ nền kinh tế, xã hội, chính trị của Philipin sau này. Vì vậy luận
án, trong một chừng mực nhất định, đã trình bày khái quát về lịch sử, đất
nước, kinh tế, xã hội Philippin từ khi bị Tây Ban Nha xâm lược cho đến khi
Mỹ trao trả độc lập năm 1946 nhằm đảm bảo tính lôgic của luận án và giúp
cho phần nghiên cứu trọng tâm rõ ràng, dễ hiểu hơn.
Về nội dung, luận án đi sâu phân tích đánh giá quá trình phát triển của
Philippin trên lĩnh vực kinh tế - xã hội trong mối quan hệ tác động biện chứng

19
giữa hai yếu tố này đồng thời không thể tách biệt chúng với các yếu tố: chính
tri, địa lý, văn hóa. Đặc biệt là tình hình chính trị của Philippin những năm
1966-1986 đã chi phối mạnh mẽ đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của nước này.
Luận án đã sử dụng các nguồn tài liệu chính sau đây:
a. Tài liệu gốc: bao gồm các văn kiện chính thức của nhà nước
Philippin như: Hiến pháp Cộng hoà Philippin; các đạo luật và sắc lệnh tổng
thống; các thông báo hàng năm của nhà nước Philippin.
b. Sách báo và tạp chí nghiên cứu của các học giả Philippin và phương
Tây. Đây là nguồn tài liệu tham khảo rất quan trọng do có lượng thông tin
phong phú đa dạng và có thể tiếp cận được các quan điểm đáng giá khác nhau

về nhiều lĩnh vực.
c. Nguồn tài liệu bằng tiếng Việt: tuy là mảng tài liệu còn rất ít nhưng
chúng tôi cũng cố gắng sưu tầm và khai thác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án dựa trên quan điểm duy
vật lịch sử, biện chứng và phương pháp luận sử học, trình bày quá trình hình
thành và phát triển của vấn đề thông qua các sự kiện lịch sử tiêu biểu, phân kỳ
các giai đoạn phát triển bằng các mốc lịch sử theo thời gian để từ đó rút ra
khái quát chung nhất.
Trong chừng mực nhất định, luận án có sử dụng phương pháp khoa học
liên ngành có liên quan đến sử học như địa - chính trị, địa - văn hoá, kinh tế
học phát triển. Ngoài ra, các phương pháp đối chiếu, so sánh, thống kê…cũng
được luận án sử dụng.
6. Đóng góp của luận án
Luận án đã tập hợp, hệ thống các nguồn tài liệu về Philippin, nhất là các
tài liệu gốc.

20
Đây là một luận án lịch sử đi sâu nghiên cứu sự phát triển kinh tế - xã
hội Philippin giai đoạn từ 1966 đến 1986. Luận án cung cấp một bức tranh
khá toàn diện, bao quát và xác thực về tình hình kinh tế - xã hội của Philippin
trong “thời kỳ Marcos”. Việc tìm hiểu những nguyên nhân để lý giải cho sự
tụt hậu về kinh tế-xã hội của Philippin sẽ là kinh nghiệm quý đối với những
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Luận án là tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu
về Philippin trong các trường đại học, cao đẳng.
7. Bố cục của luận án
A. Phần mở đầu
B. phần nội dung chính gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát tình hình kinh tế - xã hội Philippin 20 năm sau

độc lập (1946-1965)
Chương 2: Sự phát triển kinh tế-xã hội Philippin từ 1-1966 đến 1-1981
Chương 3: Cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế của Philippin và sự sụp
đổ của chính quyền Tổng thống Marcos (1-1981/2-1986).
C. Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Phần Phụ lục








