Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ PHƯỢNG
YẾU TỐ TỰ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA MA VĂN KHÁNG
(Qua Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược
dòng nước lũ, Một mình một ngựa)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội-2013
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ PHƯỢNG
YẾU TỐ TỰ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA MA VĂN KHÁNG
(Qua Đám cưới không có giấy giá thú,
Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Bá Thành
Hà Nội-2013
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
4. Phương pháp nghiên cứu 13
5. Đóng góp của luận văn: 14
6. Bố cục khoá luận 14
PHẦN NỘI DUNG 15
Chƣơng 1. TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG TRONG NỀN
TIỂU THUYẾT ĐƢƠNG ĐẠI VIỆT NAM 15
1.1 Tổng quan về tiểu thuyết đương đại Việt Nam 15
1.2 Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam
đương đại 18
1.3 Nhận diện tiểu thuyết có khuynh hướng tự thuật của Ma Văn Kháng
và tiểu thuyết tự thuật 22
1.3.1 Tự thuật là gì? 22
1.3.2 Phân biệt một số khái niệm 26
1.3.3 Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ,Một mình
một ngựa như những tiểu thuyết tự thuật ? 37
Chƣơng 2. YẾU TỐ TỰ THUẬT QUA CÁC NHÂN VẬT TRUNG TÂM
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG 42
2.1 Mối quan hệ giữa hồi kí với tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá
thú, Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng 42
2.2 Cái tôi cá nhân trong tiểu thuyết có yếu tố tự thuật của 44
2.2.1 Quan niệm về cái tôi trong tiểu thuyết có yếu tố tự thuật 45
2.2.2 Sự khám phá cái tôi trong tiểu thuyết có yếu tố tự thuật 49
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
4
2.3 Sự thể hiện cái tôi sáng tạo của nhà văn trong tiểu thuyết Đám cưới
không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa 64
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT 74
3.1 Điểm nhìn và ngôi kể 74
3.1.1 Trần thuật từ ngôi thứ ba và sự biểu thị sắc thái đánh giá 75
3.1.2 Trần thuật từ ngôi thứ nhất, thứ hai và sự đa dạng hóa điểm nhìn 81
3.2 Ngôn ngữ trần thuật 85
3.2.1 Ngôn ngữ đậm chất sinh hoạt đời thường 85
3.2.2 Ngôn ngữ giàu chất thơ 90
3.3 Giọng điệu trần thuật 93
3.3.1 Giọng điệu trữ tình, hoài niệm 94
3.3.2 Giọng điệu triết lí, suy tư 98
3.3.3 Giọng điệu mỉa mai, suồng sã 107
KẾT LUẬN 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO 117
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Ma Văn Kháng là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học Việt
Nam đương đại. Gần tám mươi tuổi đời và trên năm mươi năm cầm bút, với
tinh thần miệt mài, cần mẫn, với niềm say mê, đau đáu với nghề, Ma Văn
Kháng thực sự “giàu có” trong khu vườn văn chương của mình: với gần hai
chục tiểu thuyết, trên hai trăm truyện ngắn, và một hồi kí văn chương đầy đặn
đã phần nào đáp ứng lòng mong mỏi của không chỉ đồng nghiệp mà cả với
đông đảo công chúng yêu văn chương ông. Có thể nói văn chương của Ma Văn
kháng luôn thấm đẫm chất đời và mang hơi thở cuộc sống, nó không chỉ in
đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của nhà văn, mà ngay từ khi ra đời nó đã dự
báo tính thời đại của đời sống văn học và tinh thần nhân văn mới mẻ.
Có được điều này là do văn chương của nhà văn được khơi từ mạch
nguồn ấm áp của chính cuộc sống. Mỗi trang viết của ông không chỉ thấm
đẫm những quan niệm nhân sinh, thế sự mà dường như soi thấu tâm can, gan
ruột con người, mỗi tác phẩm vừa là tiếng nói đồng cảm, sẻ chia với nỗi đau
khổ của con người vừa đấu tranh quyết liệt cho cái đẹp, cái thiện ở cuộc đời.
Thành tựu của Ma Văn Kháng kết tinh ở hai thể loại: tiểu thuyết và
truyện ngắn. Đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết, từ tác phẩm đầu tiên Đồng bạc
trắng hoa xoè(1979) cho đến tác phẩm gần nhất Chuyện của Lý(6/2013), Ma
Văn Kháng luôn tỏ ra là một cây bút vững vàng, sung sức Nhà văn cũng là
người đoạt nhiều giải thưởng có giá trị trong và ngoài nước. Những giải
thưởng ấy chính là sự ghi nhận đóng góp của Ma Văn Kháng vào văn học
Việt Nam đương đại. Nhiều tiểu thuyết của ông đã được chuyển thể thành
kịch bản văn học và dựng thành phim như: Mùa lá rụng trong vườn, Đám
cưới không có giấy giá thú
Ma Văn Kháng cũng là một trong số những nhà văn đi tiên phong trong
công cuộc đổi mới văn học. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông giống như một
nam châm có sức mạnh kì lạ thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình và
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
6
độc giả. Tìm hiểu về Ma Văn Kháng, đặc biệt là qua các tác phẩm của ông -
giống như “chìa khoá” - người ta có thể hé mở cánh cửa nhỏ bé để khám phá
một thế giới sáng tạo rộng lớn, thế giới của một trong số những nhà văn đi
tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học.
Văn học Việt Nam từ sau 1975 mới có những chuyển biến và thay đổi
căn bản trên nhiều phương diện. Quan sát sự vận động trong thời gian qua
chúng tôi nhận thấy một khuynh hướng thể hiện khá rõ sự đổi mới trong tư
duy nghệ thuật, đó là tiểu thuyết có yếu tố tự thuật. Đây là vấn đề rất đáng lưu
ý bởi nó gắn liền với sự hình thành và phát triển của cái tôi chủ thể sáng tạo:
từ cái tôi ẩn tàng trong văn học truyền thống đến sự trỗi dậy của “thời đại chữ
tôi” trong văn học 1930 – 1945, cái tôi tự nguyện hòa vào cái ta ở văn học
kháng chiến và bây giờ là cái tôi có nhu cầu tách khỏi cái ta ở văn học đương
đại. Yếu tố tự thuật đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn học đương đại.
Khuynh hướng này có mối liên hệ sâu sắc với những đặc điểm chủ yếu của
quá trình đổi mới văn học sau 1986, nó thể hiện rõ nét cảm hứng tự vấn, tự
nhận thức lại đời sống, hướng đến số phận cá nhân và cái tôi của nhà văn
trong hàng loạt tác phẩm. Và không nằm ngoài sự vận động đó, một số tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng cũng mang đậm dấu ấn tự thuật.
