2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHẢN VĂN
BIẾN ĐỔI Cơ CÂU KINH TÊ - XÃ HỘI CỦA MỘT
XÃ CHÂU THỔ SÔNG HỔNG: XÃ PHỤNG THƯỢNG
(HÀ TÂY) TỪ NĂM 1945 ĐẾN 1995
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 5.031.5
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH s ử
Người hướng dản khoa học
1- GS PHAN ĐẠI DOÃN
2- PGS.TS NGUYỄN VĂN KHÁNH
/<T- y -L o -ù t-
HÀ NỘI, NĂM 2002
BUI HONG VAN
LỜI CAM ĐOAN !
Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các sô liệu, kết quả được trình bày trong luận ủn lù trung thực vù
chưa từng được ai công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 15/02/2002
Nghiên cứu sinh
BUI HÒNG VẠN
Sau 6 năm "miệt mài đèn sácỉì y trai nhiêu gian khỏ\ khó khăn, cuối cùng tôi
đã đến cái đích cần đến của cuộc dòi. Có được thành quả như ngày hôm nay, bén
cạnh sự nỗ lực cô gắng của bản thán, tác giả bản luận án này đã nhận dược sự úng
hộ, giúp đờ to lớn vé tinh thần và vật chất tù những tập thể, cá nhản trong cuộc hành
trình kiếm tìm tri thức của mình.
' Ăn quả nhớ kẻ trổng cá ỳ\ trước hết tỏi xin bày tỏ lòng biết ơn sáu sắc đối với
GS.NGND Phan Đại Doãn, PGS.TS Nguyễn Vãn Khánh - hai người thầy kính yéu -
đã dìu dắt tói trong suốt chặng đường qua. Tỏi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với
các thầy cô trong khoa Lịch sứ, írưòng Đại học Khoa học Xã hội và Nhản vãn, Đại
học Quốc giũ Hà Nội trong quá trình đào tạo ở khoa, Tác giả trán trọng cám ơn
những ỷ kiến quý báu của PGS.TS Nguyền Quang Ngọcy TS Hoàng Hồng, TS
Nguyễn Văn Kim, PGS.TS Phạm Xanh, PGS.TS Nguyền Trí Thư, TS Trương Thị
Tiến, TS Nguyễn Đình Lêy PGS Lé Mậu Hãĩiy TSKH Nguyên Hải Kế, TS Vũ Vàn
Quản, TS Làm Bá Nam, TS Vù Quang Hiển, GS Đinh Xuán Lám, PGS.TS Đỏ
Quang Hưng, PGS.TS Trần Đức Cường, PGS.TS Nguyễn Ngọc Coy PGS.TS Nguyễn
Vãn Nhật, TS Trần Hữu Đính, PGS.TS Trịnh Nhu, PGS.TS Đinh Thu Cúc, PGS.TS
Nguyễn Đình Lễy GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh, TS Phạm Huy Vinh, TS Đoàn Khải, TS
Nguyễn Mạnh Hà, PGS.TS Dưong Xuân Ngọc, TS Nguyễn Vãn Duy TS Lé Vãn
Thịnh, TS Vũ Thị Hoày v.v cho bấn luận án hoàn thiện hon.
Tói xin chán thành cám ơn Phòng đào tạOy trường Đại học Khoa học Xá hội
và Nhán văn; Ban giám hiệu, Bộ môn LSĐ-CNXHKH, tô LSKTQD và các phòng
ban của truòĩìg Đại học Thưong mại tì à Nội đã tạo điêu kiện thuận lợi cho bản thân
trong quá trình đào tạo. Tôi củng xin gửi lòi cám ơn Đãng uỷy uỷ ban và nhản dán
xã Phụng Thượng; cám ơn óng Dương Đáng Ninh (Bí thư Đảng uỷ), anh Hoàng
Tiến Dũng (Trưởng ban Vãn hoá - Thông tin) xã Phụng Thượng, anh Trần Vãn Ẩm
{cán bộ nghiên cứu lịch sửy Ban Tuy én giáo, Huyện uy huyện Phúc Thọ) và 2 sinh
vién khoa Sủy trường Đại học Khoa học Xă hội và Nhản văn (Nguyễn Vàn Triệu và
Nguyễn Hải Yến) đã giúp đỡ tỏi rất nhiều trong điêu tra, khảo sát, thu thập tài liệu ỏ
địa phương Cuối cùng - như cha ông ta nói: ”của chồngy cóng vợ” - tôi không thẻ
quên công sức người bạn đời của tói là Lé Thị Phương, dã chấp nhạn mọi gian khổ,
hy sinh đẻ giúp tôi “công thành, danh toại'7
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2002
Bùi Hỏng Vạn
LỜI CÁM ƠN !
4
Trang
Trang phụ bìa 2
Lời cam đoan 3
Mục lục 4
MỞ ĐẦU 5
Chương 1
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỂ XÃ PHỤNG THƯỢNG
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
1.1. Điều kiện tự nhiên và sự phát triển làng xã
17
1.1.1. Điều kiện tự nhiên 17
1.1.2. Sự hình thành, phát triển làng xã 20
1.2. Tinh hình kinh tế - xã hội 21
1.2.1. Về kinh tế
21
1.2.2. Về văn hoá, xã hội 30
Chương 2
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI PHỤNG THƯỢNG
TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐEN 1959
2.1. Cơ cấu kinh tế - xã hội trong thời kỳ 1945 - 1954
43
2.1.1. Những biến đổi kinh tế 43
2.1.2. Những biến đổi xã hội 52
2.2. Cơ cấu kinh tế - xã hội những năm 1954-1959
55
2.2.1. Thực hiện nhiệm vụ dân chủ
55
2.2.2. Biến đổi trong cơ cấu kinh tế - xã hội 65
Chươìig 3
cơ CẤU KINH TỂ - XẢ HỘI CỦA PHỤNG THƯỢNG
TRONG GIAI ĐOẠN TẬP THẺ HOẢ (1959 - 1988)
3.1. Thời kỳ hợp tác hoá, tập thể hoá (1959 - 1988)
72
3.1.1. Vài nét về hợp tác hoá, tập thể hoá
72
MỤC LỤC
5
3.1.2. Biến đổi về cơ cấu kinh tế 77
3.1.3. Biến đổi về cơ cấu xã hội 89
3.2. Thời kỳ thực hiện chế độ khoán mới (1981 - 1988)
93
3.2.1. "Khoán 100" - bước đột phá đầu tiên vào cơ chế cũ
93
3.2.2. Một sô biến đổi trong kinh tế - xã hội
96
Chương 4
BIẾN Đ ổ i Cơ CẤU KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA PHỤNG
THƯỢNG TRONG NHỬNG NĂM 1988 - 1995
4.1. Đổi mới cản bản cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp - tiền đề biến
đổi cơ cấu kinh tế - xã hội
103
4.2. Những biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội
105
4.2.1. Biến đổi trong cơ cấu kinh tế 105
4.2.2. Biến đổi trong cơ cấu xã hội 123
Chương 5
PHỤNG THƯỢNG TRONG B ố i CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG CHÂU THỔ SÔNG HồNG (1945 - 1995)
5.1. Vài nét về kinh tế - xã hội truyền thống vùng châu thổ sông Hồng 132
5.2. Những biến đổi kinh tế - xã hội từ 1945 đến 1995 140
5.3. Mấy khuyến nghị phát triển kinh tế - xã hội
150
KẾT LUẬN 153
CÒNG TRÌNH LIẺN QUAN ĐEN LUẬN Á N
160
TÀI LIỆU THAM KHẢO 161
PHỤ LỤC 177
6
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỂ TÀI.
Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, nông thôn là địa bàn có tầm
quan trọng đặc biệt. Nếu không có nông thôn thì cũng không có thành thị.
Nông thôn cung cấp những sản phẩm quan trọng bậc nhất cho đời sống là
lương thực, thực phẩm; cung cấp nguồn lao động và những sản phám thủ cổng
xuất khấu thu ngoại tệ, góp phần phát triển đô thị, công nghiệp. N ông nghiệp
còn góp phần giảm bớt sự mất cân bằng m ôi trường sinh thái V ì thế, từ lâu
trên thế giới và ở V iệt Nam , nông thôn đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học như: sử học, xã hội học, kinh tế học. văn hoá học, v.v
Cho đến nay “ở tất cả các nước, vấn đề nông thôn vẫn còn là một trong những
vấn đề hết sức quan trọng và chắc chắn còn rất lâu, nó mới bị đặt ra ngoài sự
chú ý của con người, của khoa học” [111; tr.93].
Nước ta là một quốc gia đang phát triển, khoảng 80% dân số và trên
70% lao động đang sống ở nông thôn với hoạt động kinh tế chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp. M uốn đẩy mạnh công nghiệp hoá. hiện đại hoá đưa nước
nhà trở thành m ột quốc gia phát triển thì không thế xem nhẹ khu vực này.
Đường lối kinh tế của Đ ảng xác định rõ: "Tăng cường sự chí đạo và huv độna
các nguồn lực cẩn thiết để đáy nhanh công nghiệp hoá, hiện dại htìá nông
nghiệp vù nông thôn" [31; tr.92]. Thực trạng kinh tê - xã hội nôna thôn nước
ta những năm qua và xu hướng vận động của nó ra sao đang trở thành vấn đề
bức xúc với các nhà lãnh đạo, quán lý và khoa học. Nhiệm vụ của các nhà
khoa học là phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc và khách quan về nông thôn trona
7
quá khứ và hiện tại đê cung cấp những tri thức cán thiết làm cơ sớ cho việc
hoạch định các chính sách phát triển quốc gia.
Nước ta được chia thành 8 vùng: Đồng bãng sông Hồng, Đông Bắc, Tây
Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và
Đồng bằng sông cửu Long. Mỗi một vùng trẽn đều có vị trí. tầm quan trọng
riêng. Song ở một quốc gia mà nền kinh tế chứ yếu dựa trên nền tảng nghề
nông trồng lúa nước thì các châu thố giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Nước ta
có hai châu thố lớn là châu thố sông Hồng và châu thố sông Cửu Long. Mặc
dù diện tích chỉ bằng 1/3 châu thổ sông cửu Long; song trong lịch sử phát
triển, châu thổ sông Hồng đóng một vai trò to lớn. Đây là cái nôi sinh thành,
phát triển của dân tộc ta. Trong vùng có thủ đô Hà Nội là trưng tâm chính trị,
kinh tế, văn hoá, khoa học - công nghệ của nước nhà.
Sự nghiệp Đối Mới trong 15 nãm qua đã có ảnh hưởng to lớn đến đời
sống kinh tế - xã hội cả nước, tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ cho các
vùng miền. Trong sự vận động ấy, nông thôn châu thố sông Hồng có những
chuyên biến quan trọng. Nghiên cứu biến đổi kinh tế - xã hội ở một vùng quan
trọng như châu thố sông Hồng là việc làm hết sức cần thiết và mang ý nghĩa
khoa học, thực tiễn lớn lao. Chính việc nghiên cứu này sẽ góp phần thức đẩy
sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay.
Trên đại thê châu thố sông Hồng mang tính thống nhất; song “rất đa
dạng về mặt địa lý, về mặt lịch sử, về mặt hoạt động kinh tế, về cơ cấu xã hội,
về thành phần dân cư, về cơ cấu tộc người v.v ” [74; tr.280]. Nông thôn châu
thổ sông Hồng do hàng ngàn làng xã hợp lại mà thành. Trước cách mạng ờ
đây có 7.039 làng [35; tr. 101-102]; còn hiện nay (năm 2000) có 1.662 xã
[133; tr.631 ]. Từ đó nghiên cứu nông thôn châu thố sông Hồng nói riêng,
nông thôn cả nước nói chung thực chất là nghiên cứu các làng xã. Qua nghiên
cứu các làng xã cho phép chúng ta hiểu được lịch sử Việt Nam, nền văn hoá
8
truvền thống V iệt Nam [110: tr.557]. TTieo suv nghĩ đó. chúng tói đã chọn:
“Biến đối cơ cấu kinh tế - xã hội cùa một xã châu thố sông Hồng: xã Phụng
Thượng (Hà Tây) từ năm 1945 đến 1995" làm đề tài luận án.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ NHIỆM v ụ CỦA LUẬN ÁN.
Luận án tập trung nghiên cứu Pkụnq Thượng (Hà Tây) - một xã nằm ớ
vùng thượng châu thố sôn g H ồng, trên quốc lộ 32A , nối thủ đô Hà Nội với thị
xã Sơn Tây. Trước cách m ạng tháng Tám 1945, Phụng Thượng bình thường
như bao làng xã khác trong châu thố sông Hồng. Từ sau cách mạng đến nay,
làng xã này có những chuyển biến quan trọng về kinh tế - xã hội. Đặc biệt
trong thời kỳ hợp tác hoá, tập thế hoá Phụng Thượng là hợp tác xã nông
nghiệp tiên tiến của huyện Phức Thọ. D o có thành tích, Phụng Thượng được
Hội đồng Nhà nước phong tặng danh hiệu hợp tác xã nông nghiệp anh hùng
năm 1985. Bước sang thời kỳ Đ ổi Mới, Phụng Thượng tiếp tục đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận về kinh tế, văn hoá. xã hội.
Theo V .I. Lênin: “Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng” mà biếu hiện, ngược lại “cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến
cái chung” [45; tr.24 1 ]. Do đó, nghiên cứu Phụng Thượng sẽ cho ta thấy phần
nào những đóng góp của người nông dân vùng châu thố sông H ồng vào sự
nghiệp cách mạng chung; thấy được những chuyển biến của m ột làng nông
nghiệp tiếu nông ven sôn g H ồng, với cơ cấu kinh tê - xã hội truyền thông sang
một cơ cấu kinh tế - xã hội mới, của ch ế độ sở hCai tập thể. N ghiên cứu Phụng
Thượng còn cho ta thấy những biến đối về cơ cấu kinh tê - xã hội ở m ột làng
xã cụ thể của châu thố sô ns H ồng trong thời Đ ổi M ới.
Có nhiều vấn đề cần quan tâm khi tiếp cận đôi tượng, nhimg luận án
chủ yêu tập trung nghiên cứu những biến đối về cơ cấu kinh tế - xã hội. Sở dĩ
như vậy là vì, cơ cấu kinh tế - xã hội là cơ sớ tồn tại, phát triển của làng xã.
