Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Một số đặc điểm giao tiếp của bác sĩ với bệnh nhân trong quá trình khám, chữa bệnh tại Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu và một số khoa Lâm sàng tại Bệnh viện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 124 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN ĐỨC THỊNH






MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM GIAO TIẾP CỦA BÁC SĨ VỚI BỆNH NHÂN
TRONG QUÁ TRÌNH KHÁM, CHỮA BỆNH TẠI TRUNG TÂM
Y HỌC HẠT NHÂN VÀ UNG BƯỚU VÀ MỘT SỐ KHOA LÂM
SÀNG TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Tâm lý học









Hà Nội, 2012


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN ĐỨC THỊNH





MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM GIAO TIẾP CỦA BÁC SĨ VỚI BỆNH NHÂN
TRONG QUÁ TRÌNH KHÁM, CHỮA BỆNH TẠI TRUNG TÂM
Y HỌC HẠT NHÂN VÀ UNG BƯỚU VÀ MỘT SỐ KHOA LÂM
SÀNG TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học
Mã số: 60 31 80




Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thu Hương





Hà Nội, 2012


4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 12
1.1. Tổng quan một số nghiên cứu về giao tiếp (GT) và đặc điểm
giao tiếp 12
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài 12
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam về giao tiếp và đặc điểm giao tiếp 14
1.2. Một số khái niệm cơ bản 17
1.2.1. Khái niệm về giao tiếp 17
1.2.1.1. Giao tiếp và hoạt động 17
1.2.2. Đặc điểm giao tiếp 22
1.3. Giao tiếp của bác sĩ trong quá trình khám chữa bệnh 29
1.3.1. Giao tiếp của bác sĩ với bệnh nhân 29
1.3.2. Đặc trưng của hoạt động khám chữa bệnh, và đặc điểm giao tiếp

của bác sĩ với người bệnh trong quá trình khám chữa bệnh. 32
1.3.2.1. Bác sĩ và người bệnh 32
1.3.2.2. Đặc trưng khám chữa bệnh của bác sĩ. 33
1.3.2.3. Đặc điểm giao tiếp của bác sĩ với người bệnh trong quá trình
khám chữa bệnh 37
CHƢƠNG II. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 42
2.1. Tổ chức nghiên cứu 42
2.1.1. Tổ chức nghiên cứu về mặt lý thuyết 42
2.1.2. Tổ chức nghiên cứu về mặt thực tiễn 42
2.1.3. Các bước nghiên cứu 42
2.2. Mẫu nghiên cứu 43
2.2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 43
2.2.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu 45


5
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu 45
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản tài liệu 45
2.3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 45
2.3.3. Phương pháp phỏng vấn sâu 46
2.3.4. Phương pháp quan sát 46
2.3.5. Phương pháp trắc nghiệm 47
2.3.6. Phương pháp thống kê toán học 47
CHƢƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 48
3.1. Một số đặc điểm giao tiếp của bác sĩ với ngƣời bệnh trong quá
trình khám chữa bệnh 48
3.1.1. Về nội dung giao tiếp 48
3.1.2. Phạm vi giao tiếp, thời điểm và mục đích giao tiếp của bác sĩ với
người bệnh 50
3.1.3. Kỹ năng giao tiếp của bác sĩ 63

3.1.4. Phong cách giao tiếp của bác sĩ với người bệnh. 77
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 84
1. Kết luận 84
2. Kiến nghị 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
PHỤ LỤC 83


6
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Nội dung giao tiếp của bác sĩ với bệnh nhân trong quá trình khám
chữa bệnh 48
Bảng 2: Phạm vi giao tiếp của bác sĩ với bệnh nhân 50
Bảng 3: Thời điểm giao tiếp của bác sĩ với người bệnh 55
Bảng 4. So sánh thời điểm giao tiếp theo giới 57
Bảng 5: Mục đích giao tiếp của bác sĩ với bệnh nhân 58
Bảng 6. So sánh sự khác nhau theo trình độ văn hóa của bác sĩ trong
mục đích giao tiếp với bệnh nhân. 61
Bảng 7. Tự đánh giá của bác sĩ về khả năng giao tiếp. 64
Bảng 8. Tự đánh giá kỹ năng giao tiếp với NB của BS 68
Bảng 9. So sánh kỹ năng giao tiếp của BS theo kinh nghiệm làm việc 70
Bảng 10. Những kỹ năng giao tiếp cần thiết trong quá trình khám bệnh. 73
Bảng 11: Những kỹ năng giao tiếp cần thiết trong quá trình chữa bệnh
(đi buồng) của BS. 74
Bảng 12: Biểu hiện phong cách giao tiếp của BS với NB (qua ý kiến đánh giá
của BS và NB) 78
Bảng 13: Đánh giá mức độ cần thiết các phẩm chất giao tiếp của BS với NB 80

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: So sánh phạm vi giao tiếp về kinh nghiệm lâm sàng của bác sĩ 53
Biểu đồ 2: Các nhóm kỹ năng trong giao tiếp. 70
Biều đồ 3: So sánh kỹ năng giao tiếp của bác sĩ về kinh nghiệm làm việc 70


7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là một trong những phương thức tồn tại xã hội của loài người.
Con người không thể sống, hoạt động và thể hiện các giá trị vật chất, tinh
thần của mình nếu không được giao tiếp. Thông qua giao tiếp, con người
không chỉ trao đổi thông tin, cảm xúc mà còn tri giác lẫn nhau. Do đó, giao
tiếp vừa là điều kiện thiết yếu để con người hoạt động, vừa là con đường để
mỗi người tự hoàn thiện nhân cách. Cùng với hoạt động, ý thức và nhân cách,
giao tiếp là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học tâm lý. Tâm lý
con người được hình thành, phát triển thông qua hoạt động và giao tiếp giữa
cá nhân này với cá nhân khác trong xã hội, giữa cá nhân với môi trường xung
quanh. Vì thế, giao tiếp có vai trò quan trọng trong đời sống của cá nhân và xã
hội. Trong nhiều công trình khoa học, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra vai trò
quan trọng của giao tiếp đối với đời sống cá nhân nói riêng và với cộng đồng
xã hội nói chung. Thực tế, giao tiếp cộng đồng tạo ra sự hiểu biết của mỗi bên
tham gia giao tiếp, tạo nên sự thu hút, hấp dẫn giữa các cá nhân với nhau, thúc
đẩy sự thích nghi và hòa nhập giữa các bên trong quá trình giao tiếp.
Nền Y học ngày nay ngày càng trở nên hiện đại, với mục tiêu bảo vệ và
chăm sóc con người toàn diện cả về sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần,
đòi hỏi người bác sĩ phải ngày càng được hoàn thiện cả về năng lực, kỹ năng và
phẩm chất nhân cách. Nói cách khác, người bác sĩ hiện đại không những phải
có trình độ cao về chuyên môn y học mà còn phải có đạo đức y học trong sáng.
Do vậy một trong những vấn đề luôn được xã hội quan tâm và liên quan mật
thiết đến đạo đức của người bác sĩ là sự ứng xử của họ đối với người bệnh.