Là thể loại năng động nhất, mà nòng cốt chưa rắn lại và chưa thể dự
đoán hết được những khả năng uyển chuyển của nó, tiểu thuyết Việt Nam
đương đại luôn có những biến đổi không ngừng, đa dạng về phong cách và
khuynh hướng sáng tác. Tại đây ta bắt gặp một vấn đề có tính chất lý luận
rằng: Vì sao thể tự truyện ở nước ta ít có cơ hội phát triển trong khi tiểu
thuyết mang yếu tố tự thuật lại xuất hiện khá nhiều, nhất là từ giai đoạn sau
đổi mới? Vì sao so với tiểu thuyết tự thuật nước ngoài, các tiểu thuyết Việt
Nam khi nói về chuyện đời tư lại ít lựa chọn cách trần thuật ở ngôi thứ nhất
và thường giấu đi mối liên hệ giữa cái tôi tiểu sử và tác phẩm trước sự “tò
mò” của độc giả. Hiện trạng này khiến không ít người đọc nghi ngờ: liệu cứ
khai thác mãi cái tôi của mình, thế giới xung quanh mình, phải chăng nhà văn
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
7
đang dần đi vào ngõ cụt? Với các cây bút mới vào nghề, phải chăng vì họ
thiếu vốn sống và chưa đủ tầm để quan tâm đến với những vấn đề lớn của thời
đại? Những tranh luận của giới nghiên cứu phê bình xung quanh hiện tượng
tiểu thuyết mang yếu tố tự thuật gợi ra nhiều suy nghĩ về đặc trưng của văn
học đương đại nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Liệu lối viết tiểu thuyết có
bị ảnh hưởng hay không khi nhà văn sử dụng chất liệu đời tư và trải nghiệm
cá nhân vào trong tác phẩm? Chắc chắn khi nhà văn đưa yếu tố tự thuật vào
tác phẩm với dụng ý và mục đích riêng, anh ta sẽ bị chính sự lựa chọn của
mình chi phối. Nhưng vấn đề là sự chi phối ấy diễn ra như thế nào, nó sẽ làm
tăng sức hấp dẫn hay làm suy giảm chất lượng nghệ thuật của tác phẩm? Hơn
nữa, việc tìm hiểu yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng qua
một số tiểu thuyết tiêu biểu mà chúng tôi sẽ tiến hành sau đây cũng liên quan
đến bản chất thể loại và sự mờ nhòe ranh giới thể loại đang diễn ra ngày một
mạnh mẽ; liên quan đến nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết đương đại như người
kể chuyện, điểm nhìn trần thuật và diễn ngôn tiểu thuyết. Điều này đã và đang
chiếm được sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu lý luận phê bình và
bạn đọc. Trong luận văn này, trên cở sở những gợi dẫn của giới nghiên cứu
văn học về tiểu thuyết tự thuật, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu yếu tố tự thuật
trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng qua Đám cưới không có giấy giá thú,
Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa nhằm rút ra những đặc điểm của nó,
từ đó thấy được sự phát triển về tư duy nghệ thuật tiểu thuyết.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề tự thuật
Khái niệm tự thuật hoàn toàn không phải là một khái niệm mới, nó đã
được nhắc tới trong các cuốn từ điển khác nhau tiêu biểu như “Từ điển tri
thức văn hoá” với định nghĩa của E.D.Hirsch: “Tự thuật là một tác phẩm văn
học viết về chính cuộc đời nhà văn”, hay một định nghĩa rộng hơn của
M.H.Abrams “tự thuật là tiểu sử được một người viết về chính bản thân anh ta
hoặc cô ta” (vấn đề định nghĩa này sẽ được nói rõ ở phần sau).
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
8
Dựa trên những tài liệu thu thập được từ mạng Internet, chúng tôi thấy
rằng vấn đề tự thuật và các công trình nghiên cứu về nó hoàn toàn không phải
là điều “một sớm một chiều”. Chúng tôi tìm thấy những tác phẩm nghiên cứu
thực sự sâu sắc và phân tích kĩ lưỡng về vấn đề này như: Giao ước tự thuật
(Philippe Lejeune), Những vấn đề tự truyện (J.Borel), Đổi mới tiểu thuyết
bằng tự truyện (P.Boisdeffre). Đây là mảng tư liệu ngoại văn quan trọng rất
có giá trị về vấn đề tự thuật. Tuy nhiên do trình độ ngoại ngữ có hạn, chúng
tôi không thể tìm hiểu một cách đầy đủ về các công trình kể trên. Vì vậy, ở
phần dưới đây, chúng tôi xin được đi sâu hơn để tìm hiểu mảng tư liệu tiếng
Việt về các vấn đề tự thuật liên quan trực tiếp đến đề tài.
Đầu tiên, trong cuốn sách mang tên Con đường đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn tác giả Nguyễn Đăng Mạnh đã nhắc tới khái niệm “cái
tạng” (temperament - sở trường riêng, phong cách riêng mỗi nhà văn). Ông
khẳng định “nếu coi mỗi tác phẩm văn chương là một lần nhà văn tìm đường
bày tỏ mình, thì quá trình hình thành, vận động và phát triển của tư tưởng
nghệ thuật mỗi nhà văn cũng đồng thời là quá trình nhà văn tự giải đáp câu
hỏi: Tôi là ai?” [47; 56]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng chỉ ra các
căn cứ để khảo sát và tìm hiểu thế giới nghệ thuật và con người nhà văn thể
hiện trong tác phẩm, với những luận chứng và kiến giải rất rõ ràng. Mặc dù
không trực tiếp nêu tên thuật ngữ “tự thuật” nhưng cách lí giải của tác giả đã
gián tiếp đề cập đến vấn đề nghiên cứu của chúng tôi.
Ngoài ra các bài viết của hai tác giả: Lê Hồng Sâm với bài viết “Tuổi
thơ” của Nathalie Sarraute và đổi mới thể tài tự thuật (Tạp chí Văn học, số
11/1997) và Đặng Thị Hạnh với bài Tự thuật và tiểu thuyết Pháp ở thế kỉ XX
(Tạp chí Văn học, số 5/1998) cũng rất đáng được quan tâm. Các tác giả này
đều dành phần đầu bài nghiên cứu để đi sâu hơn vào tìm hiểu vấn đề tự thuật
trong tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX. Năm 2001, với Chuyên luận Đổi mới nghệ
thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào trong
“Lời mở” đã có đề cập đến vấn đề tự truyện, giải thích lí do về “một thế giới
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
9
đầy đổ vỡ và hoài nghi, một thế giới những con số, của những thông tin, về
nguyên tử, của nhịp sống công nghiệp, xã hội tiêu dùng, thời đại kĩ trị” [11;
11] chính là nguyên nhân trực tiếp để các nhà tiểu thuyết hiện đại chối bỏ
“thực tại bên ngoài” để đi sâu hơn và tìm về với “thế giới bên trong” của bản
thân mình.
Cũng quan tâm tới vấn đề tự thuật - xuất hiện ngày càng dày đặc đến
mức trở thành một “yếu tố hiện thân” của nền tiểu thuyết hiện đại, tác giả
Phùng Văn Tửu cũng đã dành hẳn một phần trong Tiểu thuyết Pháp những
tìm tòi đổi mới để bàn về thể loại mang tên “tiểu thuyết- thú nhận”.
Như vậy, qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu chúng tôi thấy
rằng khái niệm tự thuật ngày càng thu hút được sự quan tâm của giới nghiên
cứu, phê bình trong và ngoài nước.