9
Nghiên cứu những biến đổi cúa nó cho phép chúng ta nhận thức được đặc
điểm, bán chất của làng xã nói riêng, của nông thôn nói chung trong quá trình
phát triển. Trọng tâm nghiên cứu của luận án là những biến dổi cơ cấu kinh tế
- xã hội ớ xã Pliụng ThittniỊị trong khoáng nửa thế ký (1945-1995). Tuy vậy.
đê làm sáng tó hon quá trình biên đối cơ cấu kinh tế - xã hội thì việc giới thiệu
khái quái những vấn đề Irưức và sau giứi hạn trên là cần thiết. Theo đỏ, bên
cạnh nhiệm vụ mô tả. phân tích các vấn đề kinh tế - xã hội từ năm 1945 đến
1995 ihì luận án còn đề cập đến cả Ihừi gian irưức cách mạng tháng Tám 1945
và sau 1995. Khi phân tích các vấn để của Phụng Thượng, luận án còn đề cập
đến một số địa phương khác (các xã của huvện Phúc Thọ và một số xã thuộc
châu thổ sông Hồng) nhằm làm rõ hơn những khía cạnh biến đổi chung, riêng
của đối tượng.
Đế triển khai các vấn đề nghiên cứu, cần xác định rõ khái niệm cơ cấu
kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế - xã hội là một khái niệm tống hợp, bao gồm
ba khái niệm hợp thành: cơ cấu, kinh tế va xã hội. Trong đó, cơ cấu là khái
niệm được dùng để chỉ một chính thể, bao gồm nhiều bộ phận hay yếu tố hợp
thành; các bộ phận, các yếu tố có mối liên hệ biện chứng, có sự tác động qua
lại, quy định, phụ thuộc lẫn nhau về cơ bản các khái niệm: kết cấu, cấu trúc
có nội hàm tương đương với khái niệm cơ cấu. Vì thế để tránh lặp đi lặp lại
nhiều lần khái niệm cơ cấu, có những chỗ trong luận án sử dụng hai khái niệm
kết cấu và cấu trúc thay cho cơ cấu. Trong khái niệm cơ cấu kinh tế - xã hội.
ba khái niệm trên được tổ hợp thành hai “khái niệm kép” là cơ cấu kinh rếvằ
cơ cấu xã hội [103; tr.3].
Theo cách hiểu chung, cơ cấu kinh tê là m ột phạm trù kinh tê tổng hợp
phản ánh mối liên hệ bản chất giữa các bộ phận, các phân hệ cấu ihành mộl
thực thể kinh tế nhất định. Cơ cấu kinh tê là tổng hoà các mối quan hệ hợp
thành nền kinh tế và được xem xét dưới nhiều góc độ: cơ cấu ngành, cơ cấu
10
lãnh thố. cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kv thuật. Trong đó quan trọng
nhất lù cơ cấu ngành kinh tế. Còn biến đổi cơ câu kinh tế là quá trình làm thay
đối cấu trúc và các mối quan hệ của hệ thông kinh tê theo một chú đích và
định hướng nhất định, nghĩa là đưa hệ thõng kinh tế đến các trạng thái phát
triển tối ưu. đạt được hiệu quá tổng hợp mong m uôn thông qua các tác động
điều khiển có ý thức, hướng đích của con người trên cơ sở nhận thức và vận
dụng đúng đắn các quv luật khách quan [117; tr.5-6].
Vận dụng lý luận trẽn, khi phân tích cơ cấu kinh tế, luận án chủ yếu tập
trung làm rõ những biến đối về cơ cấu ngành kinh tế. Tuy nhiên, trong từng
thời kỳ, một số khía cạnh khác cũng được xem xét nhằm làm sáng tỏ hơn quá
trình biến đổi của cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội có mối quan
hệ biện chứng với nhau; vì thế khi phân tích các vấn đề, luận án cố gắng chi ra
mối quan hệ giữa hai yếu tố này ở mức độ cho phép.
Cơ cấu xã hội là một thuật ngữ X ã hội học, thường được hiếu theo hai
nghĩa rộng và hẹp. T heo nghĩa rộng, cơ cấu xã hội bao gồm tất cả những cộng
đồng người hình thành m ột cách tự nhiên trong lịch sử (các dân tộc, tộc người,
các giai cấp, các tầng lớp xã hội, v.v ) và cả những cộng đồng người được tạo
lập một cách có ý thức (các chính đảng, đoàn thê và các tố chức xã hội khác).
Toàn bộ sự tác động lẫn nhau giữa các cộn g đồng trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội tạo thành các quan hệ xã hội. Theo nghĩa hẹp, cơ cấu xã hội chỉ
gồm những cộng đồng người được hình thành m ột cách tự nhiên trong lịch sử
và những tác độne qua lại lẫn nhau giữa các cộ n e đồng đó [145; tr. 10].
Trong cơ cấu chung thì cơ cấu giai cấp có vị trí quan trọng hàng đầu. Chính
cơ cấu giai cấp gắn liền trực tiếp với quan hệ sản xuất, quy định bản chất
những mối quan hệ xã hội, chính trị, đạo đức, pháp lí, v.v của m ỗi thành
viên xã hội [44; tr.612]. Trong luận án, chúng tôi sử dụng cơ cấu xã hội theo
nghĩa rộng. Song do-m ục tiêu và giới hạn ngh iên cứu đặt ra nên luận án chủ
vếu tập trung phân tích biến đổi về cơ cấu giai cấp: đồng thời có xem xét ớ
mức độ nhất định các khía cạnh khác của cơ cấu xã hội. Riêng trong thời kỳ
Đổi Mới. xét trên phương diện chính trị. cơ cấu giai cấp không (hay chưa)
biến đối; do đó thav vì phân tích cơ cấu giai cấp. luận án tập trung xem xét
vấn đề phân tầng xã hội và một số biến đối xã hội dưới tác động của cơ ch ế
kinh tế thị trường.
Theo các nhà xã hội học thì phân tầng xã hội là một hiện tượng mang
tính quy luật trong nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện trong điểu kiện có sự
phân công lao động xã hội và bất bình đẳng xã hội. Trong tiếp cận đối tượng
của mình, Xã hội học đã “vay mượn” thuật ngữ của Đ ịa chất học để chí trạng
thái xã hội được phân thành các tầng (lớp). Tuy chưa thật chuẩn xác nhưng
thuật ngữ này cũng m ô tả được trạng thái nhiều tầng của xã hội trong những
điều kiện không gian và thời gian nhất định [171; tr.217j.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN c ứ u VAN ĐỂ.