Giao tiếp hợp lý, đúng hướng với người bệnh không những là điều kiện,
phương tiện cần thiết giúp cho người thầy thuốc chẩn đoán chính xác bệnh tật,
mà còn là một trong những liệu pháp tâm lý mang lại nhiều hiệu quả to lớn.

8
Nói cách khác, sự nghiệp đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu
ngày càng lớn đối với ngành Y tế, đòi hỏi người bác sĩ vừa phải có năng lực
chuyên môn y học cao, nhưng đồng thời vừa phải thiết lập mối quan hệ tốt đẹp
với người bệnh trong quá trình khám chữa bệnh. “Lương y như từ mẫu“ được
xem là một quy điều quan trọng trong y đức mà người thầy thuốc nào cũng
phải tuân thủ theo. Như vậy, có thể khẳng định, giao tiếp là phương tiện không
thể thiếu trong quá trình thăm khám chữa bệnh giữa người bệnh và bác sĩ. Điều
này thể hiện ở hoạt động trao đổi thông tin, tác động qua lại lẫn nhau mà trong
đó, bác sĩ chính là người tiếp xúc, giao tiếp trực tiếp với người bệnh. Mối quan
hệ trên đóng vai trò quan trọng trong việc làm thỏa mãn hay không thỏa mãn
nhu cầu điều trị bệnh của người bệnh, nhất là với những người bệnh ung bướu
và mắc bệnh hiểm nghèo. Đồng thời, cách ứng xử của y bác sĩ cũng được xem
là nhân tố quyết định xu hướng của các dịch vụ Y tế: người bác sĩ cần xem
người bệnh là khách hàng chứ không nên coi người bệnh theo kiểu ban cho.
Chính xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu
đặc điểm giao tiếp của bác sĩ trong quá trình giao tiếp và điều trị bệnh cho người
bệnh, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn.
Do đó, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là“Một số đặc điểm giao tiếp của bác sĩ
với bệnh nhân trong quá trình khám chữa bệnh tại Trung tâm Y học Hạt nhân và
Ung bướu và Một số khoa lâm sàng tại Bệnh viện Bạch Mai”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm làm rõ hơn lý luận về giao tiếp, đặc điểm giao tiếp
nói chung và đặc điểm giao tiếp với người bệnh của bác sĩ trong quá trình
khám chữa bệnh tại bệnh viện Bạch Mai.
Nghiên cứu cũng nhằm chỉ ra được một số đặc điểm giao tiếp của bác

sĩ với người bệnh trong quá trình khám chữa bệnh ở bệnh viện Bạch Mai.
Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp
và hiệu quả khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế ở Việt Nam.

9
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Một số đặc điểm giao tiếp giữa bác sĩ và bệnh nhân trong quá trình
khám chữa bệnh tại bệnh viện.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu.
- Làm rõ khái niệm công cụ của đề tài nghiên cứu: giao tiếp, đặc điểm
giao tiếp, mối quan hệ bác sĩ – người bệnh.
- Điều tra thực trạng giao tiếp đặc trưng giữa bác sĩ và người bệnh
trong quá trình khám chữa bệnh tại bệnh viện;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình giao
tiếp giữa bác sĩ và người bệnh; đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả khám
chữa bệnh tại các bệnh viện và cơ sở chăm sóc y tế.
5. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 80 bác sĩ đang làm việc trực tiếp tại
Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu (YHHN&UB) và tại một số khoa lâm
sàng của Bệnh viện Bạch Mai và 51 người bệnh đang điều trị tại bệnh viện.
- Ngoài ra chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn sâu 10 bác sĩ và 7 người
bệnh đang khám và chữa bệnh tại bệnh viện.
6. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một số đặc điểm giao tiếp giữa bác sĩ và người bệnh như:
- Mục đích giao tiếp
- Nội dung giao tiếp
- Phạm vi giao tiếp
- Thời điểm giao tiếp
- Kỹ năng, kỹ xảo giao tiếp

- Phong cách giao tiếp

10
Địa điểm nghiên cứu: Do thời gian có hạn nên tôi chỉ tập trung nghiên
cứu tại Trung tâm YHHN&UB và 4 khoa lâm sàng của Bệnh viện Bạch Mai.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Giao tiếp của bác sĩ với người bệnh trong quá trình khám chữa bệnh tại
bệnh viện là loại hình giao tiếp nghiệp vụ có đặc thù riêng, liên quan chặt chẽ
đến chất lượng và hiệu quả khám chữa bệnh. Vì vậy, để làm tăng hiệu quả
khám chữa bệnh cho người bệnh, các bác sĩ làm việc tại Trung tâm Y học hạt
nhân và Ung bướu và một số khoa lâm sàng của Bệnh viện Bạch Mai cần có
đặc điểm giao tiếp dân chủ và có một số kỹ năng căn bản trong giao tiếp với
người bệnh.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu và phân tích các tài
liệu, gồm: sách, báo, tạp chí liên quan tới giao tiếp, đặc điểm giao tiếp, quan
hệ bác sĩ – người bệnh của các tác giả trong và ngoài nước, nhằm xây dựng cơ
sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp nghiên
cứu chính của đề tài. Phiếu điều tra được thiết kế thành hai loại: phiếu đầu
tiên dành cho bác sĩ, phiếu thứ hai là dành cho người bệnh.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Đây là phương pháp bổ trợ cho
phương pháp nghiên cứu bảng hỏi. Phỏng vấn sâu 10 bác sĩ và 7 người bệnh
nhằm bổ sung thêm những thông tin còn thiếu trong điều tra bằng bảng hỏi.
- Phương pháp quan sát: Quan sát hành vi, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ,
ngôn ngữ biểu hiện giao tiếp của bác sĩ và người bệnh cùng người nhà
người bệnh. Quan sát không tham dự trong một buổi trò chuyện của các
người bệnh về các biểu hiện của mối quan hệ giao tiếp như: ngôn ngữ
được sử dụng, cử chỉ, điệu bộ, khoảng cách giao tiếp, sắc thái tình cảm.
Quan sát một tình huống giao tiếp trong trong quá trình khám chữa bệnh;


