Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 110 trang )





MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………………
3. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………
4. Phƣơng pháp nghiên cứu…………………………………………………….
5. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………
6. Cấu trúc của luận văn………………………………………………………
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: PHÁC THẢO BỨC TRANH CHUNG CỦA TIỂU THUYẾT
ĐƢƠNG ĐẠI VIỆT NAM…………………………………………………
1.1 Bức tranh chung về tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986…………………
1.1.1 Đổi mới về thể loại tiểu thuyết…………………………………………….
1.1.2 Đổi mới về quan niệm hiện thực………………………………………….
1.1.3 Đổi mới quan niệm về con người…………………………………………
1.2 Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng trong bức tranh chung của tiểu
thuyết Việt Nam đƣơng đại……………………………………………
1.2.1 Sơ lược về tiểu sử và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Bình Phương.
1.2.2 Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương………………………………………
CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐỔI MỚI CƠ BẢN VỀ NỘI DUNG TIỂU
THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG………………………………………
2.1 Hiện thực trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng……………………….
1
1
2
8


8
9
9


10
10
10
18
26

34
34
36

40
40
2.1.1 Hiện thực cuộc sống thường nhật- một hiện thực dị thường…………
2.1.2 Hiện thực trong cõi tâm linh, vô thức……………………………………
2.1.3 Hiện thực trong cõi âm giới địa phủ……………………………………
2.2 Con ngƣời trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng……………………
2.2.1Con người tha hóa – biến dạng…………………………………………
2.2.2 Con người cô đơn…………………………………………………………
2.2.3Con người đa chiều, lưỡng hóa…………………………………………
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN ĐỔI MỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG……………………
3.1 Kết cấu tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng………………………………
3.1.1 Kết cấu tiểu thuyết hiện thực – huyền thoại……………………………
3.1.2 Kết cấu tiểu thuyết trong tiểu thuyết……………………………………
3.1.3 Kết cấu tiểu thuyết – thơ…………………………………………………

3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật…………………………………………….
3.2.1 Sự đan xen kiểu nhân vật ảo và thực…………………………………….
3.2.2 Mờ hóa nhân vật…………………………………………………………
3.3 Ngôn ngữ tiểu thuyết……………………………………………………….
3.3.1 Ngôn ngữ đậm chất kỳ ảo………………………………………………
3.3.2 Sự đan cài ngôn ngữ độc thoại và đối thoại……………………………
KẾT LUẬN……………………………………………………………………
THƢ MỤC THAM KHẢO………………………………………………
41
47
51
55
55
61
66

71
71
72
75
77
81
81
86
90
91
95
101
104





1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong “Những vấn đề lý thuyết về tiểu thuyết và ngôn ngữ tiểu thuyết”
M.Bakhtine nhận định: “Tiểu thuyết là thể loại chưa định hình và đang phát triển”.
Đúng vậy, thế kỷ XX là thế kỷ phát triển của công nghệ thông tin, của truyền hình
nên đứng trước sức cạnh tranh đó, đã có nhiều người cho rằng đây là “dấu chấm hết”
của tiểu thuyết. Nhưng trải qua thời gian với những biến cố, sóng gió, đến nay tiểu
thuyết vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn học của toàn nhân loại. Bởi nó có
những ưu thế mà không một thể loại nào có được, tiểu thuyết được xem là thể loại
“năng động” nhất, là hình thức tự sự cỡ lớn, vừa có khả năng tái hiện sâu rộng bức
tranh hiện thực đời sống vừa có khả năng đi sâu khám phá đời tư, tâm hồn con người
một cách “tinh vi” nhất…Như vậy, tiểu thuyết ngay từ khi ra đời cho tới nay, nó vẫn
luôn là thể loại “mới mẻ” với những tìm tòi khám phá để tìm ra “bức chân dung” của
mình và “Trong cuộc kiếm tìm và hướng tới sự đổi mới, điều quan trọng là phải thấy
được sự cần thiết phải thay đổi bản thân khái niệm của tiểu thuyết dẫn đến sự thay
đổi của bản thân khái niệm về văn học cùng với sự phát triển của nó” (Theo
M.Butor).
Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 đặc biệt sau đổi mới năm 1986 có những bước
chuyển biến lớn lao, là “thời của tiểu thuyết” (Nguyễn Huy Thiệp). Nền tiểu thuyết
Việt Nam xuất hiện nhiều cây bút xuất sắc như Lê Lựu, Chu Lai, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Xuân Khánh, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh với nhiều tác phẩm giá trị đã đóng
góp tích cực vào quá trình đổi mới văn xuôi Việt Nam đương đại. Từ thập niên 90
của thế kỷ XX đến những năm đầu của thế kỷ XXI, văn học Việt Nam xuất hiện một
trào lưu tiểu thuyết mới với những thể nghiệm đáng ghi nhận tiểu biểu như Hồ Anh
Thái, Võ Thị Hảo, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương
Tiểu thuyết đương đại Việt Nam, như nhà nghiên cứu Phạm Xuân Thạch nhận

định “Nếu cần lựa chọn một hiện tượng tiêu biểu nhất của tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, ưu tiên số một chắc chắn là những sáng tác của Nguyễn Bình Phương. Là

2
sản phẩm thành công nhất của trường viết văn Nguyễn Du, kiên định trong những ý
tưởng nghệ thuật, các sáng tác của anh kết tụ nhiều vấn đề có ý nghĩa tiêu biểu cho
tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ hậu chiến cả trên bình diện mỹ học lẫn kỹ thuật sáng tác
và mô hình tiểu thuyết. Đại diện cho một nỗ lực vượt thoát khỏi quan niệm giản đơn
về mỹ học phản ánh luận, đã diễn ra một sự thay đổi về bản chất trong mối quan hệ
hiện thực – sáng tác văn học trong những tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương” [43].
Với tài năng và sự tự tin, Nguyễn Bình Phương đã khẳng định mình với một
lối đi riêng. Bằng những cách tân, sáng tạo độc đáo, anh đã thay đổi được quan niệm
tiếp cận của độc giả và tạo nét mới cho tiểu thuyết Việt Nam. Lựa chọn và tìm hiểu
đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt
Nam đương đại, chúng ta sẽ tìm ra một cách nhìn lịch sử - xã hội cụ thể về một
khuynh hướng mới, đó cũng là sự đi sâu nghiên cứu tìm hiểu để nắm vững hơn
phong cách cá nhân cũng như sự phát triển, đổi mới của nền tiểu thuyết Việt Nam
đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Từ sau tác phẩm đầu tay Bả giời ( NXB Quân đội nhân dân, 1991), Nguyễn
Bình Phương cho ra đời đều đặn 6 cuốn tiểu thuyết làm nên tên tuổi như: Vào cõi
(NXB Thanh niên, 1991), Những đứa trẻ chết già (NXB Văn học, 1994), Người đi
vắng (NXB Văn học, 1999), Trí nhớ suy tàn (NXB Thanh niên, 2000), Thoạt kỳ thủy
(NXB Hội Nhà văn, 2004), Ngồi (NXB Đà Nẵng, 2006).
Cũng như các nhà văn trẻ cùng thời, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt
Hà, Thuận Nguyễn Bình Phương đã nỗ lực, bứt phá tìm hướng đi mới cho tiểu
thuyết Việt Nam đương đại. Đi vào các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương ta thấy
một lối viết rất lạ, mới mẻ từ cách nhìn hiện thưc, tiếp cận nhân vật, sáng tạo cốt
truyện, xây dựng không – thời gian cho đến sử dụng ngôn từ nhưng có một thực tế
là các tác phẩm của anh vào loại khó đọc, nếu như vẫn giữ lối mòn cũ là đi tìm cốt

truyện thì sẽ không thể tiếp nhận nổi các tác phẩm của anh. Chính sự khác lạ ấy đã
thu hút độc giả và giới nghiên cứu phê bình văn học. Các bài viết, chuyên luận

