Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội việt nam thời kỳ cận- hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.27 KB, 39 trang )

đại học quốc gia hà nội
Trờng đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa lịch sử
đề tài: Giai cấp t sản mại bản Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975
Chuyên đề:
Biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội Việt Nam
thời kỳ cận- hiện đại
Ngời hớng dẫn:
HN, tháng 11/2005
Mục lục
I. Mở đầu
II. Nội dung
2.1. Sự hình thành giai cấp t sản Việt Nam
2.1.1. Mầm mống chủ nghĩa t bản trong lòng xã hội Việt Nam trớc khi
thực dân Pháp xâm lợc
2.1.2. Sự hình thành giai cấp t sản Việt Nam
2.2. Khái quát về giai cấp t sản Việt Nam thời Pháp thuộc.
2.2.1. Có hay không có giai cấp t sản mại bản ở Việt Nam
2.2.2. Sự phát triển của giai cấp t sản Việt Nam
2.2.3. Đặc điểm giai cấp t sản mại bản Việt Nam
2.2.4 Thái độ của t sản mại bản đối với phong trào giải phóng dân tộc
của nhân dân ta.
2.3. Giai cấp t sản mại bản dới chế độ thực dân mới của Mỹ
2.3.1. Tình hình mới- những thay đổi mới
2.3.2. Những đặc điểm cơ bản của giai cấp t sản mại bản miền Nam
dới chế độ thực dân mới của Mỹ
2.3.3. Thái độ của giai cấp t sản mại bản đối với cuộc cách mạng giải
phóng của nhân dân miền Nam Việt Nam
2.4. Nhận xét về giai cấp t sản mại bản Việt Nam
3. Kết luận
Tài liệu tham khảo


I. Mở đầu
Sau 21 năm đấu tranh gian khổ với bao hy sinh, mất mát, cả dân
tộcViệt Nam nh bùng nổ trong niềm vui chiến thắng của cuộc tổng tiến công
và nổi dậy năm 1975 đợc kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Chiến thắng ấy một lần nữa khẳng định chân lý đại nghĩa thắng hung tàn
trong lịch sử đấu tranh dựng nớc và giữ nớc của dân tộc ta. Đó cũng là kết
quả của sự đoàn kết toàn dân, của sự giúp đỡ tận tình của nhân dân tiến bộ
thế giới, của lòng thiết tha với hoà bình, độc lập, thống nhất của nhân dân
Việt Nam. Và một lần nữa vai trò lãnh đạo của Đảng ta lại đợc khẳng định
trên thực tiễn cách mạng. Đó là chiến thắng chung của toàn thể nhân loại
tiến bộ.
Cùng với thắng lợi to lớn của quân và dân Việt Nam là sự thất bại
thảm hại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai thân Mỹ. Và quan trọng hơn, đó là
dấu hiệu cho sự sụp đổ tất yếu của hệ thống thuộc địa kiểu mới của Mỹ trên
2
toàn thế giới. Khi bọn thống trị thuộc địa phải cuốn gói về nớc đã kéo theo
một đội ngũ đông đảo bọn tay sai thân Mỹ đã từng làm công cụ thống trị của
chúng tại thuộc địa. Đó là tập đoàn Nguỵ quân nguỵ quyền mà cơ sở giai cấp
của chúng chủ yếu là bọn t sản mại bản thành thị và bọn đại địa chủ phong
kiến nông thôn. Bọn này do mất chỗ dựa về kinh tế- chính trị- xã hội cũng
lâm vào tình trạng hoang mang, bất ổn nh rắn mất đầu và cũng dáo dác
tìm đờng thoát thân theo gót bọn quan thầy của chúng.
Trong bài viết nhỏ của mình dới đây, chúng tôi chỉ xin khảo sát một
cách khái quát nhất về giai cấp t sản mại bản từ khi Mỹ chính thức biến miền
Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng cho đến khi chúng đại
bại trên chiến trờng. Thời gian tuy không dài ( 21 năm) nhng cũng đủ để một
giai cấp vơn lên tự hoàn thiện mình về ý thức giai cấp cũng nh khẳng định vị
thế kinh tế của mình. Đặc biệt, giai cấp đó lại đợc sự đỡ đầu hết sức hào
phóng của ông chủ Mỹ. Nhng do ngay từ đầu, giai cấp t sản mại bản đã tỏ rõ
sự đối lập về quyền lợi cũng nh ý thức chính trị với toàn thể nhân dân, đi ng-

ợc lại với lợi ích của dân tộc nên cùng với sự thất bại của đế quốc Mỹ, giai
cấp này cũng dần đi đến suy yếu và bị cách mạng tiêu diệt.
Khái niệm giai cấp t sản mại bản hiện nay đã trở thành một khái niệm
lịch sử, nhng do nó đã có những tác động không nhỏ đến lịch sử Việt Nam
trong một thời kỳ nhất định. Do đó, nghiên cứu về nó cũng nh những tác
động của nó một cách tích cực hay tiêu cực đối với toàn bộ tiến trình lịch sử
dân tộc thiết nghĩ cũng rất cần thiết, đặc biệt là với công cuộc đổi mới theo
định hớng xã hội chủ nghĩa của nớc ta hiện nay.
3
II. Nội dung
2.1. Sự hình thành giai cấp t sản Việt Nam
2.1.1. Sự hình thành mầm mống chủ nghĩa t bản trong lòng xã hội
Việt Nam trớc khi thực dân Pháp xâm lợc.
Kinh tế sản xuất hàng hoá đã xuất hiện từ lâu trong xã hội Việt Nam
nhng phải từ cuối thế kỷ XVI trở đi, kinh tế hàng hoá mới chiếm một địa vị
đáng kể trong lòng nền kinh tế phong kiến Việt Nam. Đó cũng là thời kỳ
kinh tế Việt Nam bắt đầu tiếp xúc phần nào với những hoạt động ngoại thơng
không chỉ với các nớc phơng Đông mà cả với một số nớc phơng Tây đang b-
ớc vào thời kỳ hình thành và phát triển kinh tế t bản chủ nghĩa.
Trong thế kỷ XVII- XVIII, ở nớc ta đã hình thành những thị trấn, thị tứ
quan trọng nh Hội An, Thăng Long, Gia Định làm cho những hoạt động
giao dịch với bên ngoài cũng trở nên thờng xuyên và rộng rãi hơn trớc, đặc
biệt là với các nớc t bản chủ nghĩa phơng Tây.
Nền sản xuất hàng hoá giản đơn đã mở rộng và thâm nhập vào nền
kinh tế phong kiến tự nhiên. Đây là một sự vận động tất yếu của nội lực nền
kinh tế, nhng với lịch sử phát triển của kinh tế Việt Nam ta không thể phủ
nhận vai trò của cha cố phơng Tây- những ngời trực tiếp du nhập và củng cố
phơng thức sản xuất mới t bản chủ nghĩa vào Việt Nam thông qua hoạt động
truyền giáo của mình. Do vậy, ở những nơi cửa biển hay các thành phố quan
trọng đã xuất hiện một hạng ngời chuyên làm nghề thơng mại- một tầng lớp

tiền thân của t bản thơng mại.
Vào thời kỳ vơng triều Tây Sơn ( cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX)
nền sản xuất hàng hoá lại tiến thêm một bớc mới. Nhà nớc đã ban hành
những chính sách khuyến khích đối với kinh tế thơng nghiệp, giải quyết một
phần mâu thuẫn giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thợng tầng của xã hội đơng thời, đẩy kinh tế hàng hoá và
4
hoạt động công htơng nghiệp tiến lên một bớc. Thống nhất tiền tệ thành một
đồng tiền duy nhất thuận lợi cho việc giao lu hàng hoá giữa các địa phơng.
Những chính sách kinh tế tiến bộ của nhà Tây Sơn đã góp phần khôi
phục nền kinh tế nớc ta sau một thời gian dài bị chia cắt bởi tình trạng cát cứ,
phân tranh giữa các tập đoàn phong kiến. Tuy nhiên, sự phát triển này đã
không đợc duy trì lâu dài bởi sự thất bại mau chóng của vơng triều Tây Sơn.
Nền kinh tế t bản chủ nghĩa mới manh nha ở nớc ta lại bớc vào một thời kỳ
khó khăn mới.
Khi nhà Nguyễn lên nắm quyền thống trị ( đầu thế kỷ XIX) đã không
những không xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến đã hết sức lỗi thời mà còn
tỏ ra phản động hơn bao giờ hết. Hệ thống thợng tầng kiến trúc dới thời
Nguyễn càng bóp nghẹt cơ sở kinh tế ban đầu của kinh tế t bản. Sức sản xuất
mới trong đà phát triển của nó bị chặn đứng lại đã càng khoét sâu thêm mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời, và càng tăng cờng sự đối
kháng gay gắt giữa quan hệ sản xuất với sức sản xuất mới. Thêm vào đó là
những luật lệ hà khắc, chính sách ngăn sông cấm chợ của triều đình
phong kiến, chế độ tài chính bất bình đẳng và nạn thuế khoá, hà lạm của bọn
vua chúa ngày càng làm thui chột những mầm mống t bản chủ nghĩa mới
manh nha hình thành.
Nh vậy, nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ trớc khi thực dân Pháp
xâm lợc là một nền kinh tế phong kiến, trong đó quan hệ sản xuất đã xuất
hiện và phát triển đến một trình độ nhất định, làm lung lay những cơ sở của
kinh tế phong kiến chủ yếu dựa trên chế độ bóc lột lao dịch và địa tô hiện vật