11
quan sát cách chào hỏi, cách sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ, khoảng
cách giao tiếp. Quan sát có tham dự, bản thân chúng tôi là người đi khám
bệnh. Qua đó quan sát cách chào hỏi, tiếp chuyện và thực hiện các nhiệm
vụ khám bệnh.
- Phương pháp thống kê toán học: sử dụng chương trình SPSS 16.0 để
xử lý định lượng các số liệu điều tra thu được từ bảng hỏi.


12
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan một số nghiên cứu về giao tiếp (GT) và đặc điểm
giao tiếp
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Vấn đề giao tiếp đã được con người chú ý nghiên cứu từ rất sớm.
Trong thời cổ đại, một số nhà Triết học đã đề cập tới vấn đề giao tiếp.
Socrate (470 – 399 TCN) và Platon (428 – 347 TCN) đã nói tới đối thoại
như là sự giao tiếp trí tuệ, phản ánh các mối quan hệ giữa con người và con
người.
Đến thời kì phục hưng, Leonard De Vinci (1452-1519), nhà bác học
kiêm nghệ sỹ thiên tài Ý, đã mô tả sự giao tiếp mẹ con.
Giữa thế kỉ XIX, trong “Bản thảo kinh tế - triết học” (1884), Karl Marx
(1818 – 1883) đã có tư tưởng về nhu cầu xã hội giữa con người với con
người: trong hoạt động xã hội và tiêu dùng xã hội, con người phải giao tiếp
thực sự với người khác. Karl Marx đã dùng khái niệm “giao tiếp vật chất” để
chỉ mối quan hệ sản xuất thực tiễn của con người.
Đầu thế kỷ XX, khi nghiên cứu và đề xuất ra phản xạ học, nhà triết học
Nga V.M. Bechterev (1857 – 1927), trong các tác phẩm “Tâm lý học khách

quan” (1907), “Phản xạ học tập thể” (1921)… đã đề cập nhiều đến vấn đề giao
tiếp. Chính từ sự ra đời của thuyết điều khiển học, nhiều công trình nghiên cứu
xuất hiện dựa trên lý thuyết thông tin, lý thuyết điều khiển của các tác giả
phương Tây. Vào những năm 70 ở Liên Xô (cũ), giao tiếp trở thành một phạm
trù cơ bản được thể hiện trong các công trình nghiên cứu của B.Ph. Lomov
(1978) với “giao tiếp là vấn đề của tâm lý học đại cương”, của A.A. Bodaliov
(1972) về “giao tiếp và những đặc trưng của nó trong công việc với con
người”, của A.A. Leonchiev (1974) “Tâm lý học giao tiếp” GT được phân

13
tích chi tiết trong tác phẩm “Vấn đề giao tiếp trong Tâm lý học” của B.Ph.
Lomov (1981). Tiếp sau đó, hàng loạt nghiên cứu về giao tiếp khác của K.K.
Platonov, A.L. Xolominxki, B.D. Parughin, G.M. Andreeva dưới góc độ của
tâm lý học đại cương và tâm lý học xã hội đã được thực hiện. Các công trình
nghiên cứu về giao tiếp trên có thể khái quát theo hai hướng cơ bản:
- Hướng thứ nhất: Nhấn mạnh khía cạnh thông tin trong giao tiếp
(K.K. Platonov, L.X. Vygotxki, X.L. Rubinstein, A.G. Covaliov, A.L.
Xolominxki, B.D. Parughin ). Có thể nhận thấy nội dung này trong một số
định nghĩa về giao tiếp của các tác giả như K.K. Platonov (“giao tiếp là sự
trao đổi thông tin giữa những con người với nhau”), A.G. Xpirkin (“giao
tiếp là một quá trình trao đổi ý nghĩ, tình cảm; kích thích ý chí với mục đích
người này điều khiển người kia”) Trong tác phẩm “Tâm lý học xã hội”,
G.M. Andreeva đã cho rằng giao tiếp có ba mặt quan hệ hữu cơ với nhau:
+ Thông tin
+ Tri giác của con người với nhau
+ Tác động qua lại của con người với nhau
- Hướng thứ hai: Bản chất của giao tiếp được xem xét trong hệ thống
khái niệm, phạm trù tâm lý học (A.A. Leonchiev, B.Ph. Lomov ) khi bàn về
giao tiếp và hoạt động.
A.A. Leonchiev xem giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động, có

đối tượng qua lại giữa chủ thể - chủ thể. B.Ph. Lomov xem giao tiếp là phạm
trù đồng đẳng với phạm trù hoạt động, biểu hiện sự tác động qua lại và
chuyển hóa lẫn nhau giữa chủ thể - chủ thể. Nhiều nhà tâm lý học như Đ.B.
Enconhin, A.A. Bodadiov, K.K. Platonov cho rằng: Hoạt động là quy luật
chung nhất của tâm lý học người. Giao tiếp là một dạng hoạt động phản ánh
mối quan hệ chủ thể- chủ thể. Hoạt động có đối tượng phản ánh mối quan hệ
chủ thể - khách thể. Hai khái niệm này ngang bằng nhau và có quan hệ gắn bó