3
nghiên cứu về các sáng tác của anh được đăng nhiều trên các báo, tạp chí : Pháp luật,
Văn hóa, Văn nghệ trẻ, Tạp chí Hợp lưu , trên các trang Webside như :
Http://www.tienve.org, Http://www.evan.com.vn, Http://www.phongdiep.net,
Http://www.thuykhue.free.fr Bên cạnh đó còn có nhiều bài báo cáo khoa học, khóa
luận tốt nghiệp đại học, luận văn cao học đi vào nghiên cứu, tìm hiểu về Nguyễn
Bình Phương. Tiểu biểu như: Cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương – Khóa luận tốt nghiệp đại học năm 2010 của Nguyễn Thuý Hằng (Đại Học
KHXH&NV Hà Nội); Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương – Luận văn Thạc
sỹ năm 2010 của Nguyễn Thị Phương Diệp (Đại Học KHXH&NV Hà Nội); Nguyễn
Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thể loại để hiện đại hóa tiểu thuyết – Luận
văn thạc sỹ năm 2006 của Hồ Bích Ngọc (Đại học Sư phạm Hà Nội); Tiểu thuyết
Ngồi của Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ kết cấu – Luận văn thạc sỹ năm 2008
của Ngô Hoàng Giang (Đại học Sư Phạm Hà Nội)…: Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương – Luận văn thạc sỹ năm 2008 của Nguyễn Thị Ngọc Anh
(ĐHSP Thái Nguyên)
Từ những tài liệu nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương, có thể nhận thấy các
tài liệu quan tâm tới hai nội dung: Những bài viết đánh giá khái quát về tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương và những bài đánh giá cụ thể về từng tác phẩm.
1.Về những bài đánh giá khái quát tiêu biểu: Một số đặc điểm nổi bật trong sáng tác
của Nguyễn Bình Phương – Tác giả Trương Thị Ngọc Hân [18] đã đưa ra những nhận
định khái quát: “Đi vào tác phẩm của Nguyễn Bình Phương, ta nhận thấy một lối viết
rất riêng biệt, mới mẻ từ cách nhìn hiện thực, tiếp cận nhân vật, sáng tạo cốt truyện,
xây dựng không gian thời gian cho đến sử dụng ngôn từ”, “sự kết hợp nhuần nhuyễn
ba nhân tố: nỗ lực nội tại của nhà văn, một cảm quan mới về hiện thực và bắt gặp
đúng dòng mạch đổi mới văn học trên thế giới, đã tạo nên những nét khác biệt giữa
ngòi bút của Nguyễn Bình Phương so với các cây bút văn xuôi hiện nay”.

Trong Tiểu thuyết hậu hiện đại sự hội ngộ của các tư duy tiểu thuyết hiện đại trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương – Nguyễn Phước Bảo Nhân đã đánh giá cao những nỗ

4
lực đổi mới của Nguyễn Bình Phương để đưa tiểu thuyết Việt Nam “bắt nhịp” cùng
tiểu thuyết đương đại thế giới: “Sáng tác của anh được xem là hiện tượng đáng chú ý
nhất trong tiểu thuyết Việt Nam hiện nay. Trong nhiều thử nghiệm nhằm khai thác tiềm
năng thể loại Nguyễn Bình Phương, có sự đổi mới về tư duy nghệ thuật. Nguyễn Bình
Phương là người tiếp biến nhiều nhất tư duy và nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
đại so với các nhà văn cùng thế hệ. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có sự hội tụ của
nhiều tư duy tiểu thuyết đương đại thế giới, trong đó đáng kể nhất là tiểu thuyết mới,
tiểu thuyết ngắn và tiểu thuyết hậu hiện đại” [50].
Phùng Gia Thế trong loạt bài :Cảm quan đời sống và những cách tân nghệ thuật
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương [44]; Cảm nhận tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương [45] quan tâm tìm hiểu những dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương trên cả hai phương diện hiện thực, con người và cách tân nghệ thuật độc
đáo. Phùng Gia Thế cho rằng: “Nguyễn Bình Phương là nhà văn của cái đương đại.
Dầu có nói về quá khứ thì cảm quan cuộc sống của nhà văn vẫn tràn ngập hơi thở hôm
nay: sự đổ vỡ, khủng hoảng niềm tin, những vùng đau. Đọc Nguyễn Bình Phương,
người ta bàng hoàng đau đớn về thân phận con người. Tiểu thuyết của anh dung chứa
và thể hiện sinh động bao câu chuyện tâm thức của con người thời đại…Cái hấp dẫn
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thể hiện trước tiên ở kiểu cảm quan đời sống
đặc thù biểu hiện qua thế giới nghệ thuật độc đáo”. Người viết còn đưa ra những đánh
giá có tính tổng quát về nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương: “đó là một
đám đông những con người hao hụt nhân tính, méo mó, đầy bản năng, dục vọng, nhiều
thói tật, bệnh hoạn. Họ miên man trong cõi sống mà không có lấy một điểm tựa. Họ
không có thủ lĩnh, sống trong sợ hãi, cô đơn và đáng thương”.
2. Đáng chú ý là những bài đánh giá cụ thể về từng tác phẩm của các nhà nghiên cứu,
phê bình Đoàn Cầm Thi, Thụy Khuê, Phạm Xuân Thạch nhưng chúng tôi xin tập hợp
lại những ý kiến đánh giá của giới nghiên cứu, phê bình tập trung đặc biệt ở những tiểu

thuyết tiêu biểu như: Người đi vắng, Thoạt kỳ thủy, Ngồi.