21
Chương 1
Khái quát tình hình kinh tế- xã hội Philippin
20 năm sau độc lập (1946-1965)

1.1 Khái quát về đất nước Philippin
Đất nước, lịch sử và con người Philippin
Cộng hòa Philippin là một quốc đảo, bao gồm 7.107 hòn đảo lớn nhỏ.
Quần đảo này nằm giữa lục địa châu á và Australia, giữa biển Thái Bình
Dương và ấn Độ Dương nên có một vị trí rất thuận lợi trên con đường hàng
hải quốc tế. Philippin có diện tích khoảng 300.000km
2
, hai đảo lớn nhất
chiếm 2/3 diện tích cả nước là đảo Luzon-141.395 km
2

và đảo Mindanao-
101.999 km
2
.
Philippin nằm trong vành đai khí hậu xích đạo nhiệt đới gió mùa, cây
cối xanh tốt quanh năm, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Các cây trồng
chính là lúa, ngô, mía, dừa, chuối, bông, đay, dứa Philippin còn có nhiều gỗ
quý và khoáng sản phong phú như vàng, đồng, mănggan, crôm. Đó là nguồn
tài nguyên quý giá đem lại nhiều ngoại tệ cho đất nước.
Tuy nhiên, với khí hậu nhiệt đới - biển - gió mùa nên Philippin cũng
phải gánh chịu nhiều thiên tai như dông bão, lũ lụt. Đặc biệt, hoạt động của
các núi lửa gây nhiều tổn thất cho Philippin. Là quốc đảo, Philippin có tới
34.600 km bờ biển, có nhiều hải cảng tốt. Vịnh Manila với diện tích 1.970km
2

là hải cảng tự nhiên đẹp nổi tiếng.
Philippin có số dân đứng thứ ba ở Đông Nam á, sau Inđônêxia và Việt
Nam. Hiện nay Philippin có hơn 80 triệu người. Philippin có tỷ lệ dân số trẻ ở
độ tuổi lao động cao và có trình độ văn hoá khá cao trong khu vực. Mặc dù rất
cố gắng thực hiện hạn chế sinh đẻ nhưng tỷ lệ tăng dân số hiện nay của
Philippin vẫn cao, khoảng 2%.

22
Năm 1937 tiếng Tagalog được chính thức quy định là ngôn ngữ quốc
gia. Tiếng Anh được dùng chính thức trong thời kỳ là thuộc địa của Mỹ, nay
vẫn được dùng rất phổ biến ở Philippin. Đây là một lợi thế của Philippin trong
quá trình hội nhập quốc tế.
Philippin có khoảng gần 100 cộng đồng dân tộc, đông nhất là người
Visaian, chiếm 35% dân số cả nước, sống tập trung ở trung tâm Philippin trên
đảo Visai. Người Tagal đứng thứ hai, chiếm 25% dân số cả nước. Cộng đồng

người Tagal đóng vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
Philippin.
Philippin có nhiều ngoại kiều trong đó người Hoa là đông nhất (gần 1
triệu người) tập trung chủ yếu ở Manila và các trung tâm buôn bán. Tiếp đến
là các ngoại kiều Mỹ và Tây Ban Nha
Ngay từ những ngày đầu đi chinh phục, các nhà truyền giáo Tây Ban
Nha đã đưa đạo Cơ đốc vào Philippin. Họ xây dựng nhà thờ trên khắp
Philippin và mở nhiều trường học, thư viện, bảo tàng về Cơ đốc giáo. Hiện
nay Philippin có tỷ lệ người theo Cơ đốc giáo chiếm 83% dân số. Đạo Tin
lành được người Mỹ truyền vào chiếm khoảng 5,5% dân số. Đạo Islam chiếm
4,6%, tập trung chủ yếu ở phía Nam trên đảo Mindanao. Tuy chiếm một tỷ lệ
ít ỏi nhưng nhiều người theo Islam đã trở thành một lực lượng luôn gây bất ổn
cho các chính quyền thực dân trước kia và Cộng hoà Philippin hiện nay.
Ngoài ra, Philippin còn có các tôn giáo bản địa theo tín ngưỡng vật linh.
Khái quát lịch sử Philippin trước khi giành độc lập
Philippin là nước bị Tây Ban Nha xâm chiếm sớm nhất ở Đông Nam á,
vào thời kỳ đầu cuộc bành trướng của thực dân châu âu đến phương Đông.
Tháng 3 năm 1521 Ferdinand Magellan trong khi tìm kiếm con đường đến ấn
Độ đã phát hiện ra quần đảo Philippin bây giờ, nhưng mãi đến năm 1565 Tây
Ban Nha mới chính thức tiến hành cuộc viễn chinh chiếm đoạt quần đảo này.