và dựa trên quan hệ lệ thuộc về thân thể. Quan hệ sản xuất hàng hoá và tiền
tệ ấy đã thúc đẩy hình thành những thị trờng địa phơng nhỏ hẹp đang trong
quá trình dần dần liên hệ với nhau thành một thị trờng mở rộng trong nớc và
một phần liên hệ với thị trờng nớc ngoài.
Hệ quả tất yếu của tình trạng đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất
phong kiến lạc hậu với sức sản xuất mới (mầm mống t bản chủ nghĩa) ngày
càng bộc lộ gay gắt. mặc dù trong lòng nền kinh tế phong kiến ấy đã hình
thành sức sản xuất mới, nhng về căn bản nó cũng là yếu tố kinh tế tiền t bản
và một số yếu tố mầm mống t bản chủ nghĩa bị kìm hãm một cách nặng nề.
Quá trình sức sản xuất mới ấy lớn dần lên mâu thuẫn càng sâu sắc với quan
5
hệ sản xuất phong kiến và chuẩn bị đập tan quan hệ ấy. Đó là quá trình tiến
bộ của lịch sử.
2.1.2. Sự hình thành giai cấp t sản Việt Nam
Ngay từ khi nền kinh tế hàng hoá bắt đầu manh nha xuất hiện ở nớc ta
thì kéo theo đó cũng xuất hiện một lớp ngời thoát ly khỏi sản xuất hàng hoá
đơn thuần. Đó là lực lợng t bản thơng nghiệp đầu tiên. Có thể tầng lớp này đã
xuất hiện từ rất sớm trong xã hội Việt Nam, bởi trong cơ cấu xã hội Việt
Nam cổ truyền, lớp ngời này đã đợc đề cập đến. Tuy nhiên, ra đời trong một
xã hội nông nghiệp cổ truyền với quan niệm Nho giáo nặng nề nên lớp ngời
này không đợc coi trọng thậm chí còn bị coi thờng và bị xếp vào hạng ngời
dới cùng trong kết cấu xã hội sĩ- nông- công- thơng.
Cùng với sự tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp của một số ngành thủ
công đã dẫn đến chỗ phân hoá trong nông dân và những ngời sản xuất thủ
công. Trong xã hội phong kiến Việt Nam ở nông thôn đã xuất hiện một số
nông dân giàu có. Đó là mầm mống t bản trong nông nghiệp. Cùng với đó
cũng xuất hiện một số thơng nhân giàu có và cho vay nặng lãi đang trong
quá trình tích luỹ t bản nguyên thuỷ. đồng thời cũng xuất hiện một số rất ít
công trờng thủ công có mầm mống quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa.
Khi thực dân Pháp xâm chiếm và thống trị xã hội Việt Nam và chủ

nghĩa t bản thâm nhập vào kinh tế Việt Nam, nhiều sự biến đổi căn bản đã
xảy ra. Cơ sở kinh tế phong kiến đã bị đánh một đòn rất nặng, kinh tế hàng
hoá tiến nhanh, cùng với nó là sự phân hoá và bần cùng hoá nông dân. sự mở
rộng thị trờng trong nớc cũng diễn ra nhanh chóng. Quá trình đó cũng tạo
điều kiện cho những mầm mống t bản chủ nghĩa trong nớc phát triển.
Tuy nhiên, chính sách thuộc địa của bọn thực dân mà cụ thể lúc này là
dùng Việt Nam làm thị trờng tiêu thụ hàng hoá và cho vay nặng lãi, biến nớc
ta thành thị trờng phụ thuộc vào thị trờng chính quốc. Nói cách khác, thực
dân Pháp không hề có ý định phát triển nền kinh tế t bản ở thuộc địa nhằm
mục đích bảo trợ cho nền công nghiệp ở chính quốc. Nhng nằm ngoài sự tính
toán của bọn thực dân, kinh tế t bản của nớc ta vẫn có bớc phát triển mặc dầu
hết sức nhỏ yếu và què quặt do điều kiện lịch sử qui định. Quan hệ sản xuất
duy trì ở thuộc địa của t bản ngoại quốc cùng với quan hệ kinh tế phong kiến
đang tan rã và biến chất đã làm cho một số yếu tố t bản chủ nghĩa Việt Nam
6
xuất hiện và trở thành một vật phụ thuộc vào thực dân Pháp, chủ yếu về mặt
t bản thơng mại.
Những yếu tố kinh tế t bản chủ nghĩa đầu tiên xuất hiện vào cuối thế
kỷ XIX trong nền kinh tế Việt Nam trong khuôn khổ của một xã hội thuộc
địa nửa phong kiến. Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt đó, những ngời t sản
Việt Nam ra đời đã đóng một con dấu rất sâu sắc và cũng rất đáng buồn ấy
vào bản khai sinh của mình. Nếu nh trớc Thế chiến thứ nhất, t sản Việt Nam
chỉ là một lớp ngời ít về số lợng và yếu kém về kinh tế thì sau chiến tranh với
những điều kiện mới, họ đã vơn lên thành một giai cấp với một hệ ý thức
riêng, trở thành giai cấp tự thân của nó.
Từ những kiến giải trên ta có thể khái quát về sự ra đời của giai cấp t
sản nh sau:
Khi t bản Pháp vào chiếm trị nớc ta thì chủ nghĩa t bản Việt Nam mới
trong trạng thái manh nha, giai cấp t sản Việt Nam cha thành hình. Chủ
nghĩa đế quốc Pháp đã kìm hãm và phá hoại nền kinh tế công thơng nghiệp

dân tộc Việt Nam để thực hiện lợi nhuận cao nhất của nó. Chủ nghĩa t bản
Việt Nam không thể phát triển nhanh chóng. Nhng một mặt khác, khi chủ
nghĩa t bản đế quốc thâm nhập vào nớc ta, nó thúc đẩy cho nền kinh tế tự
nhiên cũ mau tan vỡ, biến nớc ta thành vòng khâu của thị trờng Thế giới,
tầng lớp vô sản làm thuê ngày càng nhiều, tầng lớp thơng nhân mở rộng
phạm vi kinh doanh. Tóm lại nó có tác dụng kích thích khách quan cho chủ
nghĩa t bản Việt Nam phát triển. Và t sản Việt Nam với t cách một giai cấp
xã hội ra đời là một tất yếu lịch sử.
2.2. Khái quát về giai cấp t sản mại bản Việt Nam thời Pháp thuộc.
2.2.1. Có hay không giai cấp t sản mại bản ở Việt Nam?
Khi đặt ra câu hỏi này điều mà chúng tôi muốn đề cập đến là có hay
không sự khác biệt giữa giai cấp t sản dân tộc với giai cấp t sản mại bản hay
không?
Nh chúng ta đã biết, đặc trng cơ bản nhất làm cơ sở cho sự khác nhau
giữa các giai cấp trong xã hội là quan hệ của họ khác nhau với t liệu sản
xuất, từ đó họ sẽ khác nhau về địa vị trong hệ thống sản xuất của xã hội,
khác nhau về vai trò trong tổ chức xã hội về lao động, khác nhau về phơng
thức hởng thụ nếu nói nh vậy thì sự phân biệt giữa t sản dân tộc với t sản
7
mại bản sẽ không giống nh sự phân biệt giữa giai cấp t sản nói chung và giai
cấp phong kiến. Vì t sản mại bản và t sản dân tộc đều chiếm hữu t liệu sản
xuất t bản chủ nghĩa, đều làm giàu bằng bóc lột giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, đều có ý thức hệ giai cấp t sản, và tất nhiên, họ đều thuộc về
giai cấp t sản nói chung. Và nh thế thì có thể nào coi giai cấp t sản mại bản
nh là một giai cấp riêng biệt trong xã hội?
Nhng sinh ra trong điều kiện xã hội thuộc địa, t sản mại bản và t sản
dân tộc bên cạnh điểm giống nhau cơ bản, còn có những điểm rất khác nhau.
đó là quan hệ kinh tế và thái độ chính trị khác nhau đối với chủ nghĩa đế
quốc bên ngoài đang thống trị thuộc địa. Do đó, đã đa tới sự phân biệt giữa
giai cấp t sản mại bản và giai cấp t sản dân tộc.