14
khăng khít với nhau trong phạm trù hoạt động, là hai mặt thống nhất của cuộc
sống con người, của sự phát triển tâm lý.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài cho ta thấy cái
nhìn tổng thể nhất về các hướng tiếp cận trong tâm lý học khi nghiên cứu
về giao tiếp. Và có một số đặc điểm sau:
- Giao tiếp là sự trao đổi thông tin thể hiện mối quan hệ giữa người
với người trong xã hội.
- Thông qua giao tiếp, các cá nhân mở rộng các mối quan hệ xã hội,
tiếp thu và lĩnh hội tri thức để hình thành và phát triển nhân cách cá nhân.
Một khía cạnh quan trọng khác của quá trình giao tiếp là sự ảnh hưởng, tác
động lẫn nhau giữa các thành viên, xây dựng hình ảnh tinh thần của mỗi
người trong quan niệm của những người khác (nhân cách hóa ).
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam về giao tiếp và đặc điểm giao tiếp
Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp mới được nghiên cứu từ những năm 70
của thế kỷ XX. Ngoài một vài lý luận như “Karl Marx và phạm trù giao tiếp”
của Đỗ Long (1963), phần lớn các nghiên cứu tập trung ở khoa Tâm lý giáo
dục, trường đại học Sư phạm Hà Nội I, như các bài “giao tiếp, tâm lý, nhân
cách” (1981), “giao tiếp và sự phát triển nhân cách của trẻ” (1981), “Đặc
điểm giao tiếp của sinh viên sư phạm” (1985) của Trần Trọng Thủy, “Bàn về
phạm trù giao tiếp” (1981) của Bùi Văn Huệ, “Giao lưu và điều kiện tất yếu
của sự hình thành và phát triển tâm lý” (1988) của Phạm Minh Hạc, “Luyện

giao tiếp sư phạm”(1991) của Nguyễn Thạc và Hoàng Anh, “Kĩ năng giao
tiếp của sinh viên” (1991) của Hoàng Anh; “Vấn đề giao tiếp”(1992) -
Nguyễn Văn Lê; “giao tiếp sư phạm” (1992) – Ngô Công Hoàn; “Marketing
xã hội hay truyền thông giao tiếp”(1994) – Nguyễn Khắc Viện; “Vai trò của
giao tiếp trong quan hệ xã hội và quan hệ nhân cách” (1995)- Nguyễn Ngọc
Bích; “Tâm lý học giao tiếp” (1995) – Trần Tuấn Lộ; “giao tiếp sư phạm”
(1995) – Hoàng Anh, Vũ Kim Thanh; “Nhập môn khoa học giao tiếp” (1996)

15
– Trần Trọng Thủy, Nguyễn Sinh Huy; “giao tiếp và tâm lý” (2002) – Nguyễn
Quang Uẩn.
Giao tiếp là vấn đề rất quan trọng, đó là công cụ sống của con người,
giúp con người tồn tại và phát triển được. Chỉ qua giao tiếp con người mới trở
thành người đúng nghĩa.
Những năm gần đây, có thể thấy một số công trình nghiên cứu chuyên
sâu về giao tiếp, chẳng hạn: “Thực trạng khả năng giao tiếp của sinh viên sư
phạm tỉnh Sơn La” của Lê Thị Mai Thoan (Tạp chí Tâm lý học số 2/2005),
“Một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên với học sinh khi thực tập
tốt nghiệp” của Nguyễn Thị Thanh Bình (luận án PTS khoa học sư phạm –
tâm lý, 1995), “Kĩ năng giao tiếp nghiệp vụ của trinh sát an ninh và phương
pháp đánh giá chúng” của Võ Sỹ Lực (luận án TS Tâm lý học, 2002), “Quy
trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá với bạn cùng lứa tuổi cho học sinh
các lớp 4, 5 trường tiểu học” của Lưu Thu Thuỷ (luận án PTS khoa sư phạm
tâm lý, 1995) …
Ở khoa Tâm lý học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội, cũng có nhiều công trình nghiên cứu về giao tiếp,
nhưng tập trung cơ bản về các mảng: giao tiếp giữa sinh viên và giảng viên,
giao tiếp giữa quản giáo và tù nhân …Vấn đề giao tiếp giữa bác sĩ và người
bệnh nói chung và đặc điểm giao tiếp giữa hai chủ thể này nói riêng vẫn chưa
được quan tâm nghiên cứu.

Việc nghiên cứu giao tiếp ở Việt Nam có hai hướng nghiên cứu chính:
- Khẳng định bản chất tâm lý của giao tiếp.
Các tác giả Phạm Minh Hạc (1988), Nguyễn Ngọc Bích (1995), Ngô
Công Hoàn (1992), Nguyễn Thạc, Hoàng Anh (1992) đã xem giao tiếp như
là sự tiếp xúc tâm lý giữa hai hay nhiều người, thông qua đó, con người trao
đổi với nhau những về thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau, dựa vào phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Các tác giả này đã

16
khẳng định được bản chất tâm lý học của giao tiếp, chỉ ra các nội dung, hiệu
quả, phương tiện giao tiếp. Tuy chưa xác định một cách có hệ thống các đặc
điểm giao tiếp của con người, nhưng họ đã định hướng đúng đắn cho việc
nghiên cứu các đặc điểm đó.
- Xem giao tiếp là một tiến trình truyền đạt thông tin
Các tác giả Nguyễn Văn Lê (1992), Nguyễn Khắc Viện (1995), đã phân
tích, lý giải tiến trình truyền thông, trực quan hóa, cụ thể hóa này vào mô hình
sơ đồ; trong đó, chú ý tới các yếu tố tâm lý như tình cảm, nhận thức lẫn nhau,
tỉnh cởi mở, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp Tuy
chưa xác định một cách có hệ thống các đặc điểm của con người tham gia
truyền thông, nhưng họ đã định hướng cho việc xem xét chúng một cách cụ
thể và sâu sắc hơn.
Tóm lại, thông qua việc tìm hiểu một số nghiên cứu trên thế giới và
trong nước về vấn đề giao tiếp và đặc điểm của giao tiếp, chúng tôi rút ra một
số kết luận sau:
Giao tiếp là một dạng thức căn bản của con người và xã hội loài người.
Thông qua giao tiếp con người không chỉ truyền đạt về thông tin, cảm xúc mà
còn tri giác lẫn nhau.
Bên cạnh đó, giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con
người, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Đó là quá
trình hai mặt: 1 mặt cá nhân tiếp thu, lĩnh hội những kiến thức từ bên ngoài xã

hội; mặt khác, cá nhân đóng góp trở lại những suy nghĩ, quan điểm của bản
thân đối với xã hội thông qua giao tiếp.
Các tác giả cũng khẳng định bản chất tâm lý của giao tiếp, bởi có giao
tiếp mới xuất hiện nhu cầu, động cơ, xúc cảm giữa cá nhân với nhau trong
xã hội.
Chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu về một số đặc điểm giao tiếp của
bác sĩ với người bệnh hiện nay đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc

17
khám chữa bệnh tại bệnh viện, góp phần nâng cao sự tin tưởng của mỗi người
bệnh khi mà họ tìm đến mỗi bác sĩ.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm về giao tiếp
1.2.1.1. Giao tiếp và hoạt động
A.A. Leonchiev xem giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động có
đối tượng, biểu hiện sự tác động qua lại giữa chủ thể - chủ thể. B.Ph. Lomov
xem giao tiếp là một phạm trù đồng đẳng với phạm trù hoạt động, biểu hiện
sự tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau giữa chủ thể - chủ thể. Quan điểm
của hai ông được các nhà tâm lý như B. Enconhin, A. Bodaliov, K.
Platonnov… đánh giá và cho rằng ý kiến của 2 nhà tâm lý học trên đều có mặt
hợp lý và chưa hợp lý. A.A. Leonchiev khi bảo vệ quan điểm cho rằng giao
tiếp là dạng đặc biệt của hoạt động có đối tượng đã lý giải chưa xác đáng về
đối tượng động cơ, chủ thể của hoạt động này; trong khi đó, B.Ph. Lomov quá
nhấn mạnh tới phạm trù giao tiếp cũng đi đến chỗ khó giải thích một số
trường hợp giao tiếp tham gia vào hoạt động có đối tượng như là điều kiện
thiết yếu của hoạt động. Các nhà tâm lý học cho rằng: Hoạt động là quy luật
chung nhất của đối tượng tâm lý người. giao tiếp là một dạng hoạt động phản
ánh mối quan hệ chủ thể - chủ thể. Hoạt động có đối tượng phản ánh mối
quan hệ chủ thể - khách thể. Hai khái niêm này có mối quan hệ gắn bó khăng
khít với nhau trong phạm trù hoạt động, là hai mặt thống nhất của cuộc sống

con người. A.A. Leonchiev đã định nghĩa giao tiếp như sau: “giao tiếp là một
hệ thống những quá trình có mục đích và động cơ bảo đảm sự tương tác giữa
người này với người khác trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã
hội và nhân cách, các quan hệ tâm lý và sử dụng phương tiện đặc thù, mà
trước hết là ngôn ngữ.” [20. 5]
Các nhà tâm lý học Liên Xô cũ quan tâm tập trung vào nghiên cứu hiện
tượng giao tiếp. Có một số khái niệm được đưa ra như giao tiếp là sự liên hệ

18
và đối xử lẫn nhau; giao tiếp là quá trình chuyển giao tư duy và cảm xúc
(L.X. Vygotxki). Còn X.L. Rubinstein lại khảo sát giao tiếp dưới góc độ hiểu
biết lẫn nhau giữa người với người.
Trường phái hoạt động trong tâm lý học Xô Viết cũng đưa ra một số
khái niệm về giao tiếp như là một trong ba dạng cơ bản của hoạt động con
người, ngang với lao động và nhận thức (B.G. Annanhev); giao tiếp và lao
động là hai dạng cơ bản của hoạt động của con người (A.N. Leonchiev); và
giao tiếp là một hình thức tồn tại song song cùng hoạt động (B.Ph. Lomov).
Một nhà tâm lý học nổi tiếng khác, Fischer cũng đưa ra khái niệm về
giao tiếp của mình: giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên bao gồm
các dạng thức ứng xử rất khác nhau: Lời lẽ, cử chỉ, cái nhìn. Theo quan điểm
ấy, không có sự đối lập giữa giao tiếp bằng lời và giao tiếp không bằng lời:
giao tiếp là một tổng thể toàn vẹn.[15, 176]
Ở Việt Nam, theo “Từ điển tâm lý học” của Nguyễn Khắc Viện, “giao
tiếp là truyền đi, phát đi một thông tin từ một người hay một nhóm người cho
một người hay một nhóm người khác, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau
“tương tác”. Thông tin hay thông điệp được nguồn phát mà người nhận phải
giải mã, cả hai bên cùng vận dụng chung một mã.” [31. 133]
Trong giáo trình “Tâm lý học”, Phạm Minh Hạc định nghĩa: “giao tiếp
là hoạt động xác lập và vận hành các qua hệ người – người để hiện thực hóa
các qua hện xã hội người ta với nhau. Các quan hệ này có thể diễn ra giữa hai

nhân cách, trong nhóm, tổ, tập thể lớn, phân xưởng, nhà máy, một tổ chức
đoàn thể, giai cấp, dân tộc và cả cộng đồng người”. [11, 533]
Trong sách “Nhập môn về khoa học giao tiếp”, các tác giả Nguyễn
Sinh Huy và Trần Trọng Thủy lại định nghĩa giao tiếp như sau: “giao tiếp là
một quá trình có chủ định và không chủ định, có ý thức hoặc không có ý thức
mà trong đó các cảm xúc và tư tưởng được biểu đạt trong các thông điệp bằng
ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ”. [14,15]