23
Họ đã không mấy khó khăn đàn áp các cuộc nổi dậy chống đối của dân cư
trên đảo. Năm 1571 Manila được tuyên bố là thủ đô của Philippin. Tuy nhiên,
những cư dân chủ yếu theo đạo Islam ở phía Nam quần đảo đã chống đối
quyết liệt nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Tây Ban Nha xuống khu vực
này.
Cho đến khi người Tây Ban Nha đặt chân lên quần đảo, nhà nước
Philippin chưa ra đời, hầu hết cư dân sống tập trung thành các cộng đồng nhỏ
khoảng từ 30 đến 100 gia đình. Các cộng đồng người này tồn tại theo các đơn

vị khá độc lập gọi là Barrio. Các Barrio là những đơn vị xã hội có quan hệ
thân tộc hơn là một đơn vị hành chính. Khi thực dân Tây Ban Nha đến xâm
chiếm họ vẫn giữ nguyên tổ chức xã hội này, các Barrio vẫn còn tồn tại đến
ngày nay. Người Tây Ban Nha tuy thất vọng trong việc tìm kiếm vàng và hồ
tiêu ở đây, nhưng họ đã thành công khi biến Philippin thành một phòng tuyến
ngăn chặn sự bành trướng của người Bồ Đào Nha và lấy quần đảo này làm
cửa ngõ đi vào thị trường châu á giàu có và rộng lớn.
Các tu sĩ Tây Ban Nha đã tiến hành Cơ đốc giáo hoá dân cư địa phương
và họ đã đạt được kết quả cao. Do vậy, trong suốt quá trình đô hộ Philippin,
tu sĩ là đội ngũ đông đảo nhất. Dưới con mắt của người Philippin, họ đại diện
cho chính quyền Tây Ban Nha và là kẻ trực tiếp bóc lột thuộc địa.
Đến đầu thế kỷ XVII, trên quần đảo đã hình thành nên tầng lớp địa chủ
Philippin. Tuy nhiên, so với châu Âu thời đó Tây Ban Nha được đánh giá là
một nước lạc hậu về kinh tế, xã hội, đến tận thế kỷ XIX, Tây Ban Nha vẫn giữ
phương thức khai thác, bóc lột thuộc địa như thời trung cổ. Vì vậy, khác với
các thuộc địa của những nước tư bản tiên tiến khác, Philippin trở thành một
trong những nước thuộc địa lạc hậu nhất.
Đến đầu thế kỷ XIX, Philippin bắt đầu chịu sự tác động của hệ thống tư
bản công thương nghiệp. Địa vị độc quyền của Tây Ban Nha trên quần đảo đã

24
bị lung lay trước sự tấn công của tư bản thương nghiệp các nước phương Tây
phát triển, đặc biệt là Mỹ và Anh. Nếu việc thực dân Tây Ban Nha thiết lập
nên chế độ phong kiến mang ý nghĩa tích cực lúc đầu, thì sự duy trì lâu dài
chế độ thuộc địa dựa trên phương thức bóc lột phong kiến lỗi thời của Tây
Ban Nha ở Philippin đã làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
này.
Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế và xã hội của Philippin, mặc dù
diễn ra chậm nhưng vẫn đẩy những mâu thuẫn giữa chế độ Tây Ban Nha và
xã hội thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt.

Cuối thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh chống Tây Ban Nha giành độc
lập của các tầng lớp nhân dân Philippin phát triển mạnh mẽ, cuối cùng đã
giành thắng lợi. Ngày 12-6-1898 Philippin tuyên bố độc lập. Ngày 23-1-1899
Philippin ban hành hiến pháp, trong đó tuyên bố Philippin là nước Cộng hoà
độc lập, ban bố các quyền tự do dân chủ và thiết lập pháp chế tư sản. Hiến
pháp 1899 được xem là bản hiến pháp chứa đựng những yếu tố tiến bộ nhất
của luật pháp tư sản. Lịch sử Philippin gọi đây là nền Cộng hoà thứ nhất.
Tuy nhiên, nhân dân Philippin đã không được hưởng nền độc lập như
họ mong đợi, trong khi thực dân Tây Ban Nha chưa bị đánh bại và đang tìm
cách củng cố lại vị trí trên quần đảo này thì một kẻ thực dân khác mạnh mẽ và
đầy tham vọng không che giấu âm mưu muốn thế chân Tây Ban Nha thiết lập
sự cai trị của mình ở Philippin, đó là Mỹ. Sự can thiệp của Mỹ vào Cuba -
một thuộc địa của Tây Ban Nha ở Tây bán cầu đã dẫn đến cuộc chiến tranh
Mỹ -Tây Ban nha mà kết quả là Tây Ban Nha già cỗi, suy yếu đã không giữ
được các thuộc địa của mình. Hạm đội của Mỹ đã đánh bại hạm đội Tây Ban
Nha trong vịnh Manila. Theo Hiệp ước Paris ký ngày 10-12-1898, Tây Ban
Nha nhượng lại Philippin cho Mỹ với giá 20 triệu đôla. Người Mỹ đánh giá
Philippin không những là một vùng đất màu mỡ mang lại nhiều lợi ích về