Mại bản là kẻ môi giới địa phơng giữa t bản lũng đoạn ngoại quốc và
thị trờng tiêu thụ, thị trờng nguyên liệu thuộc địa. Nó là tay sai của t bản tài
chính ngoại quốc, là kẻ đại lý trực tiếp cho đế quốc nô dịch hoá thuộc địa và
nửa thuộc địa, nghĩa là kẻ trực tiếp giúp đế quốc thống trị thị trờng trong nớc,
thị trờng dân tộc. Là một tập đoàn trực tiếp phục vụ cho t bản đế quốc chủ
nghĩa, giai cấp t sản mại bản có quyền lợi kinh tế khăng khít với đế quốc, đ-
ợc đế quốc nuôi nấng. Sự gắn liền quyền lợi của nó với đế quốc thể hiện rõ
rệt nhất ở chỗ nó đợc hởng chung lợi nhuận cao nhất với t bản lũng đoạn
ngoại quốc. Nói khác đi, t sản mại bản là những kẻ có độc quyền kinh doanh
trong một phạm vi thị trờng nào đó ở một vài thứ hàng hoá nào đó cho t bản
đế quốc chủ nghĩa.
Vì dính liền quyền lợi với đế quốc, giai cấp t sản mại bản chỉ có thể
tồn tị khi đế quốc còn thống trị thị trờng thuộc địa. Trên cơ sở đó, ý thức giai
cấp của t sản mại bản tuy cũng là ý thức giai cấp t sản nói chung nhng còn là
công nhận và bảo vệ quyền lợi của bọn đế quốc thống trị thuộc địa.
Trái lại, giai cấp t sản dân tộc là tập đoàn t sản xây dựng công nghiệp
dân tộc, hoạt động kinh doanh của họ bằng cách này hay cách khác có liên
hệ với nền sản xuất dân tộc, với việc đem hàng nội hoá tiêu thụ trên thị trờng
trong nớc và trao đổi với thị trờng ngoài nớc. Giai cấp t sản dân tộc chỉ có thể
phát triển khi nền công nghiệp dân tộc đợc phát triển, thị trờng trong nớc đợc
bảo vệ.
Nh vậy quyền lợi kinh tế của họ có mâu thuẫn với t bản đế quốc đến
thống trị thị trờng thuộc địa, kìm hãm và phá hoại nền công nghiệp dân tộc.
8
Trên cơ sở đó, ý thức giai cấp của họ tuy cũng là ý thức giai cấp t sản nói
chung nhng còn là đấu tranh với t bản đế quốc để bảo vệ kinh doanh của giai
cấp họ.
Tóm lại, trực tiếp kinh doanh với đế quốc và có một độc quyền nào
đó, gắn liền quyền lợi với đế quốc và do đó có ý thức duy trì bảo vệ quyền
lợi của đế quốc ở thuộc địa. Đó là điều kiện cơ bản của giai cấp t sản mại

bản phân biệt với giai cấp t sản dân tộc.
Từ sự phân biệt giai cấp t sản mại bản với giai cấp t sản dân tộc suy ra
rằng, giai cấp t sản mại bản ra đời phụ thuộc hai điều kiện cơ bản có liên hệ
khăng khít với nhau:
Một mặt t bản đế quốc tăng cờng đầu t vào thị trờng thuộc địa ở một
mức độ nhất định.
Mặt khác lực lợng t sản mại bản, do đầu t của đế quốc đợc tạo ra, phát
triển từ ít tới nhiều, hoạt động của họ từ chỗ lẻ tẻ đến chỗ thành một tập đoàn
có ý thức giai cấp của nó.
Nh vậy, quá trình sản sinh giai cấp t sản mại bản- kẻ đại lý trực tiếp
cho t bản đế quốc bên ngoài, khác hẳn quá trình sản sinh giai cấp t sản dân
tộc- kẻ đại diện thực sự cho chủ nghĩa t bản trong nớc. Bởi vì chủ nghĩa t bản
nớc thuộc địa, nửa thuộc địa nảy sinh cũng theo quy luật chung về sự ra đời
của chủ nghĩa t bản. nó do hai điều kiện cơ bản quyết định:
- Phải có một số t nhân tập trung đợc nhiều tiền của vào tay ở một giai
đoạn sản xuất hàng hoá tơng đối cao.
- Phải có những ngời tiểu sản xuất trở thành vô sản, tự do bán sức lao
động cho những kẻ đã tập trung đợc nhiều tiền của.
Hai điều đó không do chủ nghĩa đế quốc bên ngoài đẻ ra, nó đợc nảy sinh từ
trong sự phát triển của nội bộ nền kinh tế nớc đó, mặc dầu chủ nghĩa đế quốc
thống trị có ảnh hởng tới sự phát triển của chủ nghĩa t bản nớc thuộc địa, nửa
thuộc địa. Vì thế ở nhiều nớc, chủ nghĩa t bản đã nảy sinh trớc khi bị chủ
nghĩa đế quốc chiếm trị, tức là trớc khi có lực lợng t sản mại bản thì đã có
những t sản đại biểu cho nền công thơng nghiệp nớc đó rồi.
Sự khác nhau về điều kiện nảy sinh và quá trình phát triển của giai cấp
t sản mại bản và t sản dân tộc biểu hiện rằng sự hình thành của hai giai cấp
đó không có một mối liên hệ tất yếu, có thể đồng thời cùng xuất hiện nhng
cũng có thể xuất hiện sớm muộn khác nhau.
9
Nhng ở nớc ta, bộ phận giai cấp t sản mại bản chẳng những là một giai

cấp cùng giai cấp t sản dân tộc thuộc về giai cấp t sản Việt nam nói chung
mà nó cũng là giai cấp ra đời đồng thời với giai cấp t sản dân tộc ở thời kỳ
sau đại chiến Thế giới I.
2.2.2. Sự phát triển của giai cấp t sản Việt Nam
Vào thời kỳ đầu Pháp thuộc, khi đế quốc Pháp tăng cờng đầu t khai
thác thuộc địa Việt Nam, dần dần tạo ra tầng lớp t sản mại bản thì cũng là
thời kỳ nền kinh tế tự nhiên dần dần bị lay chuyển mạnh, kinh tế hàng hoá đã
có từ trớc ngày một phát triển, công nhân làm thuê và t sản dân tộc nảy sinh
ngày một tăng; nói khác đi cũng là thời kỳ lực lợng t sản mại bản bà t sản
dân tộc phát triển song song. Hãy điểm lại sự phát triển của hai tầng lớp đó
qua mấy giai đoạn lịch sử cụ thể:
Nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp chú trọng dùng lực lợng quân sự
cớp nớc ta thành thuộc địa của chúng. Việc đầu t khai thác lúc đó cha phải là
chủ yếu. Tuy vậy, t bản Pháp cũng đã nhập cảng hàng ngoại hoá, xuất cảng
nông phẩm và hàng thủ công ngày càng nhiều, đã bắt đầu xây dựng đô thị
thành những trung tâm buôn bán của chúng. Do đó chúng cũng cần một lớp
ngời trung gian làm đại lý tiêu thụ ngoại hoá, thu mua nông phẩm, sản phẩm
thủ công và làm thầu khoán cho chúng. Lúc đó rảI rác ở các dô thị cũng có
một số ít cửa hiệu đại lý hàng ngoại hoá và một số ít ngời làm thầu khoán
cho Pháp.
Tuy nhiên số ngời có thể gọi là t sản mại bản lúc bấy giờ cha chắc đã
có hay nếu có thì cũng rất hiếm hoi. Vì muốn đại lý độc quyền ở một phạm
vi nào đó, trớc hết phải có nhiều vốn. Mà trong hoàn cảnh nền kinh tế nớc ta
cuối thế kỷ XIX mà tính chất tự nhiên còn giữ địa vị thống trị nên vai trò của
các thơng nhân ở các đô thị còn rất yếu ớt. Trong khi lực lợng t sản mại bản
cha xuất hiện thì nền kinh tế t bản chủ nghĩa Việt Nam cũng mới trong trạng
tháI phôi thai. Nói cách khác, do mục đích bình định là chính trong thời kỳ
đầu xâm lợc của thực dân Pháp mà giai cấp t sản Việt Nam nói chung và giai
cấp t sản mại bản nói riêng cha xuất hiện với t cách một giai cấp độc lập
trong nền kinh tế- xã hội.

Bớc sang giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến đại chiến thế giới lần thứ
nhất, tính chất tự nhiên của nền kinh tế Việt Nam bị lay chuyển, thị trờng mở
rộng từ Bắc vào Nam và đã trở thành một mắt xích trong hệ thống thị trờng
10
thế giới. Tầng lớp t sản dân tộc xuất hiện từ những thơng nhân phát đạt,
những đại địa chủ t bản hoá, những chủ xởng thủ công giàu có. Tiêu biểu cho
đám t sản này là Trơng Văn Bền, Bạch Thái Bởi, Nguyễn Thanh Liêm
Khi tầng lớp t sản dân tộc đợc kích thích phát triển hơn trớc, cũng là
lúc thực dân Pháp bắt đầu đầu t khai thác thuộc địa Việt Nam trên các mặt
công, nông, thơng nghiệp. Một số t sản mại bản cũng xuất hiện trong thời kỳ
này. Cùng với yêu cầu mở rộng khai thác công, nông, thơng nghiệp của t bản
Pháp đã làm cho một số thơng nhân, cai thầu Việt Nam trớc kia trở thành
một số thầu khoán lớn. Còn có vài nhà t bản đã chung vốn với t bản Pháp nh
Bùi Huy Tín, Đoàn Đình Nguyên, Lê Phát An
Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, hàng hoá Pháp và hàng Châu Âu
nhập cảng giảm sút trên thị trờng Việt Nam, thực dân Pháp cũng phải mở
thêm một số xí nghiệp ở thuộc địa để cung cấp cho nhu cầu kinh doanh của
chúng. Trong điều kiện đó t sản dân tộc cũng nh t sản mại bản đều tăng cờng
hoạt động bằng mở xí nghiệp, đầu cơ tích trữ, thầu khoán và họ đã rất phát
tài.
Nhng cha bao giờ nhịp độ phát triển của lực lợng t sản dân tộc lại đợc
phát triển nhanh nh mấy năm sau thế chiến thứ nhất. Nguyên nhân là do chủ
nghĩa t bản đang có đà phát triển từ trong chiến tranh; sau đại chiến, quan hệ
hàng hoá tiền tệ càng ăn sâu vào kinh tế nông nghiệp, lôicuốn kinh tế nông
dân, địa chủ vào thị trờng, số ngời vô sản hoá rất đông, các phơng tiện giao
thông vận tải có nhiều, thành thị mở rộng và ngày càng tập trung. Cho nên có
nhiều thơng nhân giàu có lên, trở thành chủ xí nghiệp lớn nh chủ công ty
buôn Quảng hng long mở xởng làm đồ sắt, chế xà phòng với trên 100 công
nhân; chủ công ty buôn Liên thành có nhiều xởng chế nớc mắm
Về phía sản mại bản, lực lợng cũng phát triển thời kỳ sau chiến tranh.