2.2 Lịch sử nghiên cứu về Ma Văn Kháng
Đánh giá một cách tổng quát trên cơ sở tìm hiểu khảo sát nguồn tư liệu
nghiên cứu về tác giả Ma Văn Kháng có thể thấy rằng: Ma Văn Kháng là một
trong số những tác giả văn học đương đại được bạn đọc và giới phê bình
nghiên cứu quan tâm chú ý tìm hiểu. Trong đó có nhiều công trình nghiên cứu
mang tính chất gợi ý về nội dung, nghệ thuật mà luận văn sẽ triển khai. Ở đây
chúng tôi xin lưu ý tới một số công trình tiêu biểu.
2.2.1 Giai đoạn trước Đổi mới 1986
Các bài viết cho thấy, ở giai đoạn này, ngòi bút của Ma Văn Kháng chủ
yếu hướng về đề tài miền núi, vì thế tiểu thuyết của Ma Văn Kháng được nhìn
nhận đánh giá chủ yếu ở phương diện “chất miền núi” trong sáng tác của ông.
Có thể kể đến ý kiến của Trần Đăng Suyền trong Đọc Đồng bạc trắng hoa
xoè, Tạp chí Văn nghệ, số 49/1979; Nguyễn Văn Toại trong Về một vài biểu
hiện đặc điểm dân tộc qua một số tiểu thuyết miền núi, Tạp chí Văn học, số
4/1981; Trần Bảo Hưng Ma Văn Kháng với tiểu thuyết Vùng biên ải, Tiền
phong, số 21/1984; Lê Thành Nghị Đọc Vùng biên ải của Ma Văn Kháng,
Tạp chí Văn học số 2/1985;
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
10
Về cơ bản, như trên đã nói, ý kiến của giới nghiên cứu phê bình rất chú
ý đến thế mạnh của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết về đề tài dân tộc miền
núi. Khẳng định Ma Văn Kháng là một trong những cây bút chủ lực của Văn
học Việt Nam hiện đại ở mảng đề tài này.
Giữa hai giai đoạn sáng tác trước và sau Đổi mới có một tác phẩm của
Ma Văn Kháng được đánh giá là “tiền đổi mới”, theo nhà nghiên cứu Phong
Lê, đó chính là Mưa mùa hạ, 1982. Với tác phẩm này, Ma Văn Kháng đã thực
sự bước sang một giai đoạn mới trong sáng tác.
2.2.2 Giai đoạn sau Đổi mới 1986
Các sáng tác của Ma Văn Kháng ở giai đoạn này đã có sự vận động từ
đề tài đến cảm hứng sáng tác, điểm nhìn trần thuật, nhân vật, ngôn ngữ. Từ
đề tài dân tộc miền núi đậm chất sử thi, Ma Văn Kháng hướng tới đề tài thế
sự đời tư gắn với không gian nghệ thuật thành thị và con người cá nhân.
Cảm hứng sáng tác vận động theo hướng nghiên cứu phân tích. Nhân vật
trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng được xây dựng chủ yếu ở phương diện tâm
lí, phản ánh đời sống tâm hồn với những mâu thuẫn, những suy nghĩ về cuộc
đời con người.
Và qua các công trình nghiên cứu tiêu biểu của giai đoạn sáng tác này,
có thể kể đến tác giả Trần Cương trong bài viết Mùa lá rụng trong vườn - Một
đóng góp mới của Ma Văn Kháng, Báo Nhân dân chủ nhật, số 6/1985; Trần
Bảo Hưng Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề của đời sống gia đình
hôm nay, Báo Phụ nữ Việt Nam số 17/1986; Hồng Diệu Về tiểu thuyết Đám
cưới không có giấy giá thú, Báo Người giáo viên nhân dân, số 1/1990; Trần
Bảo Hưng Đám cưới không có giấy giá thú hay là những nghịch lí đau xót
của thực tại, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 6/1990; Nguyễn Thị Huệ Đổi mới
tư duy nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 1980, Tạp
chí Văn học, số 2/1999; Lê Văn Chính Đặc điểm tiểu thuyết viết về đề tài
thành thị của Ma Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm,
Hà Nội, 2004; Đỗ Phương Thảo Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
11
Kháng, NXB Văn học, 2008; Nguyễn Thị Huệ Văn xuôi khơi nguồn đổi mới,
NXB Công an nhân dân, 2009;
Về cơ bản, qua khảo sát các ý kiến đều thống nhất đánh giá Ma Văn
Kháng đã có những đổi mới khá mạnh dạn trong tư duy nghệ thuật về cuộc
sống con người. Nhà văn từ cái nhìn sử thi đã hướng đến cái nhìn tiểu thuyết
nhằm tiếp cận đời sống ở bình diện sinh hoạt thế sự.
Như vậy thông qua việc thống kê và khảo sát sơ bộ các mảng tư liệu
khác nhau, chúng tôi thấy rằng Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn
đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Sự nghiệp văn học của nhà
văn này thu hút được rất nhiều sự quan tâm của độc giả và giới phê bình. Vấn
đề “Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng” dù được một số nhà
nghiên cứu nhắc đến ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, nhưng chưa được
nghiên cứu sâu và triệt để, trên thực tế vẫn còn nhiều khoảng trống dành cho
việc nghiên cứu của chúng tôi. Bởi vậy, một công trình nghiên cứu toàn diện
và có hệ thống về “Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng” thiết
nghĩ là thực sự cần thiết và hữu ích. Với chúng tôi, nó là một bước giúp hiểu
sâu sắc hơn về các tác phẩm của nhà văn đồng thời là một bước “nối dài nấc
thang” để tìm hiểu rõ hơn chân dung một trong những nhà văn đi tiên phong
trong công cuộc đổi mới nền văn học hiện đại Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Xác định dề tài và đối tượng nghiên cứu
Với đề tài “Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng qua
Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa”,
chúng tôi muốn từ điểm quy chiếu đối sánh giữa chân dung nhà văn Ma Văn
Kháng (trong cuốn hồi kí Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương) với
hình ảnh của ông được thể hiện trong ba tiểu thuyết, từ đó, tìm ra độ lệch
giữa “cái thực” và “nét sáng tạo” trong nghệ thuật trần thuật của nhà văn, tìm
ra sự giống nhau và khác nhau giữa con người thực của nhà văn (ngoài đời)
và con người – nhân vật trong các tiểu thuyết. Đây cũng là yếu tố góp phần
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
12
làm nên cái hay, nét độc đáo của tác phẩm cũng như bộc lộ cái tôi và cá tính
sáng tạo của nhà văn.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của một luận văn và do hạn chế về tư liệu, chúng tôi sẽ
tiến hành nghiên cứu dựa trên những văn bản là:
- Tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú (1989)
- Tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ (1999)
- Tiểu thuyết Một mình một ngựa, Ma Văn Kháng, NXB Phụ Nữ, 2009
- Hồi kí Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, Ma Văn Kháng,
NXB Hội nhà văn, 2009
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo một số các tác phẩm khác, một số
đoạn trích dịch, các công trình nghiên cứu, tư liệu có liên quan đến vấn đề tự
thuật và ba tiểu thuyết trên của Ma Văn Kháng.