5
Với TS.Đoàn Cầm Thi trong Người đàn bà nằm từ thiếu nữ ngủ ngày, đọc
Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương, tác giả chú ý nhiều đến khuynh hướng thể
hiện đời sống bản năng dục vọng và vô thức trong tác phẩm. Về phương diện này,
Đoàn Cầm Thi đã có những kiến giải khá thú vị: “Cô đơn. Lo sợ. Vô hình. Bí ẩn.
Khoảng trống. Người đi vắng là một trong những khởi điểm của dòng chảy Nguyễn
Bình Phương vào thế giới vô thức, mộng mị, hồng hoang”; “Nguyễn Bình Phương
còn đi xa hơn nữa trong cuộc khai phá tình dục, khi anh đặt khái niệm này bên cạnh
tâm linh…bên cạnh hạnh phúc khoái lạc là đau khổ, cô đơn, cuộc sống luôn kề cái
chết…dường như ở Nguyễn Bình Phương, cũng như Balzac, dục vọng và thời gian
đều là của cải, còn đằng sau chúng là cái chết…quan niệm tình dục như khởi điểm,
như biểu hiện mãnh liệt nhất của cuộc sống, đồng thời là một hình thức tự hủy”. [9;
49].
Cũng nghiên cứu về Người đi vắng, TS. Nguyễn Mạnh Hùng trong bài Người
đi vắng, ai đọc Nguyễn Bình Phương hay nỗi cô đơn của tiểu thuyết cuối thế kỉ đánh
giá tính chất lạ hóa, hiện đại trong nội dung, hình thức biểu hiện và quan niệm thể
loại tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Nguyễn Mạnh Hùng tập trung đánh giá
những đổi mới của nhà văn ở phương diện nội dung đặc biệt là ở kĩ thuật tiểu thuyết,
tác giả nhấn mạnh: “Nguyễn Bình Phương là tiểu thuyết gia đầu tiên ở Việt Nam có ý
thức tạo dựng nhân vật bằng một hệ thống ám ảnh…nhân vật của Nguyễn Bình
Phương giấu kín những ám ảnh của mình và sống với nó”. [20].
Được quan tâm và đánh giá cao nhất có lẽ phải kể đến tiểu thuyết Thoạt kỳ
thủy, bởi đây là tác phẩm chứa đựng nhiều cách tân nổi bật và nỗ lực bứt phá nghệ
thuật tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Trong bài Sáng tạo văn học: giữa mơ và
điên (Đọc Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương) tác giả Đoàn Cầm Thi viết:
“Nguyễn Bình Phương có lẽ là nhà văn Việt Nam đương đại đã đẩy cuộc thăm dò
này đi xa nhất. Vô thức chiếm vị trí trọng tâm trong Thoạt kỳ thủy, được diễn tả
trong một văn phong chậm, ngắn, chính xác, phản ánh một tư duy đang khảo sát,

chiêm nghiệm. Đặc biệt, nó được xem xét trong mối quan hệ với điên và mộng, là hai

6
trạng thái trong đó vô thức hoạt động tích cực nhất, và lại khá gần nhau”[48] . Đoàn
Cầm Thi đã có những lời bình luận sắc sảo, nhạy bén về vấn đề tình dục, về đời sống
bản năng vô thức và đã nhìn nhận vô thức như là thành tố trung tâm trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương.
Thụy Khuê trong bài viết Thoạt kỳ thủy trong vùng đất Cậm Cam hoang vu
của Nguyễn Bình Phương lại đưa ra dẫn chứng và những kiến giải của mình để chỉ ra
những nét mới lạ độc đáo trong tác phẩm. Cũng theo Thụy Khuê: “Thoạt kỳ thủy là
một bài thơ dài đẫm máu và nước mắt, đẫm tang thương, đầy huyễn mộng, viết về
hành trình của một cộng đồng, dù đã nửa phần điên loạn, vẫn không biết mình đang
đi dần đến toàn phần điên loạn. Khởi đi từ cá nhân một đứa trẻ, lọt lòng mẹ vô tội,
đến trưởng thành máu mẻ, tự diệt. Thoạt kỳ thủy là hậu quả của việc trồng người
trong môi trường thường trực kích động chiến tranh. Là chuyện nhỡn tiền nhân quả.
Là thế giới con người trong vòng u mê tử khí. Thoạt kỳ thủy khởi tố những cách dìu
dắt trẻ thơ về những con đường chém giết, là hồi chuông cảnh tỉnh, báo hiệu những
nguy cơ của mảnh trần gian lấy bạo lực và dốt nát làm cẩm nang giáo dục con
người” [21].
Trong Nguyễn Bình Phương – Lục đầu giang tiểu thuyết, Đoàn Ánh Dương đi
vào phân tích, đánh giá hệ thống tác phẩm của Nguyễn Bình Phương và đặc biệt
đánh giá cao Thoạt kỳ thủy: “Thoạt kỳ thủy ghi một dấu mốc quan trọng trên hành
trình sáng tạo của Nguyễn Bình Phương” [12;12] .“Thoạt kỳ thủy xứng đáng được
coi là đỉnh cao nhất, sự hội tụ trọn vẹn và sung mãn của bút lực tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương. Thoạt kỳ thủy là tiểu thuyết tiêu biểu cho phương thức kỳ ảo trong lối
viết của Nguyễn Bình Phương. Nhưng đồng thời cũng là nơi thể hiện nhiều nét thành
công nhất trong việc xây dựng cấu trúc nghệ thuật” [12;16].
Tác phẩm gần đây nhất của Nguyễn Bình Phương là tiểu thuyết Ngồi cũng
nhận được không ít sự quan tâm, đánh giá khen chê của giới phê bình, nghiên cứu và
của nhiều bạn đọc. Lê Tự nhận định: “Ngồi là một cuốn sách viết hỏng”. Nguyễn