Nguyên nhân là sau đại chiến, đế quốc Pháp đầu t khai thác thuộc địa Việt
Nam ở một qui mô rộng lớn nhất. Trong thời đại hoàng kim đó của đế quốc,
một số ngời từ trong đám chủ hiệu đại lý ngoại hoá, thầu khoán, đại địa chủ
trở thành t sản mại bản, gắn bó quyền lợi với t bản lũng đoạn Pháp trên các
mặt công, nông, thơng nghiệp. Vốn đầu t của thực dân Pháp trung bình mỗi
năm trong thời kỳ 1924- 1927 gấp 7 lần mỗi năm thời kỳ 1888- 1918, phân
phối cho các ngành kinh doanh nông nghiệp 33%, công nghiệp 33%, ngân
hàng 19%, vận tải 5%, thơng nghiệp 10%.
11
Điểm lại quá trình phát triển của lực lợng t sản mại bản và t sản dân
tộc từ đầu Pháp thuộc đến sau đại chiến thứ nhất có thể đi đến kết luận sau:
việc tăng cờng đầu t khai thác thuộc địa Việt Nam của đế quốc Pháp một mặt
dần dần tạo ra lực lợng t sản mại bản, một mặt phá hoại nền kinh tế tự nhiên
Việt Nam, kích thích cho chủ nghĩa t bản Việt Nam từ trạng thái mầm mống
phát triển lên, mặc dầu rằng nền công thơng nghiệp Việt Nam phát triển một
cách què quặt do sự thống trị của kinh tế đế quốc. Nếu nh Bạch Thái Bởi,
Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Hữu Thu là tiêu biểu cho sự giàu có của lớp t
sản dân tộc thì Lê Phát An, Nguyễn Hữu Tiệp, Bùi Huy Tín cũng tiêu biểu
cho sự giàu có của đám t sản mại bản.
Khi thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở
Việt Nam đã kìm hãm sự phát triển của t sản dân tộc. Mâu thuẫn đó đã làm
cho ý thức của giai cấp t sản dân tộc bộc lộ trong việc vận động phát triển
kinh doanh công thơng nghiệp dân tộc, tiêu thụ hàng nội hoá, tảy chay hàng
ngoại hoá. Cùng với đó, t sản mại bản cũng chịu tác động nhất định. Cuộc
khai thác thuộc địa lần hai của thực dân Pháp là một điều kiện lớn lao làm
cho lực lợng t sản mại bản tự giác liên kết vơí nhau thành tập đoàn gắn bó
khăng khít hơn nữa với quyền lợi của đế quốc Pháp. t sản mại bản Việt Nam
đã trở thành một giai cấp.
2.2.3. Đặc điểm giai cấp t sản mại bản Việt Nam
Với t cách là sản phẩm trực tiếp của quá trình xâm lợc và nô dịch nhân

dân ta của thực dân Pháp, giai cấp t sản mại bản ra đời, hình thành và phát
triển đều phụ thuộc vào chính sách kinh tế của chính quốc đối với thuộc địa.
Và nhìn một cách khái quát nhất t sản Việt Nam thời Pháp thuộc ta thấy nổi
bật lên ba đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: tuy giữ vai trò môi giới, đại lý cho t bản Pháp ở thuộc địa
song giai cấp t sản mại bản Việt Nam rất nhỏ bé và phụ thuộc.
Đối với thực dân Pháp, Việt Nam nói riêng và Đông Dơng nói chung
là thuộc địa khai thác. Nghĩa là chủ nghĩa t bản Pháp coi nớc ta vừa là nơi
cung cấp nguyên- nhiên liệu dồi dào cho nền công nghiệp chính quốc. Đồng
thời đó cũng là thị trờng tiêu thụ rộng lớn, đầy tiềm năng và cũng hết sức dễ
tính đảm bảo cho nền sản xuất trong nớc phát triển một cách bền vững, cầu
cân đối với cung. Đây đợc xem là cứu cánh cho nền công nghiệp lạc hậu của
12
Pháp lúc bấy giờ so với trình độ chung của Châu Âu khi mà một cuộc cách
mạng khoa học- kỹ thuật mới đang manh nha hình thành.
Hàng hoá Pháp bị chính ngời Pháp chối bỏ. Công nghiệp đình trệ, kinh
tế lâm vào khủng hoảng do cung vợt quá cầu. Do vậy mà sau khi hoàn thành
việc lập ách thống trị ở thuộc địa, thực dân Pháp đã ồ ạt đa hàng hoá của
mình vào Việt Nam.
Nhng đồng thời cũng do chính sách buôn tận gốc, bán tận ngọn
hòng thu đợc lợi nhuận tối đa và bóc lột triệt để đối với nhân dân ta mà thực
dân Pháp ở thuộc địa đã trực tiếp đứng ra nhập cảng và mở các đại lý bán
hàng. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động xuất khẩu hàng
nông sản và hàng thủ công của nhân dân ta. Thực dân Pháp ở thuộc địa đã
bảo trợ cho bọn t bản chính quốc nắm giữ độc quyền trong nhập và xuất cảng
cũng nh cho phép bọn chúng tự định giá cả cho mỗi mặt hàng nhập khẩu,
thảng hoặc mới nhả cho bọn t sản thuộc địa một chút quyền lợi nhng rất hạn
chế. Qua đó ta thấy, t sản mại bản Việt Nam không hề có đặc quyền đặc lợi
nào về kinh tế nên là một giai cấp hết sức nhỏ yếu trong xã hội.
Cùng với việc nắm giữ độc quyền trong xuât nhập cảng, chủ trơng của

t bản Pháp là buộc nền kinh tế thuộc địa phụ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế
chính quốc. Do vậy mà nền sản xuất trong nớc bị kìm hãm phát triển hoặc
nếu có chỉ là một nền sản xuất què quặt, lạc hậu và hết sức phiến diện do sự
qui định của bọn thống trị nhằm mục đích duy nhất là phục vụ cho nhu cầu
trực tiếp của bọn thực dân ở thuộc địa.
Vì vậy, tuy trên lý thuyết là giai cấp đại diện cho nền sản xuất chính
quốc ở thuộc địa, nhng trên thực tế, t sản mại bản Việt Nam lại là một giai
cấp nhỏ yếu về kinh tế, hạn chế về chính trị do chính sách thuộc địa hà khắc
của thực dân xâm lợc. Nhng cùng với những biến động to lớn của lịch sử, t
sản Việt Nam cũng không ngừng vơn lên khẳng định tiềm lực kinh tế cũng
nh vị thế chính trị của mình.
Thứ hai: giai cấp t sản mại bản Việt Nam đợc nhà nớc thực dân nuôi
dỡng nhng nó không nắm giữ chính quyền. Hay nói cách khác, nó cha là giai
cấp mại bản quan liêu.
Do lực lợng tiểu t sản ở Pháp rất đông đảo nhng thị trờng việc làm
trong nớc không đảm bảo đáp ứng đủ việc làm cho nguồn nhân lực dồi dào
13
đó. Vì vậy thuộc địa là nơi giải quyết tình trạng khủng hoảng thừa công chức
và tận dụng khả năng của tầng lớp trí thức Pháp.
Thêm vào đó, để bảo đảm cho quyền lợi tối cao của bọn thực dân t bản
ở thuộc địa, để thu đợc lợi nhuận tối đa từ mọi hoạt động kinh doanh và giữ
độc quyền cho t bản Pháp. Do vậy mà bọn t sản mại bản tuy đợc thực dân
dung dỡng và nhợng cho một số quyền lợi nhất định về kinh tế, nhng tuyệt
nhiên chúng không đợc chủ Pháp tín nhiệm về chính trị. Lũng đoạn về kinh
tế đi đôi với thống trị về chính trị, đó là đặc điểm nổi bật nhất trong chính
sách thống trị của Pháp trên đất nớc ta. Nó cũng là nguyên nhân gây nên tình
trạng yếu ớt, què quặt của tầng lớp sản mại bản Việt Nam mới ra đời.
Thứ ba: giai cấp t sản mại bản có liên hệ với giai cấp địa chủ phong
kiến.
Dới sự thống trị của thực dân Pháp mà giai cấp t sản mại bản- đại diện