3.1. Từ đầu thế kv XX . làng xã và nôna thôn châu thố sông Hồna đã
được một số học giả Pháp và V iệt nam quan tâm nghiên cứu. René Dumont
chứ ý tìm hiểu hoạt động Trồng lúa ở (lồng bằng Bắc Kị’ (1935), còn nhà địa
lý nhân văn Pierre Goiirou thì giành nhiều công sức kháo círu đời sống cư dân
trong vùng. Ồng đã phân tích sâu sắc các khía cạnh kinh tế, xã hội của vùng
châu thố sông Hồng trong chuyên luận Les paysans du delta Tonkinnois
(người nông dân đồng bầHỊ> Bắc Bộ) công bố năm 1936. Bèn cạnh các nghiên
cứu của người Pháp, một số côn g trình của các học giá V iệt Nam đã đề cập
đến các khía cạnh lịch sử, văn hoá, xã hội của làng xã và nông thôn châu thổ
sông Hồng như: Vấn dề dân cày của Qua Ninh - Vân Đình (1937), Việt Nam
plìoniỊ tục của Phan Kẻ Bính (1945). v.v
Từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, số côns trình nghiên cứu về
làng xã, nông thôn châu thổ sông Hổng xuất hiện ngày càng nhiểu. Tiêu biểu
có thê kê đến: ƯẾconomie communaliste du Vieĩ Nam (Nên kinh tẻ lủng xã
Việt Nam) (Vũ Quốc Thúc, 1950), Xã thôn Việt Nam (Nguyễn Hổng Phong,
1959), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (Viện Sử học, 2 tập, 1977-1978),
C hế độ ruộng đất ở Việt Nam (Trương Hữu Quýnh, 2 tập, 1982-1983), Cơ cấu
tổ chức của làng Việt cổ truyền (Trần Từ, 1984), Lệ lùng phép nước (Bùi Xuân
Đính, 1985), Sự hình thành làng xã Việt Nam (Yumio Sakurai, Tôkyô, 1986),
Lùng Nguyễn - tìm hiểu lùng Việt II (Diệp Đình Hoa chủ biên, 1990), Vãn hoú
và cư dân đồng bằng sông Hồng (Vũ Tự Lập chủ biên, 1991), Vê một s ố lùng
buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XVIII-XIX (Nguyễn Quang Ngọc, 1993), Ninh
Hỉệp truyền thông vù phút triển (Tô Duy Hợp chủ biên, 1995), M ột lùng Việt
cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ (Nguyễn Hải Kế, 1996), Hệ thống tìôtìg nghiệp
Liũi vực sông Hồng (Đào Thế Tuấn - Pascal Bergeret, 1998), Là/Ig Việt Nam,
một sô vấn đề kinh tế - vân hoá - xã hội (Phan Đại Doãn, 2001), v.v
Đặc biệt vào thập niên 1990, đề tài làng xã và nông thôn châu thổ sông
Hổng còn thu hút sự tham gia của một số học giả và nghiên cứu sinh người
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Bỉ, Australia, Cộng hoà Liên bang Đức Trong đó
có một vài công trình đcĩ được công bố: Lùng Yên sà tử truyền thống đến hiện
đại vù so súnh với những biến đổi nông thôn Hùn Quốc (Jeong Nam Song,
1996), Vietnamese Vilỉages itì transition (Làng xã Việt nam trong biến đổi,
Bemhardahm-Houben, Đại học Passau, 1999), Sociologie cTune commune
Vietnamienne (A27 hội học một làng Việt Nam, F. Houtart, L.Geneviève,
Louvin la Neuve, Belgique, 1981). Có hai chương trinh rất đáng lưu ý của tập
thể các nhà khoa học Nhật Bản phối hợp với các nhà khoa học Việt Nam
(Trung tâm Việt Nam học, thuộc Đại học quốc gia Hà Nội) tiến hành nghiên
13
cứu sâu về làng Bách Cốc (Hà Nam) và Viện Viễn Đông bác cố Pháp phôi
hợp với Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân vãn quốc gia nghiên cứu không
gian nông nghiệp vùng châu thố sông Hồng. Hai chương trình này được triển
khai trong những năm 1990, nhưng đến nav kết quả nghiên cứu còn đang
trong giai đoạn hoàn tất.
3.2. Trước cách mạng tháng Tám 1945, tuy không nối trội như một sô
làng xã khác trong vùng châu thổ sông Hồng; nhưng Phụng Thượng đã được
một số bộ sử phong kiến nhắc đến là: Đại Việt sử kỷ toàn thư, Việt sử thông
giám cương mục, Đụi Việt Thông sử và Đụi Nam nhất thông chí. Ba cuốn đầu
chép về trận chiên giữa quân đội Trịnh và Mạc trên đất xã Phấn Thượng (tên
cũ của Phụng Thượng) năm 1591. Còn trong Đại Nam nhất thống chí có đôi
chỗ chép về đền cổ và chợ Tảo Thượng. Phạm Xuân Đ ộ - Đ ốc học Sơn Tây
thời Pháp thuộc - xuất bản cuốn Sơn Táy tỉnh dịu chí (1941). Trong sách có
một số đoạn đề cập đến phong tục tập quán, di tích lịch sử, văn hoá và chợ
Bún Thượng theo kiểu mô tả địa chí.
Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, Phụng Thượng có những thành tích
nổi bật nên được nhiều người quan tâm tìm hiểu. Vào thời điểm hợp tác xã
Phụng Thượng được Hội đồng Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng, một
loạt bài báo đã tập trung đề cập đến các vân đề kinh tế, văn hoá, xã hội
nhằm biểu dương thành tích của Phụng Thượng. Những bài này sau đó được
tập hợp in thành sách với nhan đề Hí/]) túc xã Phụiìí’ Thượiìí> - dơn vị anh
hùng (1986). Trong nhữne năm Đ ổi M ói, Phụng Thượng được cán bộ, nhàn
dân địa phương và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu sâu hơn. Đảng uỷ
xã đã tố chức biên soạn bộ Lịch sứ ĐiỉniỊ bộ và nhân dân xã PhụitiỊ Thưựiìo
(tập I, 1930-1954) và Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhàn dân xã PlụuiíỊ
Thượng (tập II, 1954-200 0). N ội dung m ô tả lịch sử đấu tranh giành chính
quyển, kháng chiến chống Pháp và xây đựng phát triển kinh tế, vãn hoá, xã
14
hội của địa phương từ năm 1930 đến năm 2000. Bẽn cạnh đó xuất hiện mấy
công trình nghiên cứu có nội dung liên quan đến Phụng Thượng là: Quá trình
ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp ỏ huyện Phúc Thọ, Hủ
Tây (1954-1995) (Luận án PTS Lịch sử của Vũ Thị Hoà, 1996); Vãn hoú lùng
xã huyện Phúc Thọ (Nguyễn Vãn Trường chủ biên, 1997) và Biến đối cơ cấu
ruộng đất vù kinh tế nông nghiệp ở châu thổ sông Hồng trong thời kỳ Đổi Mới
(qua khảo sát một số làng xã) của Nguyễn Văn Khánh (2001), v.v
Các công trình nghiên cứu, luận văn, bài viết trên đây đã làm sáng tỏ
được nhiều vấn đề về làng xã và nông thôn châu thổ sông Hồng, có giá trị
tham khảo tốt. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một chuyên luận nào đi sâu
nghiên cứu quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội ở một làng xã cụ thể
thuộc châu thổ sông Hồng từ 1945 đến 1995. Từ thực tế đó, luận án này tập
trung tìm hiểu một cách hệ thống những biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của
xã Phụng Thượng trong khoảng nửa thế kỷ qua.
4. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIẺN cứ u .
4.1. CÁC NGUỒN TÀI LIỆU.
4.1.1. Luận án khai thác, sử dụng nhiều nguồn tài liệu. Tựu trung lại
gồm ba nguồn sau đây: 1- Cúc thư tịch, bia kỷ, sổ sách, báo cáo, vùn hàỉi,
hưng biểu thống kẽ của xã, huyện, tỉnh và Trung ương; 2- Các tài liệu điều
tra thực địa (điền dă, điều tra xã hội học); 3- Các công trình nghiên CỈÚI đủ
công b ố của các tác già đi trước có liên quan đến Phụng Thượng và châu thổ
sông Hồng. Trong ba nguồn tài liệu trên thì nguồn 1 và 2 đóns vai trò quan
trọng trong luận án.