Đình Chú còn gay gắt hơn: “Có đến ma cũng không đọc nổi tiểu thuyết Ngồi”. Theo

7
Bùi Công Thuấn trong bài viết Ngồi và những thể nghiệm thất bại thì đây là một tác
phẩm không thành công của Nguyễn Bình Phương, bởi theo anh: “Thú thực là khi
tiếp cận với NGỒI, tôi phải đọc đi, đọc lại nhiều lần mấy chương đầu thì mới bắt
được mạch truyện, và phải đọc đến quá nửa cuốn sách thì mới có một chút hứng thú
để đọc tiếp. Nhiều lần đã định bỏ cuộc vì mệt mỏi và chán nản. Tác phẩm chẳng có
gì đáng để mình tốn hao sức lực và thời gian để đọc. Toàn chuyện vặt đời thường,
chuyện nghe tiếng nước đái, chuyện làm cá ở ngoài chợ, chuyện vượt đèn đỏ bị công
an phạt, chuyện đọc báo, chuyện người tâm thần ở truồng đứng trong mưa, chuyện
cô gái Việt Nam đi với một người đàn ông nước ngoài trên phố…”; “NGỒI khó đọc
không phải vì nó chưá đựng những tư tưởng cao siêu, những hình tượng lớn lao quá
tầm với của trí tuệ, những tri thức mà nhân loại chưa vươn tới, hay những cách tân
nghệ thuật ở Việt Nam chưa từng có. NGỒI khó đọc, đơn giản chỉ vì kỹ thuật trình
bày cuả tác giả”. Cũng nhận định đây là tác phẩm khó đọc nhưng với tác giả Nguyễn
Phước Bảo Nhân trong bài Tràng tiếng mõ trong Ngồi lại đánh giá cao về tác phẩm
này: “"Ngồi" là tác phẩm hết sức cô đúc và tràng tiếng mõ ở Ngồi là một yếu tố hình
thức nghệ thuật cũng cần được quan niệm như thế. (Nguyễn Bình Phương là nhà văn
có một gu sáng tác rất riêng lạ. Bên cạnh sự tích hợp phong phú nhiều kiểu tư duy
nghệ thuật của tiểu thuyết hiện đại và đương đại thế giới, ở nhà văn này còn có một
kiểu tư duy nghệ thuật khá độc đáo. Những trang viết quái lạ của anh thường tạo
cảm giác khó hiểu ở người đọc. Hình như nó không dành cho những độc giả “dễ tính,
hời hợt” lại vốn chỉ quen với những tác phẩm và cách đọc truyền thống). Đồng quan
điểm với Nguyễn Phước Bảo Nhân khi cảm nhận Ngồi là tác phẩm không dành cho
độc giả ngây thơ, dễ tính, tác giả Phạm Xuân Thạch viết: “Có lẽ Ngồi không thuộc
loại tiểu thuyết dành cho những tâm hồn ngây thơ và đơn giản, những tâm hồn tìm
kiếm sự thoải mái từ những câu chuyện ngụ ngôn, những cuộc phiêu lưu giả tưởng
và chân lý “prêt – à – porter”(đồ may sẵn, đem về nhà mặc). Không thể là cái gì
khác nó là một tiểu thuyết về chính đời sống của chúng ta. Nó mờ ảo và phức tạp, lộn

xộn và rối mù như đời sống của chúng ta. Nó không là một chân lý về đời sống mà là

8
một tiểu thuyết về chính cái trạng thái kiếm tìm ý nghĩa của đời sống. Nó là một cuộc
mời gọi đặt vấn đề phản tư về đời sống và ý nghĩa của đời sống. Nó là một tiểu
thuyết bắt người ta phải suy tư và làm điều ấy, nó xứng đáng là một tiểu thuyết và
một tiểu thuyết xuất sắc” [5;42].
Như vậy, từ khi ra đời, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đã được dư luận quan
tâm rộng rãi với những đánh giá xác đáng ghi nhận những thành công và cả những
hạn chế trong tiểu thuyết của anh. Nhưng những đánh giá này vẫn chỉ dừng lại ở
những bài viết “lẻ tẻ”, vẫn cần có những công trình khái quát toàn diện hơn nghiên
cứu về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Công trình của chúng tôi hy vọng là lấp vào
khoảng trống này.
Những ý kiến đánh giá của giới nghiên cứu, phê bình và dư luận đối với các
tác phẩm của nhà văn có ý nghĩa gợi mở đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài luận
văn. Chúng tôi đi vào tìm hiểu những đặc điểm trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương đồng thời đặt trong sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, để
khẳng định những đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng như khẳng
định sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát 7 cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương:
- Bả giời (NXB Quân đội nhân dân 1991, in lại năm 2004)
- Vào cõi ( NXB Thanh niên 1991)
- Những đứa trẻ chết già (NXB Văn học, 1994)
- Người đi vắng (NXB Văn học, 1999)
- Trí nhớ suy tàn (NXB Thanh niên, 2000)
- Thoạt kỳ thủy (NXB Hội Nhà văn, 2004)
- Ngồi (NXB Đà Nẵng, 2006).
Và một số tiểu thuyết khác của các nhà văn trong nền tiểu thuyết Việt Nam đương
đại để đối chiếu so sánh.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

9
Thực hiện đề tài luận văn chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp thống kê, khảo sát.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Phương pháp nghiên cứu thi pháp học.
5. Mục đích nghiên cứu
Đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm độc đáo, sáng tạo nổi bật của tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương, qua đó khẳng định những đóng góp của tác giả trong tiến trình
đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong
đó nội dung chia làm 3 chương:
Chương 1: Phác thảo bức tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Chương 2: Những đổi mới cơ bản về nội dung tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương
Chương 3: Một số phương diện đổi mới về nghệ thuật trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương.













10
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: PHÁC THẢO BỨC TRANH CHUNG CỦA
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1 Bức tranh chung về tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986
1.1.1 Đổi mới về thể loại tiểu thuyết
Trong lịch sử văn học, yếu tố thể loại được xem là chậm biến đổi hơn. Theo M.
Bakhtin thì chính thể loại “Là nhân vật chính của tấn kịch lịch sử văn học. Mỗi thể
loại, nhất là thể loại lớn, thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách
nhìn nhận, cảm thụ, giải minh thế giới và con người”. Chính vì thế khi tìm hiểu sự
đổi mới của văn xuôi nghệ thuật sau 1975, không thể không đề cập, quan tâm tới vấn
đề thể loại.
Đối với văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975, đa phần nhất trí đánh giá truyện
ngắn và tiểu thuyết là đạt được nhiều thành tựu nổi bật nhất. Tuy nhiên, sự khảo sát
của chúng tôi tập trung vào thể loại tiểu thuyết – thể loại được đánh giá là tín hiệu
mở ra một thời kỳ mới trong sáng tạo và tiếp nhận văn chương hiện đại.
Tư duy văn học thay đổi mạnh mẽ từ sau thời điểm 1986 và theo quy luật nó
phải được lắng kết ở những thể loại quan trọng nhất và cho tới nay, tiểu thuyết đã
bộc lộ ưu thế của mình trong đời sống văn học.
Nhìn từ góc độ thể loại, tiểu thuyết đã có những tìm tòi, cách tân ở một số
phương diện: cốt truyện, nghệ thuật trần thuật, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu. Có
thể nói trong quá trình vận động và phát triển, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã tiếp
thu những yếu tố hậu hiện tại: tính chất hỗn loạn và bất ổn của trật tự đời sống, sự
xáo trộn hư và thực, những kiểu cấu trúc mới, mảnh vỡ, liên văn bản, trò chơi cấu
trúc, bút pháp nghịch dị, huyền ảo…Các yếu tố cơ bản của hậu hiện đại đã được các
nhà văn Việt Nam biểu hiện ở nhiều mức độ, phong cách khác nhau. Giai đoạn đầu
sau đổi mới, dấu ấn hậu hiện đại xuất hiện trong văn Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy
Thiệp. Ở chặng sau, nhiều cây bút đã thử nghiệm những lối viết mới, các tác giả có