19
Trong “giao tiếp sư phạm”, Ngô Công Hoàn cho rằng “giao tiếp chính
là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích trao đổi tư
tưởng tình cảm, vốn sống, kĩ năng nghề nghiệp”.[12, 37]
Trong “Tâm lý học xã hội” của Trần Thị Minh Đức, Hoàng Mộc Lan
định nghĩa giao tiếp như sau: “Giao tiếp là sự tiếp xúc trao đổi thông tin giữa
người với người thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, tư thế, trang phục.”[8, 145-146]
Phân tích những định nghĩa trên chúng tôi thấy có nhiều quan điểm
đồng nhất với định nghĩa giao tiếp trong sách “Tâm lý học đại cương” do
Nguyễn Quang Uẩn chủ biên: “giao tiếp là mối quan hệ của con người với
con người thể hiện sự tiếp xúc tâm lý giữa con người, thông qua đó con người
trao đổi về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua
lại với nhau”. [32, 65]
Trong “ Kĩ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên”, Hoàng Anh cho
rằng: “giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý, tạo lên qua hệ giữa hai hoặc nhiều người
với nhau, chứa đựng một nội dung xã hội - lịch sử nhất định, có nhiều chức
năng tác động, hỗ trợ cùng nhau: thông báo, điều khiển, nhận thức, hành động
và tình cảm… nhằm thực hiện một mục đích nhất định của một hoạt động
nhất địnhTrong “ Luyện giao tiếp sư phạm”, Nguyễn Thạc và Hoàng Anh cho
rằng giao tiếp có bốn dấu hiệu cơ bản sau:
+ Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù của con người, chỉ con người mới
có giao tiếp thực sự khi con người sử dụng ngôn ngữ và được thực hiện trong

xã hội loài người.
+ Giao tiếp là các thể hiện mối qua hệ một hay nhiều người khác trên
cơ sở các quan hệ kinh tế chính trị của xã hội.
+ Giao tiếp được thực hiện ở sự trao đổi thông tin, sự hiểu biết lẫn nhau
sự rung cảm và ảnh hưởng lẫn nhau.
+ Giao tiếp dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau giữa con người với
con người.

20
Trên cơ sở các dấu hiệu đó, hai tác giả trên đã định nghĩa giao tiếp như
sau: “giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối qua hệ giữa con người với con
người mà qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý và được biểu hiện ở các quá trình
thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau”
Trong “Sổ tay tâm lý”, giao tiếp được định nghĩa là “quá trình thiết lập
và phát triển tiếp xúc giữa các cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành
động. Giao tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông tin xây dựng
chiến lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác. Giao tiếp có
ba khía cạnh chính: Giao lưu, tác động tương hỗ và tri giác.
Trong “Giáo trình tâm lý học xã hội”, Nguyễn Ngọc Bích viết “giao tiếp là
sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều người thông qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao
đổi thông tin, tình cảm, hiểu biêt, tác động qua lại và điều chỉnh lẫn nhau”. Trong
“Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân”, Đỗ Long viết: “giao
tiếp là sự trao đổi kinh nghiệm, tri thức, kĩ năng và cũng là sự tác động qua
lại, ảnh hưởng tương hỗ và hiểu biết lẫn nhau”. Đỗ Long chi tiết hóa qua hệ
chủ thể - chủ thể trong giao tiếp thành 3 đại lượng:
+ Chủ thể cá thể - Chủ thể cá thể
+ Chủ thể tập thể - Chủ thể cá thể
+ Chủ thể tập thể - Chủ thể tập thể
Theo chúng tôi thì khái niệm này đã thể hiện được đặc điểm cơ bản –
bản chất của phạm trù giao tiếp.

Các nhà tâm lý học cấu trúc định nghĩa sự giao tiếp như sau: “ sự giao
tiếp là cơ chế truyền đạt những thông điệp về nhận thức hay tình cảm, thuộc
về ý thức hay vô thức, nhờ một mạng lưới hay một hệ thống truyền thông tin
giữa những người đối thoại” Theo các nhà tâm lý học ứng dụng, “ sự giao tiếp
được xem là một tập hợp các quá trình nhằm truyền đạt và tri giác các thái độ,
các niềm tin và các ý định, dựa vào bộ máy sinh học tâm lý chung của loài

21
người làm sao để cho các bên đối thoại hiểu được nhau và đạt được các mục
tiêu giao tiếp”
Các nhà tâm lý học nhân cách cho rằng, “giao tiếp là quá trình tác động
qua lại giữa người và người, thông quá đó sự tiếp xúc tâm lý được thực hiện
và các qua hệ lên nhân cách được cụ thể hóa”
Các nhà tâm lý học kinh doanh định nghĩa giao tiếp là “một quá trình
trong đó một kích thích dưới dạng một thông điệp, được một bộ phát truyền
đi, nhằm tác động và gây ra một hiệu quả khi đi tới một bộ thu”
Như vậy giao tiếp là một hiện tượng tâm lý phức tạp và nhiều mặt, ở
nhiều cấp độ khác nhau. Do đó, hiện nay, người ta đưa ra nhiều định nghĩa
khác nhau về giao tiếp. Có những định nghĩa thu hẹp khái niệm giao tiếp, có
những định nghĩa mở rộng khái niệm giao tiếp. Mỗi định nghĩa của mỗi tác
giả nêu ra đều dựa trên một quan điểm riêng và có hạt nhân hợp lý của nó.
Tuy nhiên, các nhà tâm lý học Macxit và phần lớn các nhà tâm lý học
Việt Nam đều có quan điểm chung là công nhận giao tiếp là sự tiếp xúc tâm
lý giữa người với người, trong đó có sự trao đổi tư tưởng, tình cảm tác động
lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Từ những định nghĩa này ta có thể rút ra được
những đặc điểm cơ bản của giao tiếp. Nếu xét giao tiếp với tư cách là một
phạm trù, đồng đẳng với hoạt động thì giao tiếp có những đặc điểm sau:
+ Giao tiếp là sự tiếp xúc về tâm lý (nhu cầu, mục đích, nhận thức…)
giữa hai hay nhiều người.
+ Trong giao tiếp diễn ra sự trao đổi thông tin, sự hiểu biết lẫn nhau, sự

rung cảm và ảnh hưởng lẫn nhau. Khi sự hiểu biết lẫn nhau càng trở nên sâu sắc,
mỗi người cũng đánh giá lại những kiến thức, kinh nghiệm của mình, có thể dẫn
đến sự thay đổi thái độ với nhau, với đối tượng được trao đổi và bàn luận.
+ Tính được nhận thức của giao tiếp thể hiện ra rằng, trước khi tiếp xúc
với nhau, mỗi chủ thể đều phải ý thức rõ ràng về mục đích, nội dung, phương
tiện mà mình sẽ dùng để thực thi các quá trình giao tiếp.