25
kinh tế mà còn ở vị trí bàn đạp chiến lược của quần đảo này đối với khu vực
châu á-Thái Bình Dương, nơi Mỹ đang nhòm ngó với con mắt thèm thuồng.
Mỹ đã không công nhận bản Tuyên bố độc lập của Philippin và chính thức
gây chiến với lực lượng cách mạng Philippin. Cuộc chiến đấu chống Mỹ của
quân đội cách mạng Philippin diễn ra quyết liệt, nhưng họ đã không thể thắng
nổi kẻ xâm lược mạnh hơn hẳn về quân sự và tiềm lực kinh tế. Sau 3 năm
chiến đấu (1899-1902), cuối cùng quân đội cách mạng Philippin đã bị đánh
bại, chỉ còn lại một lực lượng nhỏ duy trì cuộc chiến tranh du kích chống Mỹ
trong một thời gian ngắn. Hơn nữa, người Mỹ đã mua chuộc được tầng lớp
quý tộc người Philippin với lời hứa đảm bảo các quyền lợi kinh tế và tiếp tục

duy trì quyền lực của họ như cũ để đổi lại sự hợp tác của họ với chính quyền
Mỹ. Người Mỹ đã thiết lập được chủ quyền của mình trên quần đảo này.
Có thể nói Mỹ là nước đầu tiên sử dụng chính sách thực dân mới ở
Philippin. Bằng sự thống trị trá hình, gián tiếp, Mỹ dựng lên một chính quyền
bản xứ phụ thuộc vào Mỹ, đáp ứng được các yêu cầu quyền lợi của Mỹ và có
nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ. Năm 1907 Mỹ cho Philippin tiến
hành bầu cử quốc hội. Quốc hội lúc đó đóng vai trò Hạ viện lập pháp, Thượng
viện do Uỷ ban Philippin đảm nhiệm. Uỷ ban này do Tổng thống Mỹ bổ
nhiệm. Trên con đường mở rộng tự do dân chủ trong chính sách thực dân
mới, năm 1916 Mỹ thông qua luật Jones, trong đó có hứa trao trả độc lập cho
Philippin.
Ngay sau khi thiết lập được quyền thống trị ở Philippin, để khai thác tài
nguyên của quốc đảo này, Mỹ đã “tạo ra” nhiều thuận lợi cho quần đảo phát
triển. Dưới chính sách cai trị thuộc địa của Mỹ, nông nghiệp Philippin phát
triển nhanh chóng, đặc biệt là các cây trồng có giá trị xuất khẩu sang thị
trường Mỹ như đường, thuốc lá, gai dầu Hệ thống tài chính, ngân hàng cũng
được cải thiện, các nhà máy chế biến nông sản ra đời. Nhân tố quan trọng

26
nhất thúc đẩy kinh tế Philippin phát triển vượt bậc so với trước chính là
thương mại tăng cao chưa từng có, nhất là trong quan hệ trao đổi buôn bán
với Mỹ.
Năm 1909, Quốc hội Mỹ thông qua Luật thuế quan Payne-Aldrich, thiết
lập quan hệ tự do trao đổi thương mại giữa Mỹ và Philippin. Theo luật này,
Mỹ được quyền xuất khẩu miễn thuế và không hạn ngạch các loại hàng hoá
vào Philippin.Trái lại, tất cả các hàng xuất khẩu của Philippin, trừ gạo, chỉ
được phép vào thị trường Mỹ miễn thuế theo hạn ngạch. Sự bất bình đẳng của
đạo luật này đã được sủa đổi năm 1913 bằng Đạo luật thuế quan Simmons-
Underwood. Luật mới quy định, chỉ những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
Philippin vào Mỹ như gai dầu, đường, thuốc lá là phải chịu hạn ngạch.Trong