Sở dĩ lựa chọn các tiểu thuyết có yếu tố tự thuật theo những tiêu chí
trên đây là do chúng tôi kế thừa được sự phân loại của các nhà khoa học đi
trước, mặt khác, chúng tôi muốn thông qua phương pháp nghiên cứu tiểu sử
và phương pháp lịch sử - xã hội để phân tích và khẳng định sự phát triển của
tiểu thuyết có yếu tố tự thuật như là sản phẩm tinh thần của thời đại đề cao
bản ngã và khát vọng thành thực của cái tôi cá nhân trong ánh xạ của mỹ học
hiện đại và hậu hiện đại. Dĩ nhiên, việc xác định yếu tố tự thuật trong tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng mà chúng tôi tiến hành không đồng nghĩa với sự
gò ép theo lối “bắt vít”, rằng đó là những tác phẩm ghi chép lại đời tư tác giả
một cách đơn giản. Mục đích của chúng tôi là nhận thấy rõ hơn mối quan hệ
khăng khít giữa sự thực và hư cấu thông qua những trải nghiệm sâu sắc và
thấm thía của nhà văn. Bởi thế, chúng tôi coi những tự bạch của nhà văn cũng
như những đánh giá bình luận của độc giả cùng thời với họ là những nguồn tư
liệu quan trọng để xác minh mối liên quan chặt chẽ giữa yếu tố tự thuật với
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng.
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
13
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Phƣơng pháp hệ thống: Coi những tiểu thuyết có yếu tố tự thuật của Ma
Văn Kháng như một bộ phận đang vận động trong sự vận động chung của nền
văn học đương đại, chúng tôi vận dụng phương pháp hệ thống để phân tích,
cụ thể hóa và chỉ ra những đặc thù của tiểu thuyết có yếu tố tự thuật trong các
sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng.
4.2 Phƣơng pháp thống kê – phân loại: Mặc dù giữa tự truyện và tiểu thuyết
có yếu tố tự thuật có sự khác biệt về bản chất, nhưng thiết nghĩ, cũng cần có
sự phân biệt, phân loại cần thiết. Hơn nữa, bản thân trong mỗi tiểu thuyết thì
yếu tố tự thuật cũng không thuần nhất, mỗi tác phẩm tác phẩm có những cách
thể hiện và mang dụng ý nghệ thuật của nhà văn là khác nhau, vì thế, trong
chừng mực nào đó, việc vận dụng phương pháp này thực sự có ý nghĩa đối
với tác giả luận văn.
4.3 Phƣơng pháp tiểu sử: Chúng tôi vận dụng phương pháp tiểu sử nhằm tìm
hiểu tác phẩm thông qua mối quan hệ giữa tác giả và văn bản nghệ thuật do
nhà văn sáng tạo nên. Đây là phương pháp quan trọng nhưng không phải là
duy nhất mà được sự kết hợp với một số phương pháp của chuyên ngành xã
hội học văn học: phỏng vấn, điều tra, Kết quả từ những điều tra xã hội học
về mối liên hệ giữa tác giả với tác phẩm, giữa tác phẩm với người đọc sẽ giúp
cho luận văn nhận thức được rõ hơn mối quan hệ giữa sự thực và hư cấu trong
các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng.
4.4 Phƣơng pháp liên ngành: Do đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết có yếu
tố tự thuật nên có thể thấy sự tham gia một cách đặc biệt của yếu tố tự thuật
vào cấu trúc tác phẩm. Luận văn đã vận dụng phương pháp liên ngành (như
Tâm lý học nghệ thuật, Nhân học văn hóa) nhằm đi sâu phân tích , lý giải quá
trình sáng tạo tiểu thuyết có yếu tố tự thuật của nhà văn Ma Văn Kháng.
Ngoài ra, mặc dù xuất phát từ việc khảo sát dấu ấn tiểu sử và nghiên
cứu mối quan hệ giữa yếu tố tự thuật với cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm
nhưng luận văn coi hiệu quả thẩm mỹ - nhân văn là mục tiêu chủ yếu, từ đó
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
14
hướng tới khám phá cách thức chuyển hóa chất liệu tự thuật trong tác phẩm nên
trong quá trình triển khai đề tài, luận văn còn sử dụng cách tiếp cận của Thi
pháp học hiện đại, Phương pháp lịch sử - xã hội, Phương pháp so sánh để
tiến hành nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn:
- Tìm hiểu sự xuất hiện của yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng như là một bước chuyển của tư duy văn học trong bối cảnh mới, đề tài
đặt cái nhìn xuyên suốt về vấn đề cái tôi cá nhân từ truyền thống đến hiện đại,
chỉ ra ý nghĩa của nó đối với thế giới nghệ thuật và tư tưởng tác phẩm.
- Luận văn hệ thống những quan niệm về vấn đề tự truyện và sự phát triển của
tiểu thuyết có yếu tố tự thuật, đề xuất những tiêu chí nhận diện và ghi nhận
những đóng góp của nó đối với đời sống thể loại văn học.
- Từ những phân tích về tiểu thuyết có yếu tố tự thuật của Ma Văn Kháng qua
Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa,
luận văn góp phần phác học diện mạo tiểu thuyết đương đại Việt Nam, lý giải
và khẳng định những đổi mới trên phương diện nghệ thuật trần thuật.
6. Bố cục khoá luận
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, nội dung của khoá luận được triển
khai thành ba chương:
Chương 1: Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trong nền tiểu thuyết đương đại
Việt Nam.
Chương 2: Yếu tố tự thuật qua các nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của
Ma Văn Kháng.
Chương 3: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết có yếu tố tự thuật của Ma
Văn Kháng
Cuối cùng là phần Danh mục tài liệu tham khảo.
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
15
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG TRONG
NỀN TIỂU THUYẾT ĐƢƠNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1 Tổng quan về tiểu thuyết đƣơng đại Việt Nam
Trong văn xuôi, tiểu thuyết đã đóng một vai trò quan trọng vì nó là một
thể loại thích hợp, uyển chuyển và đang sinh thành. Người ta gọi tiểu thuyết
là “máy cái của văn học”. Nhiều người đồng tình với ý kiến cho rằng thời kì
1975- 2000 là “thời của tiểu thuyết” hay nói cách khác văn xuôi đương đại
giàu bản chất tiểu thuyết. Ở thể loại này bao giờ cũng vậy, khúc xạ rõ nhất bộ
mặt đời sống tinh thần, những thăng trầm xã hội. Sau 1975 là thời của những
đổi thay tích cực, là thời giao tranh gay gắt giữa cái cũ và cái mới. “Công
nhận thực tồn sự khủng hoảng trên nhiều phương diện của đời sống xã hội là
một thái độ khách quan, khoa học. Tiểu thuyết bằng con đường nghệ thuật
riêng, đã thể hiện sự khủng hoảng này trong những số phận có tính bi kịch của
nó”. [60; 6]. Trong việc đề cập đến vấn đề “hậu chiến tranh”, hầu hết các nhà
văn viết về đề tài này đều thừa nhận: chiến tranh đã lùi xa nhưng dư âm của
nó vẫn luôn đeo đẳng, bám riết, trở thành một nỗi ám ảnh, thành “hội chứng
chiến tranh” trong tâm khảm của những người lính trở về sau cuộc chiến. Họ
luôn khát khao “đi tìm thời gian đã mất” để nhận lại hình ảnh của chính mình
trong Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không
chồng (Dương Hướng) Tất cả điều đó trở thành sự dày vò luôn thường trực.
Chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ của họ, sinh lực của họ, khiến cho ngày hoà
bình trở lại cũng là lúc cánh cửa hạnh phúc sập xuống trước mắt họ một cách
nghiệt ngã trong Bến không chồng, Bóng đêm và mặt trời (Dương Hướng), Ăn
mày dĩ vãng (Chu Lai), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh) Như vậy, những
bi kịch đời tư bỗng được đặt ra trong hành trình con người kiếm tìm hạnh
phúc; con người đã kịp thời nhận ra “khối cô đơn khổng lồ” đang chụp xuống
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
16
thân phận họ, đang “đè bẹp” cuộc đời họ. Mở ra trước mắt họ sự “tù túng”
“chật chội” của không gian; len lỏi vào từng số phận đáng thương của họ, là
những “thước phim lộn trái cuộc đời”. Cái cô đơn, sự tuyệt vọng và cả sự rách
nát của tâm hồn cũng là hiện trạng có thật trong đời sống tinh thần con người.
Tiểu thuyết đương đại không thờ ơ, né tránh sự thật đó. Giá trị nhân bản của
văn học vì con người, vì tất cả những nỗi niềm của nó dù nhỏ nhoi nhất. Tất
nhiên ở đây một vấn đề được đặt ra: Tính mức độ của sự miêu tả. Cái lối miêu
tả quá đà là chỗ yếu của Ly thân ( Trần Mạnh Hảo), Kẻ lang thang (Trần Văn
Tuấn). Lần đầu tiên trong văn học có một số tiểu thuyết hướng sự miêu tả đến
cộng đồng người Việt ở nước ngoài - chủ yếu ở Liên xô. Hai cuốn tiểu thuyết
của Bùi Việt Sĩ (Người đưa đường thọt chân) và Hữu Đạt (Hai đầu của bức
thư tình) đều đem đến nỗi buồn, sự day dứt cho chúng ta về số phận của
người Việt Nam ở nước ngoài.
Thời kì này tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ giống như “măng mùa
xuân” với nhiều tác phẩm được công nhận cả về nội dung lẫn nghệ thuật như
Cửa gió (Xuân Đức), Đứng trước biển (Nguyễn Mạnh Tuấn), Hạt mùa sau
(Nguyễn Thị Ngọc Tú), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Mùa lá rụng trong
vườn (Ma Văn Kháng), Thời xa vắng (Lê Lựu), Chim én bay (Nguyễn Trí
Huân), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không
chồng (Dương Hướng), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Thuỷ hoả đạo
tặc (Hoàng Minh Tường), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Lạc rừng
(Trung Trung Đỉnh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Thời gian của người
(Nguyễn Khải) Các nhà văn trong sáng tác của mình đã từ bỏ được lối nhìn
dễ dãi về đời sống và con người. Đọc sáng tác của họ bạn đọc dễ có cảm giác
phức tạp: thú vị và đau xót, căm phẫn và tin tưởng trước con người và tất cả
những gì nó tạo ra. Cái cảm giác phức tạp này có được đã chứng tỏ tiểu thuyết
áp rất sát vào đời sống, xông thẳng vào các “mắt bão” của cuộc đời và nêu
những vấn đề cực kì quan thiết với con người thông qua những số phận có
tính bi kịch.
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
17
Có một thực tế là tiểu thuyết đang ngắn lại. Chẳng hạn như Lạc rừng
(Trung Trung Đỉnh), Hai nhà (Lê Lựu), Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh)
chỉ có vài trăm trang và có thể “đọc một hơi”. Đó là sự dồn nén chất liệu đời
sống theo chiều sâu và cũng là cách văn học cạnh tranh với văn hóa- nghe
nhìn khi mà quỹ thời gian của con người hiện đại eo hẹp, khi mà tính hiệu quả
được đề cao và vì quy luật của nghệ thuật là “quý hồ tinh bất quý hồ đa”.
Cấu trúc của tiểu thuyết cũng uyển chuyển, linh hoạt hơn do độ mở
của nó rất rộng mà người đọc thấy rõ nhất là lối kết thúc không “có hậu” như
tiểu thuyết truyền thống (kể cả tiểu thuyết những năm bảy mươi). Mọi số
phận, vấn đề mà tiểu thuyết chuyên chở đều như dang dở, không có lời phán
quyết cuối cùng và mọi biến động đều mang tính bất ngờ, nhiều yếu tố ngẫu
nhiên, tính chất “phi lí tính” trong cấu trúc tác phẩm biểu hiện khá rõ. Cái giá
đỡ của toàn bộ cấu trúc tác phẩm là những xung đột có tính chất “vi mô”-
xung đột tinh thần dai dẳng, khốc liệt, tinh vi và lắm cao trào, thoái trào. Con
người luôn luôn đối diện với chính mình. Tác giả tiểu thuyết vì thế, trong
nhiều trường hợp không ngần ngại đặt nhân vật vào những hoàn cảnh khắc
nghiệt để nhằm phát hiện mức độ đề kháng của nó.
Tiểu thuyết đương đại đi sâu hơn vào tâm linh, con người thời đại.
Nhịp điệu của nó nhanh, mạnh phù hợp với thị hiếu người đọc. Ngoài ra,
chúng ta cũng có thể thấy nhiều sự đổi mới về kĩ thuật trong các tác phẩm tiểu
thuyết như Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà), hay tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn Phúc Lai Thành, Đặng Thiều
Quang, những tác giả trẻ có nhiều hứa hẹn.
Mặt khác, trong quá trình vận động và phát triển, diện mạo của tiểu
thuyết luôn có sự biến đổi. Đặc biệt là trong khoảng thời gian gần đây, các
nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá nhiều về vấn đề cách tân tự sự trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Với những nghiên cứu nhiều chiều, theo
nhiều hướng khác nhau, và hầu hết đều mang tính phát hiện, chúng ta có thể
nhận thấy tính phức tạp của nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết đương đại (với
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
18
sự luân chuyển của các ngôi kể cùng sự đan chéo của các điểm nhìn; với sự
đa dạng hoá các giọng điệu trần thuật cùng sự pha trộn táo bạo các loại lời
người trần thuật - lời nhân vật và lời gián tiếp tự do ). Bên cạnh đó, còn xuất
hiện ngày càng nhiều tiểu thuyết có yếu tố tự thuật. Trước đây, trong văn học
Việt Nam truyền thống có rất ít tác giả tự kể chuyện về mình, nhìn chung “cái
tôi của nhà văn Việt khá kín đáo” và không thích lộ diện nhưng trong khoảng
vài thập kỉ trở lại đây, khuynh hướng tự thuật trong tiểu thuyết đang dần trở
nên gây sự chú ý. Sự hiện diện của yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết biểu hiện
sự thay đổi về cái tôi cá nhân cũng như nhận thức về vấn đề sự thật - hư cấu
trong sáng tạo nghệ thuật.
Và gắn liền với sự cách tân đổi mới đó là tên tuổi của biết bao thế hệ
nhà văn. Trong đó phải kể đến Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn
Khải, Lê Lựu, Nhà nghiên cứu Lã Nguyên đã khẳng định: “Trước khi làn
sóng đổi mới dâng lên mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc, trong
những điều kiện cực kì khó khăn của đất nước, sáng tác của Nguyễn Minh
Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, đã đốt lên nhiệt tình
kiếm tìm chân lí, hứa hẹn khả năng tự đổi mới của nền văn học, khi nó dám
sòng phẳng với quá khứ, bất chấp mọi thế lực ngăn cản” [56; 27].