11
thể xếp vào xu hướng hậu hiện đại như: Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Thuận.
Nhiều tác giả có ý thức làm mới thể loại bằng những thể nghiệm kỹ thuật lạ hóa. Có
thể dễ dàng nhận thấy rằng mọi nỗ lực đổi mới, cách tân của tiểu thuyết chủ yếu là
học theo cách viết của phương Tây, áp dụng những kỹ thuật, thủ pháp nghệ thuật của
văn học hiện sinh, văn học phi lý mà hiện nay gọi là viết theo lối “Hậu hiện đại”. Để
thể hiện sự biến đổi trạng thái của con người đương đại, phải có những hình thức
nghệ thuật đặc thù, có cái nhìn mang tư duy hậu hiện đại.
Với các nhà văn, vấn đề đổi mới, cách tân tiểu thuyết thường được hướng tới
vấn đề lối viết. Viết theo lối tiểu thuyết chương hồi truyền thống, tức kết cấu tuyến
tính dường như không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại. Các nhà văn đã thể
nghiệm những kỹ thuật tự sự mới nhằm cách tân thể loại, góp phần đưa tiểu thuyết
Việt Nam dần dần hòa nhập với tiểu thuyết hiện đại của thế giới. Bên cạnh những tìm
tòi, cách tân về nhân vật, về ngôn ngữ, giọng điệu, nghệ thuật trần thuật…, các nhà
tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới đã giành nhiều tâm huyết cho sự cách tân về
mặt cốt truyện.
Có thể thấy một số đặc điểm về hình thức của tiểu thuyết hiện nay có xu hướng
mờ nhạt về tính “chuyện”, cốt truyện, có sự “phân rã” cốt truyện - “cốt truyện phân
mảnh”: cốt truyện trở nên lỏng lẻo, cấu trúc là sự lắp ghép rời rạc, lộn xộn… Cốt
truyện phân mảnh là kiểu cốt truyện được tạo nên từ hệ thống các mảng có tính độc
lập tồn tại bên cạnh nhau. Ở đây, cốt truyện đã bị tháo rời thành từng mảnh vụn rời
rạc, không theo một trình tự thời gian hay mối liên hệ nhân quả nào và mỗi mảnh vụn
chính là một mảnh của hiện thực, tạo nên sự đứt gẫy, quanh co phức tạp trong cấu
trúc tiểu thuyết. Đó là lối kết cấu đa tầng, đa tuyến, song hành, xoắn vặn, sắp đặt, lắp
ghép…Những câu chuyện lớn, những sự việc lớn - hiện thực lớn - có “tính sử thi”
như trước đây được thay bằng những câu chuyện nhỏ kiểu “mảnh vỡ”, “phân mảnh”,
nhưng được khai thác triệt để, nhấn sâu vào cảm giác hiện sinh, tô đậm chiều sâu vô
thức. Sự đề cao tính chất “trò chơi” của tiểu thuyết: chơi ngôn từ, chơi kết cấu với
những sắp đặt, dán ghép, nhảy cóc, dòng ý thức, xen cài lồng ghép, vật hóa, số hóa,


12
nhiều kết thúc; sự phá vỡ các mạch truyền thống từ lối đặt tên nhân vật, lề lối kết cấu,
rubích, kính vạn hoa “Cuộc chơi kết cấu” này đã dẫn đến sự pha trộn giữa các thể
loại: có lúc như kịch, có lúc như “thơ không vần”, có lúc như kịch bản điện
ảnh…Những biến hình so với truyền thống của hình tượng nhân vật như: phi trung
tâm, vênh lệch giữa vai tính cách và vai hình tượng, không có nhân vật lí tưởng, phi
tính cách, nhân vật có khi chỉ như một cái bóng mờ ảo. Rồi những kiểu nhân vật dị
biệt, kì ảo, với những biến tướng đa dạng…
Điểm nhìn nghệ thuật và sự khai thác đời sống trở nên rất phức tạp. Ở một số
tác giả, những từ thông tục, từ tục tằn có xu hướng tăng lên. Rồi lối viết phóng túng
của nhà văn với những câu văn không chấm phẩy, phá cách, trật khớp trong đối thoại,
cả những ý nghĩ miên man, chắp nối vụn vặt, nhảy cóc của nhân vật… tạo nên một
“mê lộ ngôn từ”, nhấn chìm nhân vật trong những “dòng chảy cuồng nộ”…Phải
chăng việc phá vỡ khuynh hướng tuyến tính, đề cao tính bất định, đứt đoạn, phân
mảnh trong việc xây dựng cốt truyện là một trong những biểu hiện của chất hậu hiện
đại trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Với kiểu cốt truyện phân mảnh, các
nhà văn muốn thể hiện một quan niệm mới về hiện thực: Đó là một hiện thực không
toàn vẹn, một hiện thực đổ vỡ, rạn nứt, một cuộc sống đang tan rã dần dần, một cuộc
sống không dễ tìm mối tương giao, không có một hiện thực cố định để tiếp cận mà có
vô số hiện thực bất định để ứng phó. Thế giới là tập hợp của những mảnh vụn hiện
thực - mỗi mảnh vụn nằm ở một chỗ riêng của nó - mỗi mảnh vụn tự nó là một tâm
điểm, nó có giá trị tự thân của nó.
Có thể nói, không thể hiểu được sâu sắc tác phẩm văn học nếu không tìm hiểu
điểm nhìn nghệ thuật trần thuật. Đó là vị trí của người trần thuật quan sát, cảm thụ,
miêu tả và đánh giá đối tượng. Tìm hiểu tiểu thuyết Việt Nam đương đại, đáng chú ý
là ba hiện tượng: sự dịch chuyển điểm nhìn nghệ thuật, sự luân chuyển điểm nhìn
người trần thuật và nhân vật, nhiều điểm nhìn.
Trong văn học truyền thống, các tác phẩm văn học được xây dựng từ điểm
nhìn tương đối ổn định, đó là cái nhìn „„biết trước‟‟, người kể chuyện miêu tả, tái