cho một phơng thức sản xuất mới, tiến bộ, lại có mối liên hệ nhất định với
giai cấp địa chủ- đại diện cho phơng thức sản xuất lạc hậu, lỗi thời lúc bấy
giờ.
Vậy biểu hiện của mối liên hệ đó đợc thể hiện nh thế nào?
Trớc hết đó là xu thế t sản hoá địa chủ. Nguyên nhân của tình trạng
này là sau khi đợc thực dân Pháp nhợng cho nhiều đồn điền rộng lớn, địa chủ
phong kiến trở nên giàu có. Cùng với đó là tốc độ phát triển khá nhanh của
nền kinh tế hàng hoá đã cuốn hút họ vào thị trờng, hàng năm thu đợc rất
nhiều tiền bạc. một vài ngời trong số họ đã bỏ tiền ra mở xí nghiệp sản xuất
hay các cửa hàng buôn thóc gạo bán cho t bản ngoại quốc xuất cảng, hoặc
chung vốn với các công ty thầu khoán. tức là trong số địa chủ phong kiến,
một số đã trở thành t sản mại bản nh Lê Quang Liên, Lê Quang Ngà, Pierre
Phơng
Cùng với đó là xu hớng địa chủ hoá t sản. Với chế độ địa tô phong
kiến nặng nề mà thực dân Pháp vẫn tìm cach duy trì ở thuộc địa, trung bình
từ 50%- 70% hoa lợi. Các nhà t sản nhận ra rằng, bóc lột theo lối phong kiến
chẳng những nhàn rỗi hơn, chắc chắn hơn, cần ít tiền vốn mà còn kiếm đợc
nhiều lời, thậm chí còn nhiều hơn là buôn bán. Đặc biệt là trớc sự độc quyền
buôn bán của t sản Pháp trên thị trờng đã hạn chế kinh doanh của t sản mại
bản. Do vậy mới có tình trạng nhiều nhà t sản khi kinh doanh thành đạt ở
14
thành thị lại bỏ tiền ra mua đất ở nông thôn để lập đồn điền, trang trại, duy
trì hình thức pháp canh thu tô phong kiến.
Nh vậy có thể đi đến kết luận về đạc điểm của giai cấp t sản mại bản
Việt Nam thời Pháp thuộc là hởng chung lợi nhuận cao nhất với t bản lũng
đoạn ngoại quốc, nhng lại rất nhỏ bé về kinh tế, hèn yếu về chính trị và có
liên hệ với địa chủ phong kiến. Đó là kết quả tất yếu do chính sách thống trị
của thực dân Pháp đem lại. Những đặc điểm này sẽ thay đổi lớn trong giai
đoạn lịch sử tiếp theo.
2.2.4. Thái độ của t sản mại bản đối với phong trào giải phóng dân

tộc của nhân dân ta.
Nguyện vọngkinh tế của đám t sản mại bản phản ánh rằng họ đã là
một giai cấp. Nhng ý thức giai cấp còn thể hiện rõ hơn nữa ở lập trờng chính
trị của họ. Là con đẻ của chủ nghĩa đế quốc Pháp, lập trờng căn bản của t sản
mại bản là bảo vệ và duy trì chế độ thống trị Pháp.
Ngay từ khi đợc thành lập, trên các tờ báo đợc coi là cơ quan ngôn
luận của giai cấp mình, t sản mại bản đã khẳng định lập trờng trung thành
với chính phủ thực dân của mình. Nhng do tính chất của cách mạng Việt
Nam lúc bấy giờ mới đang trong giai đoạn tự phát nên bản chất phản cách
mạng của nó cha nổi bật.
Trong thời kỳ đấu tranh cách mạng theo khuynh hớng dân chủ t sản
1920- 1925, do mang nặng tính cải lơng chủ nghĩa nên nó không đụng chạm
gì tới t sản mại bản. Do vậy mà tuy bản chất là bảo vệ chế độ thống trị Pháp,
nhng nó vẫn cha đối kháng rõ rệt với phong trào đòi tự do dân chủ t sản lúc
bấy giờ.
Khoảng từ 1926-1929, trong phong trào đấu tranh dân chủ lấy đối t-
ợng chính là bọn t bản thực dân để giành quyền lợi cho giai cấp, nó cha trực
tiếp đả kich vào giai cấp t sản mại bản.
Nhng từ khi Đảng tiền phong của giai cấp công nhân ra đời, đấu tranh
kinh tế hoà lkẫn với đấu tranh chính trị và phục vụ cho đấu tranh chính trị.
Thế là chẳng những vận mệnh của đế quốc và phong kiến bị uy hiếp mà vận
mệnh của giai cấp t sản mại bản cũng bị đe doạ. Giai cấp t sản mại bản
không thể tồn tại nếu đế quốc và phong kiến bị quật đổ. đã đến lúc giai cấp t
sản mại bản không thể không bộc lộ rõ bản chất phản động của nó.
15
2.3. Giai cấp t sản mại bản Việt Nam dới chế độ thực dân mới của Mỹ
2.3.1. Tình hình mới- Những thay đổi mới.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp toàn dân, toàn diện,
trờng kỳ và tự lực cánh sinh của dân tộc ta, một nửa đất nớc đợc hoàn toàn
giải phóng ở miền Bắc. Tình hình đó đã làm cho chỗ dựa về kinh tế và chính

trị của bọn t sản miền Bắc đã không còn nữa. Nên trong khi bọn tàn quân
Pháp hối hả rút quân khỏi nớc ta thì bọn t sản mại bản miền Bắc cũng hối hả
chạy vào Nam. Do vậy trong thời kỳ này chúng tôi chỉ tập trung chủ yếu
khảo sát về giai cấp t sản mại bản ở miền Nam nớc ta, bởi ở miền Bắc kể từ
1954 trở đi và đặc biệt là sau cải cách ruộng đất, về cơ bản giai cấp t sản mại
bản đã bị tiêu diệt.
Nếu nh đế quốc Pháp trớc đay cai trị Việt Nam bằng một bộ máy nhà
nớc thực dân có các viên chức ngời Pháp trực tiếp nắm giữ trong các ngành
hành chính và chuyên môn. và bằng cách cớp đoạt thuế má, trực tiếp nắm
độc quyền quan thuế, do đó trực tiếp độc quyền kinh doanh nông, công, th-
ơng nghiệp, tài chính, tiền tệ Thì ngày nay ở miền Nam Việt Nam đế quốc
Mỹ lại dùng viện trợ và một bọn cố vấn Mỹ, biến miền Nam Việt Nam
thành thuộc địa của chúng. Thêm vào đó, chúng tạo ra ở miền Nam một
chính quyền tay sai với danh nghĩa độc lập, dùng chính quyền đó phục vụ
chính sách xâm lợc gây chiến tranh, cớp đoạt lợi nhuận cao nhất của nó.
Viện trợ Mỹ chính là một công cụ của chủ nghĩa thực dân mới.
Dới tác động của viện trợ Mỹ, miền Nam đã biến thành một căn cứ
quân sự của Mỹ:; hàng hoá viện trợ Mỹ tràn ngập thị trờng miền Nam, bóp
chết nền công thơng nghiệp dân tộc. Do viện trợ Mỹ mà miền Nam phảI h-
ớng việc xuất nhập khẩu theo chiều phiến diện là buôn bán và phụ thuộc vào
Mỹ, phải đảm bảo mua hàng của t bản Mỹ với giá cao và bán hàng cho Mỹ
với giá rẻ hơn ở thị trờng thế giới. Viện trợ Mỹ là công cụ đã biến miền
Nam thành căn cứ quân sự, thuộc địa, phụ thuộc vào đế quốc về mọi mặt
quân sự, kinh tế, chính trị; nhà nớc cộng hoà độc lập miền Nam là công cụ
chính sách thống trị của Mỹ.
Trong điều kiện đế quốc Mỹ dùng hình thức thực dân kiểu mới đẻ biến
miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng thì những đặc điểm của giai
cấp t sản mại bản Việt Nam tức là giai cấp chủ yếu làm đại lý cho đế quốc
16
Mỹ, đã có những biến chuyển khác so với thời thuộc Pháp. Những chuyển