1.2 Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam
đƣơng đại
Ma Văn Kháng là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học Việt
Nam đương đại. Thành tựu của Ma Văn Kháng kết tinh ở hai thể loại: tiểu
thuyết và truyện ngắn. Đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết, từ tác phẩm đầu tiên
Đồng bạc trắng hoa xoè (1979), đến Mưa mùa hạ (1982), Vùng biên ải
(1983), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú
(1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989), Chó Bi, đời lưu lạc (1992) và Ngược
dòng nước lũ (1999) cho đến tác phẩm gần đây nhất Chuyện của Lý (6/2013),
Ma Văn Kháng luôn tỏ ra là một cây bút vững vàng, sung sức.
Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền đã có một nhận xét tinh tế: “Đọc
truyện ngắn Ma Văn Kháng, tôi đã có lúc mơ hồ cảm thấy mình chờ đợi ở cây
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
19
bút này một tác phẩm dài hơi về đề tài quen thuộc của anh. Một cuốn tiểu
thuyết, nó sẽ cho phép anh chuyển hoá khối lượng vốn sống dày dạn sau
nhiều năm tích luỹ, nó cho phép anh phản ánh hiện thực một cách quy mô
thích hợp với những thay đổi lớn lao mà anh đã từng chứng kiến, nó sẽ cho
phép anh gửi gắm những suy nghĩ, những tình cảm, những kinh nghiệm,
những điều tâm đắc rút được qua thời gian”. Hay nói về vẻ đẹp văn chương
của ông, nhà nghiên cứu Phong Lê cũng có ý kiến cho rằng hàng trăm truyện
ngắn, hàng chục tiểu thuyết trên một hành trình dài, dẫu có lúc ngôn ngữ
chính luận tràn lấn, nhưng vẫn không làm thay đổi, biến dạng tiếng nói nghệ
thuật đích thực trong tác phẩm của Ma Văn Kháng. Một tiếng nói nghệ thuật
từ chính cuộc đời trần trụi, xù xì, thô nhám, đa sự cất lên; và lắm khi tác giả
cũng không cần phải đóng vai trò khách quan “để sự thật tự nó nói lên” theo
kiểu Balzac, Tolstoi, mà cứ đàng hoàng cất lên tiếng nói riêng để khơi gợi ở
bạn đọc sự đồng tình hay tranh luận. Và điều này được trả lời bằng sự ra đời
của Đám cưới không có giấy giá thú. Cũng giống như Mưa mùa hạ, tiểu
thuyết Đám cưới không có giấy giá thú cũng đã gây nhiều tranh luận ngược
chiều nhưng thú vị về đề tài nhà trường, những người trí thức với sự nghiệp
trồng người. Trong tác phẩm, nhà văn viết về cả hai mặt đời sống (trắng và
đen), về cả hai kiểu người xấu và tốt, thể hiện cả hai cảm hứng hi vọng và thất
vọng. Nhân vật chính của Đám cưới không có giấy giá thú là Tự, một con
người luôn khắc khoải, dằn vặt bởi sự sa sút của nhân cách người thầy giáo;
Đầy lo lắng, buồn tủi về thế cuộc; Nhưng luôn gắng giữ cho trọn tấm lòng
một người thầy, dành hết tâm lực cho học sinh. Một người trí thức thật đẹp,
và cô đơn. Qua tiểu thuyết này, dường như Ma Văn Kháng viết về bản thân,
trong cái nhìn tổng quan mấy chục năm ở một trường cấp ba bé nhỏ tại một
tỉnh lẻ, với biết bao hạnh phúc và tủi buồn của một thân kiếp cô lẻ. Tiểu
thuyết chứa đựng những ý tưởng rất không phù hợp với quan niệm chính
thống đương thời. Người đọc thấy trong cuốn sách sự vận dụng các lý thuyết,
nhằm lý giải cho kỳ được thân phận người trí thức tiểu tư sản ở nước ta. Mặc
dù là tiểu thuyết luận đề, tác phẩm này vẫn chứa đầy sự sống. Ma Văn Kháng
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
20
là nhà văn tài ba trong tạo dựng chi tiết sống, nên những trang viết của ông
thật sinh động, hấp dẫn và nội dung của tác phẩm đi vào lòng người đọc cũng
thật tự nhiên, thấm thía. Đám cưới không có giấy giá thú tái bản nhiều lần,
bởi nó là luận đề, đã đặt ra cho người đọc những vấn đề lớn về con người,
cuộc sống và bởi nó là văn chương sinh động, nơi lưu giữ những hình ảnh đời
sống, nó là chuyện của cuộc đời này với biết bao nước mắt, mồ hôi và phập
phồng hy vọng.Và những gì xảy ra trong Đám cưới không có giấy giá thú là
chuyện đã xảy ra trong cuộc đời giáo viên của ông (tất nhiên là đã được lọc
qua cái lăng kính thẩm mỹ…). Nhà trường nơi ông dạy học chính là bối cảnh
của tiểu thuyết. Cuốn sách này là sản phẩm của cả một quá trình tư duy.
Nghiền ngẫm khá lâu ông mới nắm bắt, và sau đó mới triển khai được tinh
thần, cái linh hồn, tức là chủ đề thẩm mỹ của câu chuyện… Ông muốn đề cập
đến vai trò và số phận của người trí thức trong sự phát triển của xã hội ta. Đây
cũng chính là lí do để người viết lựa chọn tác phẩm trong khi triển khai vấn
đề nghiên cứu trên. Sau này, cuối thế kỷ XX, Ma Văn Kháng còn viết về nhân
vật trí thức nữa trong tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ là Khiêm. Khiêm cũng
trải qua nhiều đau đớn cả về thể xác và tinh thần, nhưng vẫn tiến đến với
người đàn bà anh yêu, như một cuộc ngược dòng tìm đến những giá trị thực
sự của con người. Không mới hơn những tác phẩm trước về ý tưởng xã hội,
nhưng trong Ngược dòng nước lũ, nhà văn vẫn truyền cho người đọc những lo
lắng về người trí thức cứ luôn phải đương đầu với nhiều cạm bẫy trên đường
đời. Người đọc cũng thật sự thương cảm khi thấy những chuyện cơm áo hàng
ngày cứ ghìm đầu người trí thức xuống mặt đất. Hơn cả, cuốn tiểu thuyết này
đã có sự cách tân vượt bậc về nghệ thuật thể hiện. Nhà nghiên cứu Bích Thu
phát hiện ra sự cách tân trong tác phẩm thể hiện ở cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ,
co giãn khó tóm tắt, khó kể lại và do đó “Tiểu thuyết vừa là tiếng nói của ý
thức, vừa là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ”.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện, “tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng giai đoạn này đã đạt đến trình độ điêu luyện trong ngôn ngữ kể và tả,
đối thoại và độc thoại, giọng điệu linh hoạt khi gấp gáp, sôi nổi, cuồn cuộn,
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
21
tung phá, lúc lại thong thả, mềm mại, đằm thắm, hiền hòa, đã trở thành một
thực thể sống động có sức sống mạnh mẽ” [63, 12]. Ma Văn Kháng đã thành
công trong việc khám phá chiều sâu tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ, coi
nó như một thứ ngôn ngữ độc thoại đặc biệt để giải mã thế giới vô thức của
con người, xây dựng lên những bi kịch cá nhân, đưa con người trở về với
cuộc sống đời thường, với những khát vọng hạnh phúc. Theo nhà văn thì đời
sống đã nhọc nhằn, đời sống đi vào văn chương lại càng nhọc nhằn. Nhân vật
được coi là một thứ tài sản của nhà văn, vì vậy mà nguyên mẫu càng đậm chất
lý tưởng thì càng thuận lợi cho cảm hứng sáng tạo của nhà văn. Người làm
nghề giáo phải chấp nhận một thực tế của một nghề “mạo hiểm” với chính
mình, vì họ mang chính bản thân mình ra va đập trực tiếp với cuộc sống đầy
biến động, với đầy đủ sự tốt – xấu của con người. Họ có đủ bản lĩnh để vững
vàng trước những cám dỗ hay sẽ bị hoàn cảnh xô đẩy, lôi kéo về phía bóng tối
lại là một quá trình phức tạp và nghiệt ngã. Ông muốn khai thác, khám phá, lí
giải nguyên nhân sâu xa của quá trình đó, chứ không phải chỉ nói về những
tiêu cực.