13
hiện đời sống chủ yếu bằng ngôi thứ ba. Tới văn học sau đổi mới, ý thức tạo dựng
nhiều điểm nhìn, dịch chuyển điểm nhìn nghệ thuật một cách liên tục đã trở thành
một thủ pháp nghệ thuật có tính phổ biến. Điều đó làm cho văn học đặc biệt là tiểu
thuyết hiện đại trở nên uyển chuyển, linh hoạt và như M.Bakhtin thì khiến cho thể
loại này chưa bao giờ „„bị đông cứng lại‟‟.
Khảo sát một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại ta thấy, Thiên thần sám hối
của Tạ Duy Anh lựa chọn điểm nhìn bên trong là hài nhi trong bụng mẹ. Ban đầu nó
„„khao khát chờ đến cái ngày vĩ đại ấy‟‟ - ngày mà cậu bé được chào đời. Nhưng
chính trong giờ khắc ngắn ngủi trước lúc chào đời cậu bé lại băn khoăn suy tư :
„„…Có quá nhiều điều không thể nào hiểu nổi… Có biết bao tai vạ khó lường mình
còn chưa cắt nghĩa được bằng từ ngữ. Vậy thì dại gì mình chui đầu vào rọ khi mình
có toàn quyền quyết định‟‟[67]. Cứ thế toàn bộ câu chuyện được kể từ điểm nhìn của
hài nhi, người nghe có dịp chứng kiến sự tha hóa của con người thông qua những
điều cậu bé nghe được trong bệnh viện. Cái hay và hấp dẫn khi tác giả lựa chọn điểm
nhìn bên trong là nhà văn không cần biện giải, bình luận gì mà cuộc sống đầy tội lỗi
kia cứ hiện lên tự nhiên, rõ ràng một cách khách quan.
Như vậy sự dịch chuyển điểm nhìn là một thủ pháp nghệ thuật hấp dẫn làm
cho tác phẩm trở nên phong phú, đa chiều. Nếu trước đây cái nhìn của người kể
chuyện là cái nhìn tối thượng thì điểm nhìn nhân vật bị giới hạn, người kể chuyện
kiểm soát tất cả sinh mệnh của nhân vật và sự phát triển của câu chuyện (người kể
chuyện lớn hơn nhân vật) thì sự gia tăng tính đối thoại của tiểu thuyết hiện đại đã làm
cho vai trò của nhân vật ngang hàng, vai trò bình đẳng với vai trò của người kể
chuyện.
Hiện tượng nổi bật thứ hai là sự luân chuyển điểm nhìn người trần thuật và
nhân vật. Trong Nỗi buồn chiến tranh, điểm nhìn trần thuật được Bảo Ninh di động
linh hoạt từ nhân vật này sang nhân vật khác, tổ chức điểm nhìn từ nhiều phía giúp
cho cái nhìn về chiến tranh hiện lên chân thực hơn chính xác hơn. Trong tác phẩm có
hai mạch kể chuyện là người trần thuật xưng „„tôi‟‟ và mạch kể chuyện của các nhân


14
vật trong tác phẩm. Nét độc đáo trong tác phẩm là phần lớn được nhìn bằng cái nhìn
của nhân vật Kiên, ngay đoạn mở đầu tác phẩm người đọc ngỡ như tác phẩm được kể
bằng ngôi thứ ba nhưng thực chất là sự giấu kín người trần thuật nhằm tạo nên sự bất
ngờ cho độc giả. Nhưng không chỉ dừng lại điểm nhìn của Kiên, tác giả còn đặt điểm
nhìn vào các nhân vật : cha của Kiên, Phán… Đáng lưu ý hơn là cái nhìn của Phương.
Yêu Kiên nhưng Phương có quan điểm riêng, khi Kiên sắp ra trận, Phương đã có cái
nhìn về chiến tranh khác với Kiên. Kiên cảm thấy cần tham chiến (gần với mẹ), còn
Phương suy nghĩ gần giống cha Kiên, nhìn thấy trước sự bi thảm của chiến tranh.
Mỗi người có cách cảm nhận, nhìn nhận về chiến tranh riêng (với nhiều điểm nhìn
trần thuật khác nhau) đã tạo nên sự đa chiều, cách xây dựng điểm nhìn của Bảo Ninh
khước từ cách nhìn một phía, áp đặt chiến tranh chỉ hiểu một cách duy nhất. Điểm
nhìn người trần thuật, xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm, người kể chuyện xưng
„„tôi‟‟ mới xuất hiện. Tôi tình cờ có được bản thảo, kể lại việc sắp xếp của mình.
Người kể chuyện : „„Không hề có một chữ nào là của tôi trong bản thảo mới, tôi chỉ
xoay xoay vặn vặn như người chơi Rubíc vậy thôi. Nhưng sau khi chép xong đọc lại,
tôi ngỡ ngàng nhận thấy ý tưởng của mình, những cảm giác của mình, thậm chí cả
những cảnh ngộ của mình nữa. Dường như do sự tình cờ của câu chữ và bố cục, tôi
và tác giả đã ngẫu nhiên trở nên hòa đồng tư tưởng, trở nên rất gần nhau. Thậm chí
tôi ngờ rằng có quen anh trong chiến tranh‟‟[71]. Người kể chuyện chỉ ghi lại những
gì đã có của „„tôi‟‟ trong bản thảo (Kiên). Khi người trần thuật thấy mình và nhân vật
ngẫu nhiên hòa đồng, gần gũi tức là thừa nhận sự giống nhau về quan điểm. Người
trần thuật đã từng trải qua những đau đớn dằn vặt như nhân vật cuả mình – hình thức
trải nghiệm trong trải nghiệm. Nhưng khi người kể chuyện nói tới tình trạng „„Mỗi
người trong chúng tôi bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng, mỗi người ngay từ
ngày đó đã mang trong lòng một cuộc chiến tranh của riêng mình‟‟[71], chính vậy
đã hé mở khả năng có thể sẽ có rất nhiều cuộc chiến tranh khác nữa được kể lại vì
mỗi người có một cuộc chiến tranh riêng, một nỗi buồn riêng.


15
Vậy sự kết hợp điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật thực chất là
sự phân tán-gấp bội điểm nhìn. Điểm nhìn người kể chuyện không phải lúc nào cũng
thống nhất với nhân vật và giữa các nhân vật, điểm nhìn lại khác nhau, hình thức này
nhằm khám phá đời sống từ nhiều chiều kích khác nhau.
Trong Cơ hội của chúa, Nguyễn Việt Hà lại sử dụng gấp bội điểm nhìn – cùng
một lúc tồn tại nhiều điểm nhìn, các điểm nhìn cùng lúc chồng lên nhau, đan chéo
nhau để mở ra cho người đọc những khám phá mới về đối tượng. Tác giả xây dựng
nhiều trường nhìn, bên cạnh trường nhìn của người kể chuyện, các nhân vật trong tác
phẩm xưng „„tôi‟‟ mỗi tôi là một cuộc đời, suy nghĩ và có cách sống riêng nhưng đan
xen với nhau. Trong tác phẩm, nhân vật Hoàng là phức tạp nhất, đối với Tâm, anh là
người thông thái, đáng kính trọng nhưng không hợp thời. Với Thủy, anh lại là người
quen sống tạm bợ, lúc đầu thấy hay hay nhưng sống với anh một thời gian mới thấy
anh là người „„dựa dẫm‟‟, ích kỷ. Bình cho rằng anh là gã lưu manh „„quen hàng
chục đàn bà‟‟, „„lừa gạt em gái một người bạn thân‟‟. Với Nhã, Hoàng luôn được tin
cậy, nhưng thuộc „„lớp người cũ đa cảm và mê tín, có mặt ở cuộc đời này để không
thuộc về một cái gì‟‟. Không những vậy Hoàng còn là người giỏi tiếng Anh, kiến
thức sâu rộng, uyên bác. Là một tín đồ nhưng anh lại thường xuyên vi phạm „„uống
rượu và quan hệ trai gái‟‟. Nhân vật Hoàng dưới con mắt mọi người được đánh giá
trái chiều nhau, khó mà xếp hẳn sang tích cực hay tiêu cực mà anh tồn tại như một
nhân vật trạng thái. Đối với tự bản thân anh, anh nhận thấy mình „„là kẻ bạc nhược
không neo đứng vào bất cứ chỗ nào‟‟[68] .Chính vì thế mà khiến người đọc thấy anh
không là người hoàn hảo về tính cách nhưng cơ bản lương thiện và đáng trọng.
Tóm lại, với tinh thần đối thoại, cởi mở và dân chủ trong sáng tạo nghệ thuật,
các nhà văn Việt Nam sau đổi mới đã áp dụng nhiều cách tân mới mẻ trong đó có
nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật.
Tìm hiểu sự cách tân thể loại không thể không tìm hiểu ngôn ngữ, giọng điệu
cuả tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Ngôn ngữ là chất liệu, phương tiện biểu hiện
mang tính đặc trưng của văn học. Nếu như ngôn ngữ sử thi dài dòng thì ngôn ngữ