4.1.2. Do chiến tranh, thời tiết khí hậu và do ý thức lưu trữ, bảo quản
kém mà nhiều tài liệu ở địa phương đã mất mát hoặc còn thì rách nát, nhoè mờ
rất khó đọc, thậm chí khồng đọc được. Trong một số tài liệu còn có tình trạng
sự kiện, số liệu không khớp nhau. Đó là những khó khán khi thực hiện đề tài.
Trong tình hình như vậy, chúng tôi đã cố gắng khai thác, thư thập tài liệu từ
nhiều nguồn; rồi tiến hành đối chiếu, phân tích kỹ đế có được những số liệu,
sự kiện đáng tin cậy sử dụng cho luận án.
4.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u .
4.2.1. Cơ SỞ phương pháp luận của luận án là chú nghĩa Mác - Lênin:
trong đó học thuyết hình thúi kinh tế- xã hội, học thuyết giai cấp vù đấu tranh
giai cấp đóng vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, luận án còn vận dụng một số luận
điểm trong lý luận của các nhà xã hội học khác như: Mar W erber. Parsons
để lí giải m ột số vấn đề biến đối xã hội, phân tầng xã hội ở Phụng Thượng và
nòng thôn châu thố sông Hồng hiện nay.
4.2.2. Xuất phát từ đối tượng và vấn đề nghiên cứu đặt ra, luận án đã áp
dụng quan điếm tiếp cận đa ngành, liên ngành. Cụ thế là kết hợp giữa các
phương pháp: sử học - kinh tê học - xã hội học - văn hoá học, phân tích hệ
thống - cấu trúc (hệ thống - cấu trúc kinh tế, hệ thống - cấu trúc xã hội), điền
dã dân tộc học, điều tra xã hội học, xử lý tài liệu, v.v để nghiên cứu.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN.
5.1. Dựa vào nguồn tài liệu phong phú. luận án đã đựng lại bức tranh
kinh tế - xã hội của Phụng Thirợna tương đôi đầv đủ, hệ thôna; đ ổ n s thời phân
tích và chỉ ra những biến đối chủ yêu về cơ cấu kinh tế - xã hội của làng xã
này qua các chặng đường lịch sử từ 1945 đến 1995.
5.2. Vận dụng quan điếm tiếp cận liên ngành, đa ngành, từ khảo sát sâu
một làng xã cụ thể (có đối sánh với một số làng xã khác), bước đầu luận án
nêu lèn m ột số nhận xét về đặc điểm biến đ ổi, kinh nghiệm thực tiễn và
khuyến nghị phương hướns phát triển kinh tế - xã hội đối với Phụna Thượns
16
và vùne nône thôn châu thố sông Hồng trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
6. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CHÍNH.
Toàn bộ luận án là 245 trang, bao gồm phần chính vãn và phụ lục.
Trong phán chính vãn, luận án được chia thành 5 chương và danh mục tài liệu
tham khảo. Nội dung chính của các chương là:
Chương 1 (Vùi nét khái quát vé xã Phụng Thượng trước cách mạng
thúng Túm 1945) giới thiệu khái quát điều kiện tự nhiên, sự hình thành phát
triển làng xã và kinh tê - xã hội truyền thống của Phụng Thượng. Chương 2
(Tình hình kinh tế - xã hội Pliụng Thượng từ cách mạnq thúng Túm 1945 đến
1959) trình bày những biến đối kinh tế - xã hội Phụng Thượng dưới tác động
của chiến tranh và cải cách ruộng đất. Chương 3 (Cơ cứu kinh tế - xã hội của
Phụng Thương trong giai (loạn tập tliê htìá (1959 - 1981)) tập trung phân tích
những biến đối cơ cấu kinh tế - xã hội dưới tác động của cơ ch ế hành chính,
quan liêu, bao cấp và của chiến tranh. Chương 4 (Biến dổi cơ cấu kinh tê'- xã
hội của Phụng Thượng trong những năm 1988 - 1995) phân tích biến đổi cơ
cấu kinh tê - xã hội Phụng Thượng dưới tác động của những chủ trương, chính
sách Đối Mới tạo ra. Chương 5 (Phụng ThượiiíỊ trong bối cảnh kinh tế - xã hội
vùng châu thổ sông Hổng (1945 - 1995)) đặt Phụng Thươníỉ trong bối cảnh
chung của vùng châu thố sông Hồng đế phân tích nhằm rút ra cái chung, cái
riêng trong quá trình biến đối kinh tế - xã hội và nêu lên m ột số khuyến nghị
phát triển cho vùng và Phụng Thượng.
17
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VE XẢ PHỤNG THƯỢNG
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
Chương Ị
1.1. ĐIỂU KIỆN Tự NHIÊN VÀ sự PHÁT TRIEN l à n g x ã.
1.1.1. ĐIỂU KIỆN Tự NHIÊN.
Phụng Thượng là một trong 23 xã, thị trấn thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh
Hà Tây. Xã nằm về phía Đông Nam huyện lỵ, trên quốc lộ 32A (trước là
11A), cách Hà Nội 30 km về phía Tây và cách thị xã Sơn Tây 10 km về phía
Đông. Phía Bắc Phụng Thượng giáp xã Long Xuyên; phía Đông giáp xã Ngọc
Tảo; phía Tây giáp xã Đại Đồng (các xã của Phúc Thọ) và phía Nam giáp hai
xã: Hương Ngải, Phú Kim (của huyện Thạch Thất, Hà Tây).
Từ lập làng đến trước cách mạng tháng Tám 1945, Phụng Thượng thuộc
về nhiều đơn vị hành chính. Dưới thời Hồng Đức (1460-1469), làng có tên
Phấn Thượng, thuộc Phúc Lộc, Phủ Quốc Oai. Sau đó vào năm cảnh Hưng
thứ 3 (1742) vẫn thuộc Phúc Lộc, nhưng là Phu Quảng Oai. Dưới thời Tây
Sơn, Phấn Thượng đổi thành Tảo Thượng và thuộc Phú Lộc. Đến thời Gia
Long (1802), Phú Lộc đổi lại thành Phúc Lộc, Tảo Thượng thuộc Phúc Lộc.
Vào năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), Phúc Lộc đổi thành Phúc Thọ, Táo
Thượng thuộc huyện Phúc Thọ, phủ Quảng Oai. Đến năm Minh Mệnh thứ 5
(1824), xã Táo Thượng đổi thành Phung Thượng và tên này được giữ nguyên
từ đó đến nay. Thời Thành Thái (1889-1907), tổng Tảo Thượng đổi thành tổng
Phụng Thượng, Phụng Thượna thuộc tổng Phụng Thượnơ, huyện Phúc Thọ,
tính Son Tây
M - ụ / 3 1 0
18
Trong quá trình lịch sử. Phụng Thượng mang nhiều tên gọi khác nhau:
Phấn Thượng, Tảo Thượng, Cảo Thượng. Phụng Thượng, Bún Thượng, Kẻ
Bún, Làng Bún. Trong đó Phấn Thượng. T ảo Thượng, cá o Thượng và Phụng
Thượng là những tên chữ, làng Bún. Kẻ Bún là tên nôm: còn Bún Thượng là
cái tên nửa nỏm, nứa chữ. Việc xác định nguồn gốc và ý nghĩa các tên gọi
trên đây sẽ góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu.