biến ấy không làm mất đi tính chất cơ bản của giai cấp t sản mà ngợc lại
càng thể hiện rõ ràng hơn, sâu sắc hơn bản chất phản động của nó.
2.3.2. Những đặc điểm căn bản của giai cấp t sản mại bản miền
Nam dới chế độ thực dân mới của Mỹ.
2.3.2.1. Đặc điểm 1: Giai cấp t sản mại bản miền Nam đã quan liêu
hoá, bộ phận t sản mại bản thân Mỹ đã cùng với bọn đại địa chủ phong kiến
thân Mỹ nắm chính quyền.
Chủ nghĩa thực dân mới là một chính sách cơ bản, một nội dung chủ
yếu của chiến lợc toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ. đặc điểm nổi
bật và có tính chất quy luật của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ là ởi chỗ nó
đợc thực hiện không phảI bằng hệ thống cai trị trực tiếp của bọn đế quốc mà
thông qua một chính quyền tay sai, đại biểu cho quyền lợi của giai cấp địa
chủ phong kiến và t sản mại bản khoác áo dân tộc, dân chủ giả hiệu.
Từ sau chiến tranh Thế giới thứ hai, cùng với những âm mu và hành
động can thiệp ngày càng sâu vào một số nớc trên Thế giới, đế quốc Mỹ đã
dựng nên ở những nớc đó chính quyền tay sai khoác áo quốc gia, độc lập
giả hiệu nhng thực chất là một chế độ tay sai hoạt động tích cực cho t bản
độc quyền Mỹ. Một chính quyền quân phiệt, phát xít, độc tài. Bản chất phản
động, hiếu chiến đến cùng của các chính quyền này bắt nguồn từ tính chất
giai cấp của chúng. Chúng đều đại diện cho quyền lợi của giai cấp t sản mại
bản quan liêu và các thế lực phong kiến phản động nhất ở địa phơng, có
quyền lợi gắn chặt với quyền lợi của đế quốc Mỹ.
Cũng nh giai cấp t sản mại bản ở các nớc thuộc địa phụ thuộc vào Mỹ,
giai cấp t sản mại bản ở miền Nam nớc ta đã không ngừng bành trớng thế lực
và thực ssự cầm quyền suốt 20 năm dới chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ.
Nh chúng ta đều biết, giai cấp t sản mại bản là sản phẩm của chính
sách thực dân của đế quốc, là chỗ dựa đắc lực cho bọn đế quốc xâm lợc nớc
ta. Từ trớc đến nay, giai cấp t sản mại bản luôn luôn là lực lợng cực kỳ phản
động. Thời thực dân Pháp thống trị, giai cấp t sản mại bản Việt nam đợc đế
quốc Pháp nâng đỡ đã cấu kết chặt chẽ với đế quốc Pháp và bọn chính quyền

tay sai bán nớc để làm giàu trên mồ hôi, xơng máu của đồng bào ta.
Tuy nhiên, do chính sách độc chiếm toàn bộ nền kinh tế thuộc địa và
cai trị bằng cả một bộ máy hành chính, quân sự của thực dân Pháp, nên giai
17
cấp t sản mại bản Việt Nam không trực tiếp tham gia nắm chính quyền.
Chúng hầu nh chỉ hoạt động đợc trong các ngành xuất nhập khẩu, đóng vai
trò đại lý cho các công ty t bản thực dân. tuy vậy hoạt động của chúng trong
các ngành này cũng bị hạn chế.
Nhng từ sau năm 1954, thay chân thực dân Pháp ở nớc ta, áp
dụngchính sách thực dân kiểu mới tại đây, Mỹ đã chọn giai cấp t sản mại
bản, bọn quan liêu, quân phiệt làm chỗ dựa chủ yếu của chính quyền tay sai
thực dân mới. Để thực hiện ý đồ này, chúng dốc sức xây dựng một cơ sở hạ
tầng cho chủ nghĩa thực dân mới, mở rộng các thành phố, thị xã, xây dựng ở
miền Nam cơ sở vật chất và kỹ thuật bớc đầu của chủ nghĩa t bản nhằm tạo
nên một cơ sở kinh tế cho giai cấp t sản mại bản tay sai Mỹ.
Sự phát triển của giai cấp t sản mại bản ở miền Nam trong 20 năm qua
gắn chặt với viện trợ Mỹ, với chiến tranh xâm lợc của Mỹ. chính sách viện
trợ thơng mại hoá và chính sách kinh tế phục vụ chiến tranh xâm lợc của
Mỹ là vú sữa nuôi béo bọn t sản mại bản miền Nam. Chiến tranh càng lớn,
quân đội viễn chinh Mỹ và ch hầu vào miền Nam càng đông, viện trợ Mỹ
đổ vào càng nhiều thì t sản mại bản miền Nam càng phát triển. Quá trình
hình thành và phát triển đội ngũ t sản mại bản quan liêu, quân phiệt, tay sai
Mỹ là một quá trình mâu thuẫn, chèn ép, đấm đá nhau kịch liệt, một quá
trình cá lớn nuốt cá bé. Bọn có thế lực, bám vào Mỹ- Ngụy, đợc Mỹ- Nguỵ
hà hơi tiếp sức, làm cai thầu phục vụ chiến tranh xâm lợc của Mỹ thì càng
tập trung và càng có nhiều điều kiện để lũng đoạn nhiều ngành kinh tế, trong
đó đa số là bọn xuất thân từ địa chủ phong kiến, hoặc từ tầng lớp sĩ quan cao
cấp, hoặc từ tầng lớp quan lại, công chức cao cấp của chế độ thực dân.
Ra đời từ viện trợ Mỹ, phất lên từ cuộc chiến tranh xâm lợc thực dân
mới, lại đợc Mỹ nâng đỡ, mặc sức cho làm giàu, nên ngay từ đầu giai cấp t

sản mại bản đã trở thành công cụ phục vụ đắc lực của đế quốc Mỹ thống trị
nhân dân miền Nam. Có thể khẳng định nh vậy vì những lý do nổi bật sau:
- Một bộ phận giai cấp t sản mại bản miền Nam đã nắm giữ hầu hết
các chức vụ chủ chốt trong chính quyền, quân đội, hình thành nên bọn mại
bản quan liêu, quân phiệt, tay sai đắc lực của Mỹ.
Đế quốc Mỹ sau khi thay chân thực dân Pháp thống trị miền Nam
chẳng những chỉ chọn giai cấp t sản mại bản làm chỗ dựa chủ yếu cho chính
sách thực dân mới mà còn để bọn chúng trực tiếp cầm quyền. Cho nên, ngay
18
từ thời Diệm, chính quyền tay sai Mỹ đã thực sự do bọn t sản mại bản và địa
chủ thân Mỹ khống chế.
Chính phủ đầu tiên mà dế quốc Mỹ lập nên tại miền Nam Việt Nam là
chế độ gia đình trị của Ngô Đình Diệm. Anh em Diệm đã chia nhau nắm giữ,
chi phối chính quyền, quốc hội, quân đội, và do đó chia nhau nắm chặt
những ngành kinh tế then chốt nh hầm mỏ, đồn điền, tài chính, ngân hàng.
riêng vợ chồng Nhu- kẻ làm cố vấn cho Diệm, quyền uy nghiêng ttrời lệch
đất; kẻ khống chế quốc hội, đã thâu tóm và quản lý tất cả các ngoại tệ, điều
khiển hối đoái, buôn tiền ngoại quốc, độc quyền chi phối xuất, nhập cảng.
Ngô Đình Cẩn- vua miền Trung, một tên tàn bạo khét tiếng khống
chế mọi hoạt động của chính quyền ở miền Trung, đã nắm tất cả các nhà
thầu. Ai muốn thầu gì nhất nhất phải nộp cho cậu Cẩn 3% số tiền thu đợc.
Cũng là t sản mại bản tham chính mà do đó, ỷ vào quyền lực, mặc sức
làm giàu có hàng trăm tên khác nh Trần Văn Lắm, Nguyễn Cao Thắng, Trần
Lệ Xuân, Mai Văn Hàm
Qua thời Minh- Khánh, nhất là đến Thiệu, bộ phận t sản mại bản trực
tiếp cầm quyền ngày càng đông. trong chính quyền trung ơng nguỵ có 25 tên
thì 18 tên là tỷ phú hoặc có tài sản 7800 triệu đồng. Trong số 228 nghị sĩ th-
ợng, hạ viện có tới hơn 100 tên là t sản mại bản có số vốn xấp xỉ nêu trên.
Nhng nói đến tầng lớp mại bản làm giàu trong chiến tranh không thể
không kể đến các hình thức kinh doanh của bọn tớng tá Ngụy. Đây là một

loại mại bản đặc biệt, một tầng lớp kinh doanh chủ yếu là buôn ngời và buôn
lậu. Hơn bất kỳ một bọn nào khác trong giới cầm quyền, chúng đợc chủ Mỹ
o bế, cng chiều. Nó đã chèn ép tất cả các đảng pháikhác, nắm trọn quyền
hành. Đó là các thiếu uý hay trung uý phờng trởng, đại tá tỉnh trởng và đô tr-
ởng Sài Gòn, là bọn tớng t lệnh các quân khu trong bộ quốc phòng, bọn tham
mu quân nguỵ. Chúng khống chế, nẵm giữ việc tổ chức từ các quán bar, nhà
chứa cho đến ngành kinh doanh hoá chất, xuất nhập khẩu, các ngân hàng lớn
và là chùm những vụ buôn lậu khủng khiếp. Cấp càng cao, quyền càng lớn,
buôn bán càng mạnh thì của cải càng nhiều.
Từ chỗ cùng cầm quyền, có quyền lợi gắn bó với nhau, gắn bó với Mỹ,
bọn mại bản quan liêu quân phiệt trở thành công cụ đắc lực của chủ nghĩa
thực dân mới Mỹ.
19
- Giai cấp t sản mại bản miền Nam nắm độc quyền kinh doanh trong
mọi ngành kinh tế, khống chế các cơ sở sản xuất, lu thông, phân phối quan
trọng.
Ngay từ thời Diệm, bằng chính sách viện trợ thơng mại hoá dành cho
bọn tay sai trung thành nắm độc quyền nhập cảng, làn môi giới trong việc
bán hàng viện trợ, hởng hoa hồng tới 25% giá hàng, đồng htời tổ chức ra các
công ty hỗn hợp, Mỹ đã sớm tạo ra giai cấp t sản mại bản, con đẻ của đồng
đô la.
Về sau, chiến tranh càng mở rộng, viện trợ Mỹ ném vào miền Nam
ngày càng nhiều thì đám ngời toàn quyền chi phối miếng mồi béo bở ấy càng
phất lên nhanh chóng. Nói cách khác, bằng các biện pháp chính trị, kinh tế,
xã hội, kết hợp với việc nâng đỡ, giành cho t sản mại bản miền Nam những
đặc quyền, đặc lợi, những chế độ u đãi, trong kinh doanh xuất nhập khẩu,
trong việc làm cai thầu chiến tranh, chủ nghĩa thực dân mới Mỹ đã duy trì đ-
ợc một tầng lớp t sản mại bản thân Mỹ có thế lực về chính trị, có nhiều
quyền lực về kinh tế, nắm độc quyền kinh doanh các ngành kinh tế, nắm giữ
hầu hết tất cả các cơ sở sản xuất, lu thông, phân phối quan trọng, lập thành