16
tiểu thuyết lại gần gũi với đời sống, nó mang những đặc trưng thể loại : tính văn xuôi,
tính tổng hợp, tính đa thanh. So với ngôn ngữ thi ca, ngôn ngữ tiểu thuyết có phạm vi
hoạt động tự do linh hoạt hơn. Trong ngôn ngữ của nhân vật, tiểu thuyết thu nạp các
dạng thức lời nói khác nhau của nhiều tầng lớp trong xã hội. Tiểu thuyết miêu tả
cuộc sống như nó vốn có, ngôn ngữ tiểu thuyết được soi sáng không chỉ bởi ngôn
ngữ tác giả mà còn được soi sáng bởi ngôn ngữ nhân vật. Tính đối thoại là yếu tố cơ
bản của ngôn ngữ tiểu thuyết, tác giả cùng tham gia tranh luận với ngôn ngữ nhân vật,
hòa nhập đối thoại với nhân vật. Ý thức đối thoại trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới
được triển khai và phát huy trong bối cảnh lịch sử mới, trong không khí dân chủ hóa
của đời sống văn học. Ngôn ngữ tiểu thuyết đương đại gần với ngôn ngữ đời thường ,
đậm khẩu ngữ tiêu biểu như Thời xa vắng của Lê Lựu, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai,
Cơ hội của chúa - Nguyễn Việt Hà, Đi tìm nhân vật -Tạ Duy Anh, Thoạt kỳ thủy –
Nguyễn Bình Phương…
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm cũng đóng vai trò quan trọng trong tiểu thuyết
đương đại, góp phần đi sâu vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn của nhân vật, các nhà văn
đã sử dụng những giấc mơ thông qua kỹ thuật dòng ý thức để biểu hiện độc thoại nội
tâm đã giúp các nhà văn khai thác và khám phá thế giới tâm linh của con người. Tiếp
thu những thủ pháp dòng ý thức của tiểu thuyết phương Tây làm phương tiện đi vào
thế giới tâm linh của nhân vật. Kỹ thuật dòng ý thức sử dụng dòng thời gian đồng
hiện, hồi ức, hoài niệm, dòng suy tưởng, những giấc mơ để nhân vật tự bộc lộ những
miền sâu kín của tâm hồn nằm ngoài vòng kiểm soát của ý thức con người. Nhiều tác
phẩm đã sử dụng môtíp giấc mơ như một ngôn ngữ độc thoại đặc biệt để giải mã thế
giới vô thức của con người, thể hiện rõ nét trong tác phẩm Ngồi, Người đi vắng –
Nguyễn Bình Phương, Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh, Giàn thiêu – Võ Thị Hảo…
Giọng điệu tiểu thuyết Việt Nam đương đại cũng rất đa dạng. Có giọng thương
cảm trữ tình, có giọng suồng sã, giọng chua chát, bi thương, giọng ỡm ỡ, giọng suy
tưởng, triết lý…Giọng điệu có vai trò quan trọng trong việc thể hiện cá tính sáng tạo
của tác giả. Mỗi nhà văn trong sự làm mới thể loại cũng làm mới giọng điệu, góp


17
phần cách tân nghệ thuật tổ chức truyện kể…tìm hiểu giọng điệu là đi tìm khuôn mặt
của nhà văn, bởi giọng điệu tạo nên phong cách cá tính của tác giả. Giọng điệu tiêu
biểu là giọng triết lý, giọng điệu trào phúng, giễu nhại, giọng điệu vô âm sắc. Đi vào
tìm hiểu giọng chủ đạo của tiểu thuyết đương đại để khẳng định sự phát triển của tiểu
thuyết trên bình diện giọng điệu.
Giọng triết lý nhằm nhấn mạnh những vấn đề nhà văn muốn gửi gắm, triết
luận với người đọc. Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly khi triết lý về danh vị, quan trường
Nguyễn Xuân Khánh viết : „„Cái bệnh thèm làm quan, thèm danh, thích phân chia
ngôi thứ ấy là căn bệnh cố hữu của người Nam từ nhiều đời‟‟. Trong Thiên thần sám
hối Tạ Duy Anh triết lý về cái chết : „„Con người không làm được gì hơn ngoài sự
chuẩn bị cho cái chết của mình. Vì thế họ phải chuẩn bị đến nơi đến chốn‟‟. Đi tìm
bản thể, nhân vật tiểu thuyết đương đại luôn trong trạng thái cô đơn, khủng hoảng,
hiện tại trở nên vô nghĩa, mỗi tác phẩm là một cuộc hành trình kiếm tìm bản thể đầy
giằng xé, chính vì thế mà giọng triết lý trở thành chủ đạo mang lại cho tiểu thuyết
đương đại âm sắc mới.
Kundera quan niệm : „„Tiểu thuyết sinh ra không phải từ tinh thần lý thuyết mà
từ tinh thần hài hước‟‟. Quả vậy, tiểu thuyết đương đại Việt Nam ngày càng nhạt dần
chất sử thi, tiểu thuyết gắn bó mật thiết với đời sống, gần với đời thường hơn. Cái hài
hước, giễu nhại của đời sống đi vào tiểu thuyết một cách tự nhiên nhuần nhị, nó đã
tạo thành một giọng điệu riêng của tiểu thuyết đương đại. Giọng trào phúng, giễu
nhại trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam được thể hiện dưới nhiều cấp độ khác
nhau. Giọng châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng,
giọng trào lộng Tạ Duy Anh, giễu nhại Hồ Anh Thái, Thuận. Giọng giễu nhại là yếu
tố làm nên sự đổi mới giọng điệu trong tiểu thuyết đương đại. Trong Khải huyền
muộn, Nguyễn Việt Hà viết : „„Cạc vi dít của thầy, mục chức danh có nhiều nhà. Nhà
thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghệ thuật học. Nhiều nhà như thế đáng nhẽ phải gọi là
phố‟‟.