Tiếc rằng, do thiếu tài liệu nên hiện nay một số tên gọi vẫn chưa giải thích
được ý nghĩa cũng như xác định rõ niên đại ra đời.
Phấn Thượng là tên gọi đầu tiên của làng. Tên này tồn tại khá láu dưới
thời Lé, sau được đổi thành Tảo Thượng. Cảo Thượng là cái tên chép trong
Đại Nam nhất thống clú [126; tr.231-239]. Sách Nghiên cím chữ huỷ Việt
Nam qua các triều đụi cho biết, chữ cả o là một trong các tên huý của vua Gia
Long [135; tr. 125]. Theo nguvên tắc thì chữ này không được dùng đê đặt tên
người và địa danh; nhưng không hiểu vì sao chữ Cảo vẫn được dùng để chép
tên các làng trong tổng Cảo Thượng [137; tr.42] thời Gia Long (?).
Có những giải thích khác nhau về tên gọi Phụng Thiạmg. Cụ Dương
Thê Cẩn (thôn Tây) giải thích: Phụng lù tôn kính, Thượng lù ngư(ri trên.
Phụng Thượng Iiẹliĩa lù rón kính lìíỊười trên. Những tên gọi khác như: Kẻ Bún,
Làng Bún, Bím Thượng hiện cũng còn những ý kiến rất khác nhaư. Cụ cấ n
cho rằng: xưa có nhiều đường ra vào làng, hình thái trông g iố n s như một
“khuôn bún”, nên gọi là làng Bún. Còn ông Cấn Văn Nở (thôn Tây) giải thích:
xưa kia Phụng Thượng không có nghề làm bún: nhim s do các làng khác trong
vùng mang bún đến bán ở chợ làng, gọi là chợ Bún, sau thành tên làng. Trong
sách Sơn Tây tỉnh (lịa chí, Phạm Xuân Độ giải thích không rõ ràng về tên gọi
này: “Cũng vì làng Phụng Thượng xua kia gọi là Phấn Thượng, nên ngày nay
mới có tên tục là lùng Bún" [33; tr. 169].
19
Theo ý chúng tôi, có thê tên Bún Thượng bắt nguồn từ Phấn Thượng.
Trong tiếng Hán, phấn là vật được nghiền ra rất nhó [1; tr. 108]. Nếu mớ rộng
ngữ nghĩa, có thể hiểu phấn là bụi, bột: rồi được đọc chệch theo âm Nôm
thành bún. Trường hợp này gần giống chữ Bùng và Phùng (tên làng Phùng Xá,
Thạch Thất, Hà Tây), có cùng nguồn gốc mà GS Trán Quốc Vượng đã từng
giải thích [168; tr.97]. Tương tự, các tên Làng Bún, Kẻ Bún cũng có nguồn
gốc chung như vậy!
Trong sự tích dựng chùa họ Đỗ cho ta biết về cảnh quan, môi trường
sinh thái xưa của Phụng Thượng. Cụ tổ họ này có người con trai bị chết đuối
nên lập chùa (1425) làm nơi thờ cúng. Chùa dựng nơi đất cao sau làng, nơi ấy
là rừng có nhiều giang, nứa nên được coi là chùa Giang, chùa Nứa. Như vậy
trước thế kỷ XIII, Phụng Thượng còn là vùng hoang hoá thuộc miền đất cố xứ
Đoài - một trong “tứ trấn” của nước ta. Trong bản đồ cảnh quan châu thố sông
Hồng tỷ lệ 1/100.000, Phụng Thượng thưộc vùng chuyển tiếp giữa đồng bằng
và trung du Bắc Bộ. Đất “thuộc vùng đồng bàng tích tụ phù sa cũ - m ới, cao,
xen đồi sót chạy từ Phúc Thọ đến Thạch Thất” [168; tr.95]. Thê đất nhấp nhô
chạy từ chỗ cao xuống chỗ thấp là cánh đồng lòng chảo, Phụng Thượng là nơi
thấp nhất. Trong xã có những con dộc quanh co uốn khúc, dấu vết chuyển
biến của lòng sông xưa mà nay còn lưu lại trong những cái tên như dộc Láng,
dộc Tế, dộc Đân, v.v
Phụng Thượng mang đặc điểm khí hậu của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong lịch sử, sông Hồng, sông Đà và sòng Tích đã bồi đắp phù sa cho đất đai
Phụng Thượng và các làng xã khác trong vùng, tạo nên sự màu mỡ tốt tươi.
Song cũng chính các sông này (nhất là sông Hồng) về mùa mưa bão nước
thường lên to, gây nên cảnh lụt lội, vỡ đê. Chỉ tính 2 lần vỡ đê sông Hồng vào
nãm 1913 và năm 1945 đã gây bao thảm hoạ cho nhân dân các làng xã trong
vùng [2; tr.311].
20
1.1.2. Sự HÌNH THÀNH, PHÁT TRIẺN' LẢNG XẢ.
Những cư dân đầu tiên đến Phụng Thượng khai phá. lập làng là một số
gia đình họ Hà, Nhữ, Doãn. Cù, Đàm thuộc miền bán sơn địa (Thạch Thất).
Trong quá trình lịch sử, người từ nhiều nơi đến đây chung lưng đấu cật khai
phá đất hoang, dựng xâv phát triển thành Phụng Thượng ngày nay.
Lịch sử phát triển nông thôn nước ta xuất hiện hai kiêu hình thành làng.
Trong buổi ban đầu lập làng, một số làng xã hình thành theo kiểu “làng - họ"
như Nguyễn Xá, Đào Xá, Đặng Xá (Thái Bình) Nhưng phố biến hơn cả là
các làng xã hình thành theo kiểu "một làng nhiều họ” như Phụng Thượng,
Ninh Hiệp (Hà Nội), v.v
Cần cứ vào phủ họ Dương và tài liệu điểu tra thực địa, có thể đoán định
làng Phụng Thượng xuất hiện vào khoáng thế kỷ XII-XIII, cách ngày nay 700-
800 năm. Trong phả họ Dương, có đoạn chép ông tố họ này có mặt ở Phấn
Thượng vào năm 1293. Bấv giờ, ở đây đã có một số họ khác sinh sống. Những
cư dân đầu tiên đến đây lập làng cư trú ở xóm Ngõ Lẻ, xóm Giữa, xóm Tân
(thôn Đông); xóm Chùa, xóm Giai, xóm Đoài Thượng, xóm Đoài Trung, xóm
Khôn Thượng, xóm Xuân Đài (thôn Tây). Do sự gia tăng dân số, vào các thê
kỵ XVII-XVIII, một sô gia đình họ: Vũ, Hoàng, Nguyễn, Khuất đã tách ra,
sang lập điểm tụ cư mới trên mảnh đất có tên gọi trại Doanh Bằng1; sau phát
triển thành thôn Nam.