Gần đây, sự ra đời của Một mình một ngựa cũng đã gây được sự chú ý
lớn của độc giả và giới nghiên cứu phê bình. Không có nhiều đột phá, cách
tân trong nghệ thuật tự sự nhưng Một mình một ngựa hấp dẫn ở cách kể
chuyện hóm hỉnh, tạo được những điểm nhấn ấn tượng. Tác phẩm tiếp nối
nguồn mạch tự thuật được khơi dòng từ các tiểu thuyết trước nó nhưng dường
như có cái nhìn thể tất nhân tình hơn. Toàn bộ tiểu thuyết Một mình một ngựa
được chia làm mười tám chương với bối cảnh là ở O tròn (nơi sơ tán của cơ
quan tỉnh uỷ Hoàng Liên trong những năm chống Mỹ) với các nhân vật trung
tâm là những người cộng sản trong tỉnh uỷ: năm thường vụ, năm ông trợ lý và
gần chục cán bộ văn phòng tỉnh uỷ. Ma Văn Kháng đã dẫn người đọc cùng
Toàn (một thầy giáo dạy văn - nhân vật chính của tiểu thuyết) thâm nhập, hoà
đồng vào cơ quan đầu não của tỉnh uỷ Hoàng Liên tìm hiểu, gặp gỡ từng
người để hiểu cặn kẽ về họ: từ lí lịch xuất thân, quá trình công tác, cái tốt đẹp
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
22
lẫn sự xấu xa, những việc làm thăng hoa bay bổng và cả những phút yếu lòng
xa ngã xuống vực thẳm. Họ là một tập thể cán bộ cũ đáng ca ngợi nhưng đôi
lúc lại là kẻ xấu đáng bị trừng phạt, lên án.
Như vậy cho đến hôm nay, sau ngót năm mươi năm cầm bút, bên cạnh
hơn hai trăm truyện ngắn, Ma Văn Kháng đã cho ra đời mười sáu tiểu thuyết
được dư luận đón nhận và đánh giá cao- đây là một con số không nhỏ, bộc lộ
thái độ cần cù, nghiêm túc và tài năng sáng tạo trong lao động nghệ thuật.
Hàng vạn trang văn ấy chỉ để giữ lại một điều cuối cùng, là con người hãy đến
với nhau bằng sự tử tế, bằng tình yêu vô tư và vô điều kiện. Đó cũng là muối
kết tinh từ những tháng năm vất vả khổ sai với chữ của nhà văn, mà thực tế
trải nghiệm là một minh chứng. Điều đó cũng thể hiện sự đóng góp không
nhỏ của nhà văn vào sự phát triển tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Tuy nhiên,
trong giới hạn của vấn đề nghiên cứu người viết chỉ đi vào tìm hiểu sự thể
hiện yếu tố tự thuật trong các tiểu thuyết tiêu biểu được phân tích ở trên là:
Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ và Một mình một ngựa.
1.3 Nhận diện tiểu thuyết có khuynh hƣớng tự thuật của Ma Văn Kháng
và tiểu thuyết tự thuật
1.3.1 Tự thuật là gì?
Ở thế kỉ XVI, khi Montaigne trong tập Khảo luận(1580) phát biểu: “Tôi
chính là chất liệu cho sách của tôi”, ông đã bị Pascal kết án: “Cái tôi thật đáng
ghét” Hậu thế đã nhận ra rằng, hoàn toàn ngược lại với kết luận của Pascal,
“tự hoạ cũng không phải là một dự kiến ngốc đến thế”, nhất là khi bản thân bức
tự hoạ đó phô bày được một phần cuộc đời của người nghệ sĩ sáng tạo, những
thực tế mà họ từng trải nghiệm, những trạng thái tinh thần, sở thích, những
nghi họăc riêng từ đó “làm nổi bật trở lại nét dị biệt” của từng người.
Sau này, khi người ta đã phá bỏ mọi điều cấm kị trong việc bộc lộ cái
tôi, chúng ta được chứng kiến “sự bùng nổ của tự thuật, chữ bùng nổ ở đây có
nghĩa vừa là sự phát triển đột ngột, vừa là sự nổ tung của thể loại”. Từ đấy, tự
thuật đã phải đi qua một chặng đường dài.