thực tế, Philippin chỉ được xuất vào Mỹ những sản phẩm thô, các nguyên liệu
cần thiết cho nền công nghiệp Mỹ. Như vậy, Mỹ là người kiểm soát chặt chẽ
nền kinh tế Philippin và biến Philippin thành thị trường tiêu thụ của Mỹ. Mặc
dù có sự bất bình đẳng trong mối quan hệ được gọi là “tự do trao đổi buôn
bán” giữa hai nước, song không thể phủ nhận các chính sách của Mỹ trong
việc thúc đẩy nền kinh tế Philippin phát triển.
Một nhân tố nữa phải kể đến trong chính sách thực dân mới của Mỹ
trong việc khai hoá văn minh cho các nước phụ thuộc là truyền bá tư tưởng
Mỹ, văn hoá Mỹ, lối sống Mỹ ở Philippin. Và điều này, ở một góc độ nào đó
đã góp phần phát triển hệ thống giáo dục vốn rất yếu kém của Philippin:
“Đóng góp to lớn nhất của Mỹ cho sự khai hoá Philippin là hệ thống giáo dục
công Hệ thống giáo dục Mỹ chú trọng các truyền thống dân chủ và ứng
dụng thực hành pháp luật và các nguyên tắc xã hội.” [21, tr.547]. Tiếng Anh
được đưa vào giảng dạy trong các trường học của Philippin. Cũng chính vì ở
Philippin có quá nhiều ngôn ngữ (gần 70 ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau) nên
tiếng Anh đã nhanh chóng trở thành ngôn ngữ được sử dụng chính thức ở

27
Philippin. Hiến pháp ban hành năm 1935 có ghi: “Quốc hội phải thực hiện
những bước để phát triển và khẳng định ngôn ngữ dân tộc dựa trên một trong
những tiếng địa phương hiện hành. Trong khi pháp luật chưa quy định lại,
các ngôn ngữ chính thức vẫn là tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha.” [5, tr.33].
Năm 1937, tiếng Tagalog mới được chọn làm ngôn ngữ chính thức của
Philippin, nhưng tiếng Anh vẫn là tiếng được dùng phổ biến. Tháng 6-1940
tiếng Tagalog chính thức bắt buộc dùng giảng dạy trong tất cả các trường học
ở Philippin.
Trước phong trào đòi độc lập mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân
Philippin và để thực hiện chính sách thực dân mới, ngày 24-3-1934 Tổng
thống Mỹ F. Roosevelt đã thông qua Đạo luật Tydings-Mc Duffie trao quyền
tự trị cho người Philippin. Đạo luật quy định thực hiện chế độ Philippin tự trị

trong thời hạn 10 năm trước khi trao trả độc lập hoàn toàn. Trong 10 năm thực
hiện chế độ tự trị, Mỹ vẫn nắm chủ quyền đối với quần đảo cũng như toàn bộ
các quan hệ đối ngoại, toà án tối cao và tổng thống Mỹ có quyền phủ quyết
đối với bất kỳ đạo luật nào do cơ quan lập pháp Philippin thông qua. Trong
thời kỳ tự trị, người Mỹ được bảo đảm quyền bất khả xâm phạm trong đầu tư.
Năm 1935, Philippin tự trị ban hành Hiến pháp đã được tổng thống Mỹ
phê chuẩn.
Là một quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng, Philippin đã bị cuốn
vào vòng xoáy của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 10-12-1941 quân
đội Nhật tấn công Philippin. Ngày 2-1-1942 Manila thất thủ. Để lừa bịp nhân
dân và ràng buộc những phần tử tay sai chóp bu với Nhật, chính quyền Nhật
đã đưa ra chiêu bài trao quyền “độc lập” cho Philippin. Ngày 14-10-1943
Nhật thiết lập nền cộng hoà bù nhìn do Jose P. Laurel làm tổng thống và ban
hành hiến pháp. Lịch sử Philippin gọi đây là nền Cộng hoà thứ hai.

×