22
+ Giao tiếp luôn diễn ra trong những tình huống cụ thể với các phương
tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
+ Giao tiếp không chỉ là điều kiện mà còn là nội dung cơ bản của
hoạt động.
Trên cơ sở những dấu hiệu trên và đặt cơ sở cho việc nghiên cứu một số
đặc điểm giao tiếp của bác sĩ với người bệnh trong quá trình khám chữa bệnh,
chúng tôi hoàn toàn đồng ý với định nghĩa về giao tiếp mà tác giả Nguyễn
Quang Uẩn đưa ra: “Giao tiếp là mối quan hệ của con người với con người,
thể hiện sự tiếp xúc tâm lý mà thông qua đó con người trao đổi về thông tin,
về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau”.
1.2.2. Đặc điểm giao tiếp
Trong “Từ điển tiếng Việt”, đặc điểm được xem là nét riêng biệt nổi lên
của sự vật hiện tượng.[21. 283]
Đặc điểm giao tiếp là những nét riêng biệt nổi lên trong các chủ thể và
quá trình giao tiếp giữa các chủ thể. Giao tiếp có đặc điểm cơ bản như đã nêu
ở trên. Khi tham gia vào hoạt động, giao tiếp còn mang đặc điểm của hoạt
động. Tác giả Phạm Minh Hạc đã lý giải mối quan hệ giao tiếp và hoạt động
như sau: “Hoạt động là quy luật chung nhất của tâm lý học người. Giao lưu
cũng là hoạt động, giao lưu có cấu trúc và đặc điểm cơ bản của một hoạt
động. Giao lưu và hoạt động có quan hệ khăng khít với nhau, có thể diễn ra
hai cách. Cách thứ nhất, giao lưu diễn ra như một điều kiện để tiến hành các
hoạt động khác. Cách thứ hai, giao lưu diễn ra như một hoạt động độc lập,

hay nói đúng hơn như là một dạng hoạt động người, như là một hoạt động lao
động, hoạt động nhận thức.”[27. 53]
Các đặc điểm giao tiếp trong hoạt động gồm 3 nhóm:
 Chủ thể hoạt động có các đặc điểm giao tiếp – đặc điểm hoạt động
sau: Nhu cầu giao tiếp, nhận thức trong giao tiếp, các phẩm chất nhân cách
trong giao tiếp, phong cách giao tiếp, kĩ năng giao tiếp.

23
 Đối tượng hoạt động có các đặc điểm giao tiếp - đặc điểm hoạt động
sau: Nhu cầu giao tiếp, nhận thức trong giao tiếp, các phẩm chất nhân cách
trong giao tiếp, phong cách giao tiếp, kĩ năng giao tiếp. Khi đối tượng hoạt
động là nhóm hoặc tập thể, nó còn có một số yếu tố tâm lý xã hội trong giao
tiếp (tâm lý giới, dư luận xã hội, tâm lý nghề nghiệp…)
 Sự tác động qua lại giữa chủ thể hoạt động và đối tượng hoạt động
tạo nên quá trình hoạt động – quá trình giao tiếp, có các đặc điểm giao tiếp –
đặc điểm hoạt động sau: Mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp, hình thức
giao tiếp, hiệu quả giao tiếp.
Quá trình giao tiếp, nhất là nội dung giao tiếp, phải thể hiện được mối
quan hệ với nhau, nhận thức lẫn nhau, hoạt động cùng nhau, giữa các chủ thể
giao tiếp. Khi nghiên cứu đặc điểm giao tiếp của chủ thể hoạt động, cần xét
chúng trong mối quan hệ với các đặc điểm giao tiếp của đối tượng hoạt động
và quá trình hoạt động. Đặc điểm giao tiếp của chủ thể hoạt động là những nét
riêng biệt có giá trị hoạt động nổi lên ở nó trong quá trình giao tiếp với đối
tượng hoạt động. Chủ thể hoạt động, chủ thể giao tiếp có các đặc điểm giao
tiếp, đặc điểm hoạt động sau: Nhu cầu giao tiếp, nhận thức trong giao tiếp,
mục đích giao tiếp, các phẩm chất nhân cách trong giao tiếp, phong cách giao
tiếp, kỹ năng giao tiếp, nội dung giao tiếp, hình thức giao tiếp, một số yếu tố
tâm lý xã hội của đối tượng hoạt động trong giao tiếp, hiệu quả giao tiếp.
Những đặc điểm giao tiếp của chủ thể hoạt động này là sự cụ thể hóa các đặc
điểm cơ bản của phạm trù giao tiếp.

Như vậy giao tiếp có những đặc điểm cơ bản sau:
- Mục đích trong giao tiếp: Trước khi giao tiếp, chủ thể luôn đặt ra một
số mục đích nhất định. Đó là sự hình dung trước kết quả giao tiếp của chủ thể
giao tiếp. Chủ thể này giao tiếp với chủ thể khác nhằm trao đổi thông tin,
nhận thức tình cảm và có ảnh hưởng tới họ.