một hệ thống kinh doanh có tổ chức chặt chẽ từ trung ơng đến địa phơng, từ
thành thị đến nông thôn và lũng đoạn giá cả.
Trên cơ sở khống chế, lũng đoạn, độc quyền kinh doanh, các ngành
công thơng nghiệp, nắm giữ các mạch máu kinh tế ở thành thị, giai cấp t sản
mại còn thông qua hệ thống ngân hàng, tín dụng, qua các đại lý xăng dầu,
phân bón, máy móc nông nghiệp và thông qua mạng lới qua mạng lới kinh
doanh lúa gạo từ trên xuống dới, đến tận xã, ấp để thao túng nền kinh tế
nông thôn, thu mua lúa gạo bóc lột,vơ vét vủa cảI của nông dân.
Chính vì vậy, thế lực kinh tế của giai cấp t sản mại bản ở miền Nam
nói chung, của từng tên t sản nói riêng đều rất lớn.
Ra đời từ viện trợ Mỹ, phục vụ cuộc chiến tranh xâm lợc của Mỹ, giai
cấp t sản mại bản đã độc chiếm không kể bất cứ ngành nghề gì để làm giàu
trên mồ hôi, xơng máu và cả nỗi đau khổ của tất thảy nhân dân miền Nam.
- Giai cấp t sản mại bản cấu kết chặt chẽ với bọn quân phiệt cầm
quyền, làm giàu trong chiến tranh xâm lợc của Mỹ.
Đi đôi với hành động quân phiệt, cảnh sát hoá bộ máy nguỵ quyền, biến đám
sĩ quan quân đội trở thành công cụ đắc lực của bộ máy thực dân mới, Mỹ đã
20
dùng miếng mồi vật chất, thực hiện ý đồ t sản hoá bọn cầm đầu nguỵ quyền,
ngụy quân. Bởi vậy, hầu hết những tên giữ vai trò chủ chốt trong chính
quyền, quân đội đã cấu kết với t bản lũng đoạn Mỹ, tham gia kinh doanh, trở
thành những tên t sản mại bản quan liêu, quân phiệt cực kỳ phản động. Trong
lúc ấy, nhiều tên t sản mại bản tuy không trực tiếp tham gia bộ máy Nhà nớc,
không quyền cao chức trọng, nhng lợi dụng uy thế của bọn cầm đầu chính
quyền quân đội để làm ăn phát đạt. Con đờng kinh doanh làm giàu của
chúng là con đờng câu kết với đế quốc Mỹ, với bọn quân phiệt cầm quyền để
bòn rút, cớp giật của cải của nhân dân. Nhờ vậy mà nhiều tên đã phất lên
nhanh chóng, chi phối cả đám quân phiệt cầm quyền, thậm chí có quyền
hành rộng lớn hơn cả tớng tá nguỵ quân, tổng trởng, tỉnh trởng nguỵ quyền.
Trong chừng mực nào đấy, chúng đã biến bọn cầm đầu ngụy quân, ngụy

quyền thành tay chân, thành chỗ dựa cho chúng tuỳ tiện kinh doanh, gây tội
ác với nhân dân.
2.3.2.2. Đặc điểm 2: Thế lực kinh tế của giai cấp t sản mại bản, nhất
là bọn mại bản thân Mỹ, đã phát triển mạnh
Từ chỗ cầm quyền, nắm độc quyền về chính trị, giai cấp t sản mại bản
ở miền Nam càng có điều kiện phát triển thế lực về kinh tế.
Trong thời kỳ kháng chiến, mọi nguồn nhân lực, vật lực của cả nớc
đều dồn cho chiến tranh. Vì vậy, nền công nghiệp dân tộc bị giảm sút, thị tr-
ờng nguyên liệu và tiêu thụ ở nông thôn hầu nh bị cắt đứt với thành thị. Còn
ở thành thị, do dân số tăng cao bởi sự tập trung của quân đội viễn chinh Pháp
và bọn ngụy binh, ngời ở nông thôn cũng chạy ra thành thị nhiều, nguôn tiêu
thụ hàng hoá rất lớn, mà ở thành thị lại ngập tràn hàng hoá ngoại. tình hình
đó tạo ra một số t sản mại bản làm giàu lên nhanh chóng nh: Mai Văn Hàm,
Nguyễn Văn Chung, Vũ Ngọc Tiến, Trần Văn Chi
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, hầu hết bọn t sản mại bản chạy
vào miền Nam tiếp tục kinh doanh với đế quốc. Miền Nam trở thành nơi tập
trung tất cả bọn t sản mại bản.
Nhng cũng từ sau khi hoà bình lập lại, đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp khỏi
miền Nam Việt Nam, viện trợ trực tiếp cho chính quyền miền Nam. Với
hình thức thực dân kiểu mới của Mỹ, giai cấp t sản maị bản càng có khuynh
hớng phát triển, nhất là bọn mại bản thân Mỹ.
21
Viện trợ Mỹ một phần là vũ khí và quân dụng, còn phần lớn là
hàng hoá ế thừa của Mỹ đa vào dới hình thức viện trợ thơng mại hoá. Hàng
hoá viện trợ trung bình chiếm 80% tiền viện trợ. Giá cả mọi thứ hàng hoá
viện trợ do t bản lũng đoạn Mỹ quy định cao hơn giá cả trên thị trờng quốc
tế. Nhng dới danh nghĩa lừa bịp đợc chính phủ hai bên cộng tác để quy định
ở mức phải chăng. Nh vậy, đối với đế quốc Mỹ, chúng đã thực hiện đợc lợi
nhuận cao nhất. Hàng hoá đó đa vào miền Nam, xxa bán đấu thầu, mức độ
lãi đợc quy định chính thức là bán buôn đợc hởng tới 25% giá hàng nhập tới

Sài Gòn. Bán lẻ hởng lãi 20% giá bán buôn.
Với việc đấu thầu hàng hoá hởng lãi 25% giá cả đã tạo điều kiện cho
bọn t sản mại bản đợc độc quyền đấu thầu, hởng lợi nhụân 25%. Một khi đợc
quyền thầu thì lẽ tất nhiên, lợi nhuận không chỉ hởng đúng 25% giá cả nh
quy định chính thức, nó còn tăng lên tuỳ theo sự đầu cơ của bọn độc quyền.
Giá cả hàng ngoại hoá ở thị trờng miền Nam đầu năm 1960 tăng vọt lên
chính là do hoạt động đầu cơ của bọn độc quyền đó. Thêm vào đó, để đảm
bảo độc quyền nhập cảng cho bọn t sản mại bản thân Mỹ cùng cánh với bọn
nguỵ quyền, chính quyền miền Nam đã định ra môn bài ngoại thơng rất cao
và những quy định mới về nhà kho, bến bãi chứa hàng. Mục đích của chúng
là gạt những nhà t sản trung thơng và t sản không có thế lực ra khỏi phạm vi
nhập cảng.
Chẳng những về nhập cảng, bọn t sản mại bản cũng nắm đợc độc
quyền nào đó về xuất cảng. chúng đã quy định thu mua nông phẩm với giá rẻ
mạt để xuất cảng kiếm lời.
Nh vậy, cùng với việc độc quyền cả trong xuất và nhập khẩu, thêm vào
đó chính quyền thực dân còn cho phép bọn t sản mại bản đợc tự do định giá
hàng hoá trên thị trờng. Thế lực kinh tế của bọn t sản mại bản thân Mỹ ngày
càng đi lên nh diều gặp gió.
Ngoài bọn t sản mại bản kinh doanh xuất nhập cảng, còn có những
thầu khoán lớn rất phát tài trong việc xây dựng các căn cứ hải, lục, không
quân cho đế quốc Mỹ nh xây trờng bay, đờng chiến lợc, khu trù mật Bọn
này kinh doanh cùng với một số công ty Mỹ và đợc chính quyền miền Nam
giúp đỡ bóc lột nhân công giá rẻ bằng cách bắt phu đi xây dựng. Cùng với
đó, ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã cử hàng loạt chuyên gia kỹ thuật
22
đến thăm dò tài nguyên thiên nhiên và tình hình thị trờng, đặt cơ sở cho bọn
t bản Mỹ đầu t.
Nói đến khuynh hớng phát triển của bọn t sản mại bản, một điểm đáng
chú ý là ngày nay, đế quốc Mỹ cũng nh nhiều đế quốc khác kinh doanh ở