Phụng Thượng còn có một bộ phận công châu thố ở gần sông Hồng -
bãi T ế Giáp. Đ ể khai thác số ruộng đất này. làng cắt m ột số gia đinh đến đâv
lập trại, dần dần phát triển thành m ột thôn. Cuối năm 1954, thôn T ế giáp được
cắt chuyển cho xã Thanh Đa (Phúc Thọ). Từ đó Phụng Thượng chi còn lại ba
thôn như ngày nay. Xưa kia, “nhà ở của dân có nhiều khu đồng ruộng rộng
1 - Doanh Bằng, Dinh Bàng là tên gọi cũ của thòn Nam. Quán đội nhà Mạc dã đóng ờ đây và đày là
nơi xẩy ra trận kịch chiến giữa quàn đội Trịnh - Mạc vào năm 1591 [172; tr. 168-170].
lớn. đất tiếp giáp với nhiều nơi. kẻ gian dễ bề xâm lấn nên mọi người hội họp.
chọn 60 tráng phu trong xã ngày đêm tuần phòng, bảo vệ làng xóm ruộng
đồng” [142].
Làng xã là một từ ghép. Làng là cộng đồng tụ cư dân sự, xã là đơn vị
chín h quvền cấp cơ sở. Thông kê theo sách Tên làng xã Việt Nam đáu thê kỷ
XIX(thuộc cúc tỉnh từ Nghệ Tĩnli trở ra) thì có 70% số lượng làng xã trẽn tổng
số là 6.394 đơn vị, làng và xã là một. Bới vậy nên người ta thường nói chưng
là làng xã. Làng xã được các nhà sử học phân thành hai loại: lùng vù xã lù một
(gọi là “Nhất xã, nhất thôn”) và lùng không đồng nhất với xã (gọi là "Nhất xã,
nhị tam thôn”); trong đó loại thứ nhất tồn tại khá phố biến. Phụng Thượng
thuộc loại kết cấu phổ biến này.
1.2. TÌNH HÌNH KINH TÊ' - XÃ HỘI TRƯỚC CÁCH MẠNG 8/1945.
1.2.1. VỀ KINH TỂ.
1.2.1.1. Nông nghiệp truyền thống bao gồm trồng trọt và chãn nuôi;
trong đó trồng trọt giữ vai trò chủ đạo. Đôi với sản xuất nông nghiệp, đất đai
là tư liệu sản xuất quan trọng bậc nhất. Chế độ sở hữu ruộng đất phản ánh cơ
cấu kinh tế - xã hội và sán sinh ra cơ câu kinh tế - xã hội; ngược lại cơ cấu
kinh tế - xã hội là cơ sở đế tái lập, tái sinh chế độ ruộng đất.
Từ lập làng đến nửa đầu thế ký XIII, hoạt động kinh tè chú yêu của cư
dân Phụng Thượng là gieo trồng lúa nước, kết hợp với nuôi gia cầm, gia súc
đồng thời khai thác tự nhiên (hái lượm, đánh bắt cua, tòm, cá ốc ). Trong nén
nông nghiệp lúa nước thì nước đóng vai trò hết sức quan trọng (“Nhát nước,
nhì phán, tam cần, tứ giống”), là khâu cốt yếu bảo đám cho mùa vụ có năng
suất cao. Vì thế mà các triều đại phong kiến Việt Nam từ rất sớm đã quan tàm
đến đắp đê, trị thuỷ và làm thný lợi phục vụ sản xuất nòns nghiệp. Từ giữa thế
kỷ XIII, nhà nước phong kiến đẩy mạnh việc đắp đê, hệ thống “đè quai vạc”
trong châu thố sông Hồng dần dần hình thành. Hệ thông nóng nghiệp2 Phụng
Thượng và các làng xã trong vùng có biến đối quan trọng. Ruộng đất canh tác
tăng lên do việc đẩv mạnh khai khẩn đất hoang và chế ngự được nước lũ. Dán
số phát triển, làng xóm được cúng cố và mớ rộng.
Theo chính sử. vào nãm 1591 trên đất Phấn Thượng xẩy ra trận kịch
chiến giữa quán đội Nhà Trịnh và Nhà Mạc. Quán Trịnh giành thắng lợi
nhưng binh sĩ hai bên chết trận rất nhiều. Sau chiến tháng, vua Lê-chúa Trịnh
cho xây đền c ổ Tảo Thượng làm nơi cúng tế binh sỹ trận vong. Hàng năm vua
Lê, chúa Trịnh thường ngự giá về đây kỷ công chiến thắng. Sự kiện trên cho
thấy, vào thế kỷ XVI, Phụng Thượng là một trung tâm kinh tế - xã hội trong
vùng và nằm trên trục giao thông từ Đông Đỏ lên vùng Xứ Đoài xưa.
Vào các thế kỷ XVI-XVIII, kinh tế hàng hoá nước ta khá phát triển.
Phụng Thượng là một điểm khôns xa đồ thị, lại khá thuận lợi về giao thông
nên nhận được tác động từ các trung tâm (Đông Đô, Sơn Tây và các làng nghề
trong vùng), tạo nên những biến đổi quan trọng. Sớ hữu đất đai ngàv càng đa
dạng, bao gồm các loại công tư điền thổ; nhưng đóng vai trò quan trọng nhất
là công điền. Thời kỳ này cư dân Phụng Thượng kiến tạo nên một hệ thống ao
hồ đáng kê. Đối với cư dân trồng lúa nước, ao hồ không chí giúp họ giải quyết
vấn đề tưới tiêu nước cho đồng ruộng, mà còn giúp họ điều hoà sinh thái trong
mùa nắng, cung cấp thèm thực phẩm cho người và gia súc.
Do không còn (hay không có) địa bạ. nên rất khó mô tá và phàn tích
một cách đầy đủ, cụ thê và sâu sắc về tình hình sở hĩai ruộng đất của xã
Phụng Thượng trong thế ký XIX-XX. Cân cứ vào những thông tin rút ra từ
Tục lệ, Hương ước và tài liệu điều tra thực địa, chúng tôi xin phác hoạ vài nét
2 - Theo M. Ma/oycr:
ỉ ỉ è
thông nòìỉg HiỊỈiiệp là phinrni: thức khai thác mòi trường tự nhièn, được
hình thành và phát trièn tron*: lịch sử, một hộ thốni: sàn xuất thích ứnu với diều kiện sinh thái, khí
hậu troniĩ một khồrm <4Ìan nhài định, đáp ứnìi nhừníí điều kiện và nhu cầu xã hội tại một thời điếm
nhất định. Họ thống nỏn<4 nghiệp hao gổm một hệ sinh thải nônỉ> nạhiệp và một hệ thô'n<> MĨ hội: hệ
thốnu nỏníi niihiẹp luỏn luôn biòYi đổi tronụ khỏniz ui an và thời íiian 1139; tr.l |.