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
23
Theo Từ điển tri thức văn hoá (Dictionary of Culturual Literacy) thì tự
thuật là “Một tác phẩm văn học viết về chính cuộc đời nhà văn”
(E.D.Hirsch). Hoặc rõ ràng hơn, theo M.H.Abrams định nghĩa: “Tự thuật là
tiểu sử được một người viết về chính bản thân anh ta hoặc cô ta”. Tuy nhiên,
định nghĩa của Abrams khá rộng cho cả những người không phải là nhà văn,
mà ở đây, chúng ta chỉ giới hạn nội hàm khái niệm là sáng tác của các nhà
văn mà thôi. Ở một tầm khái quát hơn, Philippe Lejeune - nhà lí luận của thể
loại này, trong cuốn Tự thuật ở Pháp (1971), đã định nghĩa như sau: “Truyện
kể mang tính chất nhìn lại dĩ vãng, mà một người có thật viết về cuộc sống
của mình, khi người đó chú trọng đến đời sống riêng, nhất là sự hình thành
nhân cách”. Cũng theo Philippe Lejeune, có một “giao ước tự thuật”, xác lập
tính đồng nhất giữa nhân vật - người kể chuyện và tác giả “giao ước tự thuật”,
“đó là sự khẳng định tính đồng nhất này trong văn bản, cuối cùng dẫn tới họ
tên tác giả trên bìa sách” [41;34]
Trong Từ điển lịch sử đề tài và kĩ thuật của các nền văn học, mục từ
Autobiographie (tự thuật) được các nhà nghiên cứu nhìn nhận ở cả hai khía
cạnh rộng, hẹp của khái niệm này: “Theo nghĩa hẹp, tự thuật được xác định
trong thế đối lập với hồi kí và tiểu thuyết. Đó là cuộc đời của một cá nhân do
chính anh ta kể lại, tác giả của nó có thể là một nhà văn hay một người làm
nghề khác Theo nghĩa rộng, tự thuật bao gồm tất cả các văn bản trong đó
người viết thể hiện những trải nghiệm của mình, bất kể anh ta có ý thức về
điều đó hay không. Văn bản đó có thể là các sáng tác văn học, tiểu thuyết,
thơ, khảo luận” [55, 56]
Không dừng lại ở định nghĩa, cuốn Từ điển văn học ( bộ mới) đã có cái
nhìn sâu sắc hơn về khái niệm tự thuật khi đặt trong mối quan hệ với môi
trường nảy sinh và phát triển . Tự thuật được định nghĩa: “Là một thể loại văn
học trong đó tác giả kể chuyện về cuộc đời mình. Nhân vật chính của truyện
chính là tác giả. Tự thuật ở Phương Tây đặc biệt phát triển với sự phát triển
của nội quan (introspection), con người quan sát lương tâm mình Nó có
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
24
nguồn gốc từ Thiên Chúa Giáo, với thú tội, tự vấn lương tâm. Tự thuật
thường là các câu chuyện viết bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của chính tác giả,
có thể gần trọn cuộc đời, có thể thời thơ ấu hoặc một thời phiêu lưu. Người kể
chuyện trùng với tác giả và với nhân vật chính” [50; 1905]. Như vậy, tuy
không phải một thể loại mới mẻ, nhưng tự thuật đến thế kỉ XX đã có cả một
tiền đề xã hội để đưa tới sự phát triển đa dạng và phong phú hơn nhiều so với
những giai đoạn trước. Boisdeffre, tác giả của bản tham luận Đổi mới tiểu
thuyết Pháp bằng tự thuật đã cho rằng: ngày nay nhà văn có thể và cần phải
tự mổ xẻ mình vì nếu các nhà văn thế kỉ XIX viết về một thế giới, một xã
hội có thực, họ tin tưởng vào thế giới ấy như vầng thái dương đang mọc lên
cao dần thì từ 1945, loài người sống dưới mặt trời đen Hirosima, cái chết
không chỉ ngả bóng xuống một cá nhân mà bao trùm cả loài người Châu Âu
thế kỉ XX, đặc biệt là trong và sau “cú sốc” của hai cuộc đại chiến thế giới,
khi các khám phá khoa học kĩ thuật đã bắt đầu bộc lộ “sức nặng” của nó, chìm
ngập trong nỗi kinh hoàng của sự huỷ diệt. Con người thời đại này bên cạnh
việc dứt khỏi vòng dây trói của “những điều cấm kị”, đã có thể nhìn thấy “sự
thay đổi thực tại lịch sử hơn thế nữa là sự lung lay và sụp đổ những viễn
cảnh chắc chắn nhất về tư tưởng và văn hoá. Đứng trước một thiên niên kỉ
mới với những lo ngại mới, phần đông các nhà nghệ sĩ đều cảm thấy sự nặng
nề, mờ mịt của cuộc đời, “cảm giác về sự buông trôi. Họ đã hướng tới không
phải chỉ từ những khủng hoảng của cá nhân, mà còn từ những khủng hoảng về
cảm giác và sự định hướng mà họ cảm thấy họ đã chia sẻ với người khác” (J.
Gordon) Thực tại tâm lí đó đã khiến các nhà văn chuyển từ “hướng ngoại”
sang “hướng nội”, tác phẩm văn học quay vào với bản thân nhà văn, trở thành
trang giấy, là tấm gương soi để người nghệ sĩ thể hiện những cảm xúc nội tâm
của mình. Điều này dẫn đến sự “bùng nổ” (một từ rất được ưa thích trong phê
bình văn học Pháp) của thể loại tự thuật vào thế kỉ XX. Văn học thời kì này
xuất hiện hàng loạt những tác phẩm có khi hoàn toàn tự thuật như Nhật kí của
André Gide, nhưng cũng có những tác phẩm chỉ mang bóng dáng tự thuật: Đi
Yếu tố tự thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Nguyễn Thị Phượng Lớp K56 Cao học Văn học
25
tìm thời gian đã mất của M. Proust, Tuổi thơ của Nathalie Sarraute, Chữ
nghĩa của Sartre, Dối mà thật của Louis Aragon Những tác phẩm này đã
phần nào thể hiện được xu hướng tự thuật của các nhà văn và phản ánh đúng
“căn bệnh của văn học thế kỉ XX” [11; 68].
Không chỉ dừng lại là thể loại được lựa chọn hàng đầu của các nhà tiểu
thuyết, khái niệm tự thuật và lịch sử tự thuật cũng là vấn đề rất được chú ý
trong nhiều công trình nghiên cứu. Qua thực tiễn phân tích cuốn tiểu thuyết tự
thuật của N. Sarraute, nhà nghiên cứu Lê Hồng Sâm đã định nghĩa về tự thuật
như sau: “Tự thuật là câu chuyện hồi cố bằng văn xuôi mà một người có thật
kể về chính cuộc đời mình Trong thể loại tự thuật, ta thường thấy một tác giả
già dặn nhìn lại đứa bé hoặc người trẻ tuổi từng là mình xưa kia, với thái độ
bâng khuâng, trìu mến, song cũng có khi hài hước như Jean Paul Sartre trong
Chữ nghĩa, hay trang nghiêm như Simon de Beauvoir trong Hồi kí một thiếu
nữ nề nếp” (Theo Lê Hồng Sâm) Thống nhất về cách hiểu tự thuật như trên
trong công trình nghiên cứu rất có ý nghĩa về Tự thuật và tiểu thuyết ở Pháp
thế kỉ XX, tác giả Đặng Thị Hạnh đã khái lược lại một cách ngắn gọn nhưng
khá tỉ mỉ về những chặng đường phát triển của tự thuật qua các thế kỉ: từ thế
kỉ XVI mở đầu là tập Tiểu luận của Montaigne, đến thế kỉ XVIII, cuốn Tự
bạch của Rousseau được coi như “một đổi mới lớn không chỉ trên bình diện
thẩm mỹ mà còn là cả một cuộc cách mạng sâu sắc trong tôn ti trật tự cái gì
đáng được kể lại, cái gì không, ở thế kỉ XIX, qua cái trữ tình của các nhà thơ
lãng mạn đã bộc lộ nhiều điều riêng tư nhưng vẫn với sự kín đáo thừa hưởng
từ thế kỉ trước như Banlzac, Hugo George Sand viết Câu chuyện đời
tôi nhưng bà đã đánh lừa độc giả đương thời khi bà tự giấu mình sau những
trang viết về người bố, người mẹ, người bà và sau đó là về cuộc đời sáng tác
của bà. Duy chỉ có một mình Chateaubriand, vị tử tước mắc chứng bệnh vĩ
cuồng, là dám viết một tác phẩm được coi như một tự thuật có tên Hồi kí từ
bên kia thế giới nhưng nó chỉ được phép xuất bản sau khi ông mất” [9; 35].
Như vậy, dù cách diễn đạt có đôi chỗ khác nhau nhưng về cơ bản các nhà biên