miền Nam đã chủ trơng phát triển lực lợng t sản mại bản dới hình thức những
công ty kinh doanh hỗn hợp. Nhằm một mặt, bọn chúng ngày càng tăng cờng
đầu t vào miền Nam và buộc chính quyền miền Nam mời chúng vào đầu t,
nhng một mặt khác để lừa bịp rằng miền Nam có độc lập, để hoà hoãn bớt
mâu thuẫn giữa t sản miền Nam và t sản ngoại quốc, đồng thời để tạo chỗ
dựa cho chúng, cho nên chúng đã có chủ trơng ấy. Tuy thức chất của những
công ty hỗn hợp ấy phần lớn vốn là của t bản ngoại quốc, quyền quản lý nằm
gọn trong tay bọn t bản ngoại quốc, nhng về danh nghĩa đợc quy định lừa bịp
trên giấy tờ rằng vốn của t sản Việt Nam phải chiếm đợc 51% và ngời chủ
tịch, quản lý, hơn nửa nhân viên ban quản trị thuộc về ngời Việt Nam. Dù bộ
mặt thật của những công ty hỗn hợp có thế nào chăng nữa, với chủ trơng lập
các công ty hợp doanh của bọn đế quốc sẽ dẫn đến kết quả tất nhiên là lực l-
ợng t sản mại bản ngày càng tăng lên. Đã có một số công ty hỗn hợp Mỹ-
Việt ra đời. Trong số 40 công ty Mỹ mới thành lập từ năm 1955 có nhiều
công ty Mỹ- Việt. Và trong kế hoạch xây dựng hay dự án xây dựng mà chính
quyền miền Nam đề ra còn có nhiều công ty khác nữa.
Trong số những công ty hỗn hợp, ngoài bọn t sản mại bản t nhân bỏ
vốn, bọn Diệm còn nấp dới hình thức vốn của Nhà nớc nhng dùng tiền Mỹ
viện trợ đầu t vào công nghiệp. Tính đến đầu năm 1960, tổng số tiền chính
quyền Diệm đầu t vào sản xuất công nghiệp lên tới 1800 triệu đồng miền
Nam, trong đó phần của viện trợ Mỹ chiếm trên một nửa. Nhng những xí
nghiệp của Nhà nớc lại sẵn sàng bán lại cho t bản ngoại quốc. Rút cục đó chỉ
là hình thức trá hình của t bản ngoại quốc đầu t.
Tóm lại, đứng riêng về mặt kinh doanh mà nói, giai cấp t sản mại bản
miền Nam nhờ dựa vào các đế quốc, nhất là Mỹ nên đã phát triển hơn trớc.
Phát tài nhất là bọn t sản mại bản thân Mỹ.
Cần nói ngay rằng, giai cấp t sản mại bản không có thế lực kinh tế
riêng mà dựa vào thế lực kinh tế của Mỹ. Nói cách khác, chúng làm giàu
không phải bằng quá trình tích luỹ giá trị thặng d mà là nhờ vào chính sách
23

viện trợ thơng mại hoá và chính sách kinh tế phục vụ chiến tranh xâm lợc
của Mỹ.
Trên cơ sở đợc Mỹ trao cho toàn quyền cấp phát viện trợ, chúng đã
dựa vào bộ máy nhà nớc để lũng đoạn các ngành xuất nhập cảng bằng cách
nắm nguồn hàng nhập, tiến hành các vụ đầu cơ quy mô, bán giấy phép nhập
và xuất cảng, thâu tóm độc quyền thu mua các mặt hàng xuất khẩu, thâu tóm
độc quyền chuyên chở trong nớc
Hàng hoá viện trợ đa vào càng nhiều, chiến tranh càng mở rộng thì t
sản mại bản miền Nam càng phát triển: một mặt chúng làm giàu trong chiến
tranh, sống nhờ đô la Mỹ; mặt khác chúng xây dựng thế lực và tài sản bằng
cách cớp giật, gây tội ác với nhân dân. Cho nên, về cơ bản, sự tồn tại và phát
triển của giai cấp t sản mại bản miền Nam gắn chặt với sự tồn tại của chế độ
thực dân mới và tính chất lũng đoạn về kinh tế, chính chất phản động về
chính trị của chúng ngày càng bộc lộ rõ nét.
Bọn chúng xuất thân từ những nhà kinh doanh dới thời Pháp thuộc, là
địa chủ t sản hoá hoặc từ tầng lớp sĩ quan, công chức cao cấp của chế độ thực
dân. Số rất lớn bọn t sản mại bản miền Nam là ngời Hoa. Quá trình hình
thành và phát triển của giai cấp t sản mại bản là một quá trình mâu thuẫn,
chèn ép, cá lớn nuốt cá bé. Trong đó, bọn cầm quyền, bọn móc ngoặc với
lũ đầu xỏ nguỵ quyền, nguỵ quyền, đợc Mỹ- Nguỵ dung dỡng cho làm cai
thầu phục vụ chiến tranh xâm lợc của Mỹ thì càng có nhiều điều kiện để lũng
đoạn mọi ngành kinh tế, làm giàu với tốc độ phi mã.
Có thể nói, bằng các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội, kết hợp với
nâng đỡ, dìu dắt,ban phát cho chúng những đặc quyền, đặc lợi, giành cho
chúng những chế độ u đãi trong kinh doanh xuất nhập ,khẩu, trong việc
làm cai thầu chiến tranh; chủ nghĩa thực dân của Mỹ đã tạo ra đợc một tầng
lớp t sản mại bản tay sai Mỹ có thế lực về chính trị, có nhiều quyền lực về
kinh tế, nắm giữ hầu hết các cơ sở sản xuất, lu thông, phân phối quan trong,
kiểm soát hầu hết toàn bộ hệ thống vận chuyển hàng hoá trừ những trung
tâm sản xuất đến những nơi hẻo lánh xa xôi nhất; và lũng đoạn giá cả

2.2.2.3. Đặc điểm 3: Giai cấp t sản mại bản liên hệ khăng khít với
giai cấp địa chủ phong kiến; đặc biệt hai bộ phận t sản mại bản thân Mỹ và
đại địa chủ phong kiến phản động thân Mỹ chỉ là một.
24
Trong điều kiện thuộc địa miền Nam còn tồn tại di tích phong kiến thì
đế quốc Mỹ cũng nh đế quốc Pháp trớc kia đều duy trì một cách nhân tạo
quan hệ bóc lột phong kiến đó. Bởi vì, duy trì chế độ chiếm hữu ruộng đát
phong kiến là bần cùng hoá nông thôn, phục vụ cho chính sách bắt phu, thuê
mớn công rẻ mạt, xây dựng căn cứ quân sự Mỹ, củng cố thế lực giai cấp địa
chủ nắm chính quyền ở nông thôn, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân
Viẹt Nam, kìm hãm sự phát triển của nền công, thơng nghiệp dân tộc.
Chính sách cải cách điền địa của Mỹ- Diệm cho phép địa chủ cớp đoạt
lại ruộng đất của nông dân đã đợc chia trong thời kỳ kháng chiến, cho binh
lính đàn áp nông dân và thu tô cho địa chủ đã biểu hiện rõ rệt nhất rằng: đế
quốc Mỹ quan tâm đặc biệt đến việc củng cố thế lực giai cấp địa chủ. Trên cơ
sở đều là chỗ dựa của đế quốc Mỹ, hai giai cấp mại bản và địa chủ đều gắn
bó với nhau. Và cũng nh dới thời Pháp thuộc, mối liên hệ mại bản- địa chủ
còn thể hiện ở chỗ có một bộ phận mại bản và địa chủ đều kinh doanh theo
lối mại bản, đều có ruộng đất phát canh thu tô.
Nhng trong tình hình miền Nam hiện nay, giữa giai cấp t sản mại bản
và địa chủ, đặc biệt là bộ phận t sản mại bản thân Mỹ và đại địa chủ phản
động thân Mỹ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Mối dây liên hệ ấy cũng
do đặc điểm quan liêu hoá của giai cấp t sản mại bản tạo ra. Hai bộ phận t
sản mại bản và đại địa chủ thân Mỹ nắm chính quyền cũng nh quyền lợi,
cùng chung vận mệnh, cùng chung mục đích chống lại cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam. Một nhân tố tăng cờng sự cấu kết giữa t sản mại bản,
đại địa chủ miền Nam là chính sách ruộng đất của đế quốc Mỹ, tạo nên xu h-
ớng mại bản hoá trong một số địa chủ.
Trớc kia, trong thời Pháp thuộc, đế quốc thực dân tạo nên chế độ
ruộng đất tập ở Nam Bộ nhằm mục đích thu mua nông phẩm với giá rẻ.

Riêng tầng lớp đại địa chủ chiếm hữu tới 34% diện tích cấy lúa, và mỗi năm
Pháp xuất cảng ngót 2 triệu tấn gạo.
Nhng trong kháng chiến, Nhà nớc dân chủ nhân dân đã tớc đoạt rất
nhiều ruộng đất của đại địa chủ và đem công điền thổ chia cho nông dân.
giai cấp địa chủ, nhất là bọn đại địa chủ, đã bị cách mạng đánh cho suy yếu
nhiều. Khi đế quốc Mỹ biến miền Nam thành thuộc địa, một mặt nó khôi
phục lại thế lực giai cấp địa chủ bằng cách cho địa chủ cớp lại ruộng đất mà
nông dân đã giành đợc, nhng mặt khác vì sự khủng hoảng của nền kinh tế
25

×