">2
23
về tình hình ruộng đất ờ đây trước cách mạng thán2 Tám 1945. Vào những
năm 1930, xã Phụng Thượng có tổng diện tích đất tự nhiên là 1.483 mẫu
(532,8 ha), gồm 1.220 mẫu (440,4 ha) canh tác (tính cả công châu thố và đất
xâm canh) chiếm 82,26%, còn lại là các loại đất khác. Trong số đất canh tác
thì tư điền là 1.020 mẫu (368,2 ha, chiếm 83,60%), công điền là 200 mẫu (72
ha, chiếm 16,40%). Cụ thể Phụng Thượng có 20 mẫu (7,2 ha) công châu thổ
(bãi Giáp Tế); 52 mẫu (18,7 ha) đất tha ma; 200 mẫu (72 ha) thổ cư; 11 mẫu
(4 ha) ao chuôm và 300 mẫu (108 ha) xâm canh (ở các xã Bách Kim, Nội
Thôn, Giáo Hạ); còn đất canh tác khoảng 900 mẫu (324 ha) (Biểu 1).
Biểu 1: Cơ cấu ruộng đất ở Phụng Thượng trước 1945
Tên loại đất
Mẫu Quy ha Tỷ lệ %
1. Canh tác
900
324,0 60,7
2. Công châu thổ
20
7,2
1,3
3. Nghĩa địa 52 18,7
3,5
4. Thổ cư
200
72,0 13,5
5. Ao chuôm
11
4,0 0,8
6. Xâm canh
300
108,0 20,2
Tổng sô
1483
532,8
100
Nguồn: [16], [43]
Từ thế kỷ XVI trớ đi, ruộng công nước ta ngày càng bị thu hẹp, còn
ruộng đất tư thì có xu hướng tăng lên. Tuy vậy vào đầu thế kỷ XX xẩy ra hiện
tượng “công điền hoá” trở lại đối với tư điển. “Nếu so sánh với thời kỳ đầu thế
kỷ XIX thì sau một thế kỷ, tỷ lệ công điển khôns những không giảm, trái lại
đã tăng lên từ 17% thành 19% ở Bắc kỳ ” [103; tr.85-86].
Đến đầu thế kỷ XX, công điền của làng Phụng Thượng còn lại rất ít,
vào khoảng 91 mẫu (32,4 ha; 7,5%). Song nếu tính cả ruộng công của họ,
xóm ngõ, giáp, quan điền, v.v thì công điền chiếm khoảng 16%. So với một
số địa phương khác trong châu thổ sông Hồng, ruộng đất công ở đây chiếm tỷ
lệ thấp hơn nhiều. Chảng hạn
ờ Đa Ngưu (Hưns Yên) đầu thế kỷ XX, số
24
ruộng đất cồng chiếm tới 50% diện tích canh tác; ờ Đan Loan (Hải Dương)
con số này là 42,8% và ở Mộ Trạch (Hải Dương) là 33,5% [102; tr. 123-124].
Tư điền chiếm ưu thế áp đảo chứng tỏ Phụng Thượng khỏng phải là vùng đất
mới khai phá; nằm xa sông, biển, dân cư mang tính ổn định cao. Đồng thời tỷ
lệ ruộng đất tư cao còn cho thấy sự phân hoá và tư hữu hoá ruộng đất ờ đây
trước cách mạng diễn ra khá mạnh mẽ. Công điền của làng giao cho một số
đối tượng canh tác để thu hoa lợi (tiền hoặc thóc) và được chi dùng vào các
việc công mà chủ yếu là để cúng tế (Biểu 2).
Biếu 2: Tình hình ruộng âất công à Phụng Thượng trước 1945
Các loại
Diện tích
(m.s.th)
Người sử dụng
Thu hoa lợi
và sử dụng
Công điền
3.1.0 2 thủ từ
cúng tế của làng.
Cồng điển 3.7.0
các giáp luân phiên thờ cúng.
Công điển
1.6.0
không rõ xuân tế văn chỉ
Cổng điền
3.7.0
nhà sư
cúng phật
Công điển
1. 1.0
nhà sư
thờ ngày 6/2
Công điển
2.10
thợ kèn
không nói rõ
Cồng điển
2.0 thợ ngoã
sửa chữa các sở công
Hậu điền 3.7
không nói rõ
cúng lễ
Công điền
9.0
tích nhân
thay cấp khẩu lương
Công điền
27.0.0
đinh các họ
xung công quỹ
Công châu thổ
3.0.0
1 chia, 2 bán trương
lấy tiền xung quỹ
Công chàu thổ
45.0.0 giao xóm Tế Giáp
chi tiêu thờ cúng
Ao công
4 thửa thả cá, bán trương
thờ cúng, tiền xung quỹ
Công Bến Luỹ
không nói rõ
đổi ruộng
khòng nói rõ
Nguồn: [43]
Như vậy đến trước cách mạng tháng Tám, công điền ở Phụng Thượng
không còn giữ vai trò quan trọng như trước nữa. Tư điền chiếm tỷ lệ áp đảo
nhưng chủ yếu do địa chủ và phú nông sở hữu (400 mẫu - 144,4 ha, chiếm
32,57% đất canh tác). Còn nông dân sở hữu 820 mẫu (296 ha; 67,43%). Bình
25
quân ruộng đất trên nhân khẩu là 1.245 rrr (3 sào), ít hơn so với Mộ Trạch
(4,1 sào) [102; tr.123]. Với mức bình quân 3 sào/khẩu, ruộng đất chưa đến nỗi
khan hiếm, nên chưa trở thành yếu tố gây trớ ngại, khó khãn cho hệ thống
nông nghiệp Phụng Thượng giai đoạn này.
Phụng Thượng có 3 loại ruộng đất: vàn, vùn thấp và vàn cao. Vàn là đất
trung bình, vàn thấp là đất trũng, còn vàn cao là nơi đất cao hơn mức bình
thường. Số ruộng đất thuộc loại vùn cao và vàn thấp chiếm tới 70% diện tích
canh tác. Xưa kia, hàng năm đất đai được các sông bồi đắp phù sa. Từ khi có
“đê quai vạc” và sự khai thác hàng trám năm nay của con người đã làm cho
ruộng đất ngày càng bạc màu. Địa hình không bằng phẳng, đất đai ngày càng
bạc màu và một bộ phận đáng kể ruộng đất nằm trong tay địa chủ, phú nông
đã gây khó khăn cho sự phát triển nông nghiệp Phụng Thượng.
Từ khi hình thành làng đến trước cách mạng tháng Tám, lúa nước là
cây trồng cliú yếu ở Phụng Thượng. Đến những năm 20 của thế kỷ XX, người
nông dân nơi đây và các làng xã khác vùng Sơn Tây chỉ gieo cấy được một
năm một vụ lúa mùa. Trong điều kiện lao động thủ công, hệ thống thuỷ lợi
chưa phát triển và hầu như không có sự hỗ trợ của khoa học - kỹ thuật nên
năng suất, sản lượng lúa và cây trồng đạt rất thấp. Năng suất lúa bình quân đạt
14-15 tạ/ha.
Vào đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa Bắc kỳ cho xây dựng hệ
thống thuỷ nông Phù Sa, Đập Đáy, lập Sở canh nông, Nôrrn quỹ ngân hàng
[33; tr.86-90] trợ giúp nông dân phát triển sản xuất thì tình hình nông nghiệp
có được cải thiện hơn. Từ đây xuất hiện hệ sinh thái hai vụ lúa trong một năm.
Tuy vậy, do đồng đất chưa được cải tạo nên nhân dân địa phương chí gieo cấy
được thêm khoáng 30% diện tích canh tác vụ lúa chiêm. Cơ cấu cây trồng còn
đơn điệu và hầu như không có sự đổi m ới. Trong vụ mùa các loại lúa Gié hin.