24
- Nhận thức trong giao tiếp: Để mã hóa các thông tin cần truyền đạt và
giải mã các thông tin phản hồi, chủ thể giao tiếp cần có các tri thức về mình
về người khác, về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, pháp luật,
chuyên môn nghề nghiệp và thực tiễn mối quan hệ giao tiếp.
- Các phẩm chất nhân cách trong giao tiếp: Các phẩm chất tham gia
vào trong giao tiếp, làm cho giao tiếp có những đặc trưng riêng biệt và độc
đáo.
+ Tính mục đích: Những thuộc tính tâm lý biểu hiện thái độ quyết tâm,
kiên trì và nỗ lực cố gắng của chủ giao tiếp trong việc đạt mục tiêu đề ra.
+ Tính tự chủ: Những thuộc tính tâm lý biểu hiện sự kiềm chế các cảm
xúc và hành vi không có lợi cho giao tiếp của chủ thể.
+ Tính trung thực: Những thuộc tính tâm lý biểu hiện sự giao tiếp với
thái độ thẳng thắn, thật thà, chân thành của chủ thể giao tiếp.
+ Tính nhân nghĩa: Là những thuộc tính tâm lý biểu hiện sự giao tiếp
vừa có tình vừa có nghĩa, phù hợp với đạo đức nền tảng của con người của
chủ thể giao tiếp.
+ Tính tự tin: Những thuộc tính tâm lý biểu hiện sự tin tưởng của chủ
thể giao tiếp vào bản thân trong giao tiếp.
+ Tính dân chủ: Những thuộc tính tâm lý biểu hiện thái độ tôn trọng và
lắng nghe để phát huy ý kiến của mọi người của chủ thể giao tiếp.
+ Tính đồng cảm trong giao tiếp: Những thuộc tính tâm lý biểu hiện sự
giao tiếp với thái độ tự nguyện, tự giác và sự nỗ lực cố gắng đặt mình vào vị
trí, điều kiện hoàn cảnh cụ thể, đặc điểm tâm lý đã được xác định của chủ thể

giao tiếp với mình để ứng xử phù hợp. Trong giao tiếp tính đồng cảm là phẩm
chất nhân cách, là hạt nhân của chủ thể giao tiếp. Vì nó là điều kiện quan
trọng nhất để thực hiện hiệu quả trong giao tiếp.
+ Tính cởi mở: Là những thuộc tính tâm lý biểu hiện sự giao tiếp với thái
độ, cởi mở, vui vẻ của chủ thể giao tiếp dựa trên những hiểu biết lẫn nhau.

25
+ Tính quyết đoán: Phẩm chất thể hiện ý chí quyết tâm trong giao tiếp
của chủ thể.
- Phong cách giao tiếp: Trong giao tiếp, mỗi chủ thể đều có những đặc
trưng riêng.
+ Phong cách độc đoán: Chủ thể giao tiếp với chủ thể giao tiếp khác
bằng tính độc đoán của mình.
+ Phong cách tự do: Chủ thể giao tiếp với chủ thể giao tiếp khác theo
tính linh hoạt quá mức của mình.
+ Phong cách dân chủ: Chủ thể giao tiếp với chủ thể giao tiếp khác
bằng tính dân chủ và sự đồng cảm của mình.
+ Phong cách quyết đoán: Chủ thể giao tiếp với chủ thể giao tiếp khác
bằng tính quyết đoán.
Tùy vào từng mục đích, nội dung, tình huống và các đặc điểm của chủ
thể giao tiếp với mình; chủ thể giao tiếp sử dụng tính sáng tạo và sự linh hoạt
các phong cách giao tiếp.
- Kỹ năng giao tiếp: Để truyền tải thông tin tới chủ thể giao tiếp khác,
chủ thể giao tiếp sử dụng các nhóm kỹ năng giao tiếp sau:[30, 21- 22]
+ Nhóm kĩ năng định hướng: Kỹ năng định hướng trước khi giao tiếp
(lập kế hoạch giao tiếp): Xác định mục tiêu giao tiếp, chuẩn bị nội dung,
thông tin cần trao đổi, hiểu rõ chủ thể giao tiếp với mình. Kỹ năng định
hướng trong quá trình giao tiếp: Qua những dấu hiệu bề ngoài của chủ thể
giao tiếp với mình, chủ thể giao tiếp đánh giá đúng bản chất, sự thay đổi
chân dung tâm lý của họ để điều chỉnh nội dung, thông tin và có cách truyền

đạt thông tin kịp thời.
+ Nhóm kỹ năng định vị: Kỹ năng xác định vị trí của mình trong cơ cấu
tổ chức: chủ thể giao tiếp phải xác định rõ, chức danh, vai trò, lợi ích, quyền
lực của mình khi giao tiếp với chủ thể khác. Chủ thể giao tiếp đạt mình vào vị

26
trí, điều kiện hoàn cảnh cụ thể, để từ đó có những tác động phù hợp, sáng tạo
đến chủ thể giao tiếp khác. Kỹ năng xác định không gian và thời gian giao
tiếp, xác định đúng vị trí, chỗ ngồi, ước lượng chính xác thời gian, trang bị
đầy đủ các phương tiện cho giao tiếp của nhóm.
+ Nhóm kỹ năng điều khiển: Kỹ năng bình tĩnh tự chủ, chủ thể giao tiếp
biết kìm nén các cảm xúc không có lợi trong giao tiếp. Kỹ năng sử dụng
phương tiện giao tiếp, chủ thể giao tiếp biết dùng lời nói rõ ràng, dễ hiểu,
truyền cảm, điệu bộ cử chỉ tự nhiên, hấp dẫn. Kỹ năng lắng nghe, chủ thể giao
tiêp im lặng để lắng nghe, chỉ nói khi thật thấy cần thiết, biết khuyến khích
chủ thể giao tiếp với mình, nói bằng thái độ đồng cảm, thấu hiểu, biết đánh
giá thông tin một cách khách quan.
Trong các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tạo sự đồng cảm, kỹ năng sử dụng
phương tiện giao tiếp và kỹ năng lắng nghe là 3 kỹ năng quan trọng nhất.
- Nội dung giao tiếp: Thông qua giao tiếp, các chủ thể truyền đạt và
trao đổi thông tin, tình cảm, nhận thức… Để đặt nền tảng cho cơ sở nghiên
cứu những đặc điểm giao tiếp trong quá trình khám chữa bệnh, tôi đi vào quá
trình truyền đạt và tiếp nhận thông tin là nội dung cơ bản của giao tiếp.[17,
26- 174]
Rất nhiều nhà tâm lý học phương Tây đã phân tích quá trình truyền
thông trong giao tiếp của con người. Họ cho rằng: Truyền thông là một tiến
trình bao gồm các nhân tố: Người phát, thông điệp, các kênh, người nhận, kết
quả, nhiễu, sự phản hồi, hoàn cảnh. Họ đã diễn tả quá trình này bằng mô hình
sau [33, 52].

×