18

Giọng chủ đạo trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam còn có giọng vô âm sắc,
cung cấp sự thật không kèm theo giọng điệu, không có ngữ điệu. Giọng điệu vô âm
sắc xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn
Bình Phương, Thuận…Ở tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy – Nguyễn Bình Phương dùng
giọng kể đều đều, như một „„giọng văn trắng‟‟, câu văn đặt cạnh nhau khô khan, rời
rạc, các chi tiết được giản lược tối đa, lược bỏ lời chỉ dẫn, chủ thể phát ngôn : „„Bị
dắt đi, dắt đi. Có mấy sợi lông mao treo dưới tán lá đen. Hai người ngồi trong hốc
cổ thụ nói về máu. Đập đập đập đập đập…đẻ ả từ nách này‟‟[64]. Trong tiểu thuyết
T mất tích ngay từ đoạn mở đầu Thuận viết : „„T mất tích. Cảnh sát, sau bốn mươi
tám tiếng đúng quy định hình sự, đã khẳng định như vậy và tung kế hoạch truy tìm
trên phạm vi toàn quốc.‟‟. Giọng điệu vô âm sắc cũng góp phần làm nổi bật hiện thực
phân rã, vỡ vụn, qua đó làm rõ trạng thái cô đơn của con người.
Đa dạng về giọng điệu đã tạo nên sự phong phú, nhiều diện mạo phong cách
của tiểu thuyết đương đại Việt Nam, kết hợp nhiều giọng điệu xuất hiện nhiều ở cuối
thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI góp phần đưa văn học Việt Nam hòa chung vào xu thế
hậu hiện đại thế giới.
Tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã có ý thức tìm tòi, đổi mới nghệ thuật và kỹ
thuật tiểu thuyết gắn với nội dung nhân văn đã thúc đẩy thể loại phát triển, góp phần
cách tân và hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam. Bằng tài năng, tâm huyết các tác giả tiểu
thuyết đã nỗ lực tìm tòi, đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết đưa tiểu thuyết Việt
Nam hòa nhịp với văn học nhân loại, tạo nên diện mạo mới cho tiểu thuyết và cho
văn học Việt Nam đương đại.
1.1.2 Đổi mới quan niệm về hiện thực
Văn học bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh cuộc sống, bày tỏ quan điểm, lập
trường đối với đời sống. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, văn học có cách phản ánh và
nội dung phản ánh khác nhau. Hiện thực nổi bật nhất của văn học giai đoạn trước đổi
mới là hiện thực của đời sống chính trị xã hội với hai nội dung chính: cuộc chiến
tranh vệ quốc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi toàn dân tộc một lòng

19

chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thì tư tưởng: “Văn nghệ phục vụ chính trị” được tuyệt đối
hóa dẫn đến sự ra đời nền văn học phiến diện, một chiều – văn học bị chính trị hóa.
Chính vì vậy, nhận thức lại hiện thực là một điều cấp bách trong văn học. Tác giả Lê
Ngọc Trà đưa ra một quan niệm mới về văn học phản ánh hiện thực: “Văn học trước
hết không phản ánh hiện thực mà là sự nghiền ngẫm về hiện thực” [17] “Văn học
không phải không phản ánh, mô tả hiện thực, nhưng đừng nên xem đây là nhiệm vụ
quan trọng nhất, nhiệm vụ hàng đầu và bao trùm nó. Nội dung của tác phẩm văn học
vì vậy cũng chứa đựng trước hết không phải là hiện thực được phản ánh, mà là tư
tưởng, tình cảm của nhà văn” [17]. Quan điểm ấy vẫn chưa có sự đồng thuận hoàn
toàn, cần phải tìm hiểu về hiện thực được phản ánh trong văn học để đánh giá đúng
đắn hơn về nền văn học đương đại Việt Nam cũng như hiện thực được phản ánh
trong tiểu thuyết đương đại.
Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực, mỗi giai đoạn lịch sử lại mang đến
cho văn học những đề tài, nội dung khác nhau cũng đặt ra những yêu cầu khác nhau.
So với văn học sau năm 1986 cho đến nay đã có sự đổi mới rất lớn trong quan niệm
phản ánh hiện thực.
Điểm nổi bật của văn học trước đổi mới là khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn, văn học phục vụ cách mạng là công cụ phục vụ nhiệm vụ chiến đấu. Chính
vì thế tất cả những vụn vặt của đời sống bình thường đều bị gác lại, nhiệm vụ chính
trị của đất nước là ca ngợi cách mạng và cuộc sống mới, cổ vũ ngợi ca thành tựu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, cổ vũ cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước
nhà. Do hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu của thời đại nên văn học thời kỳ này chưa phản
ánh mối quan hệ đa chiều, đa diện của hiện thực cuộc sống. Những hạn chế ấy đã
được văn học sau đổi mới khắc phục. Trước đổi mới, đối tượng phản ánh của văn
học là hiện thực đời sống chính trị - xã hội với hai đề tài chính : công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Nổi bật ở thời kỳ này là hình tượng
cuộc sống mới, con người mới. Hình tượng Tổ quốc, hình tượng nhân dân đặc biệt là
hình tượng người anh hùng với ý chí giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà là hiện

20

thực vĩ đại nhất. Chiến tranh trở thành hiện thực lớn nhất được phản ánh trong nhiều
tác phẩm tiêu biểu như: Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi, Đất nước đứng lên –
Nguyên Ngọc, Dấu chân người lính – Nguyễn Minh Châu, Vỡ Bờ - Nguyễn Đình
Thi… Nhìn lại nền văn học Việt Nam từ 1945 – 1975 mang đậm chất sử thi, phù hợp
với thời đại lịch sử hào hùng “Cả nước cùng chung tâm hồn, cùng chung khuôn mặt”
(Chế Lan Viên). Chiến tranh kết thúc, đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, nhu cầu
đổi mới toàn diện đời sống được đặt ra như một vấn đề sống còn. Văn học cũng vậy,
đời sống thay đổi văn học cũng phải vận động để phù hợp với thực tế. Từ sau đổi
mới, văn xuôi chuyển sang cảm hứng thế sự - đời tư và thực tế, văn học vẫn đậm chất
sử thi nhưng đã mang nội dung hiện thực, đã xuất hiện nhiều tác phẩm mang cảm
hứng thế sự được đông đảo công chúng quan tâm chú ý như Mùa lá rụng trong vườn
(Ma Văn Kháng), Hành trình ngày thơ ấu (Dương Thu Hương), Thời xa vắng (Lê
Lựu)… Từ sau năm 1986 các tác phẩm thế sự đã hoàn toàn chiếm ưu thế trên văn
đàn, từ sau năm 1990 hàng loạt tiểu thuyết xuất hiện đều được viết bởi cảm hứng thế
sự : Bên kia bờ ảo vọng, Hôn nhân không có giấy giá thú, Một cõi nhân gian bé tý,
Ăn mày dĩ vãng, Thiên sứ…đều đặt ra vấn đề đời sống từ góc độ đạo đức – sinh hoạt,
đời tư cá nhân.
Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái hiện thực
hàng ngày, cái đời thường của đời sống cá nhân. Nhìn thẳng vào những mảnh vỡ,
những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày bằng cái nhìn trung thực, táo bạo, hướng
tới thân phận con người mang đậm giá trị nhân văn. Đáp ứng nhu cầu nhận thức đánh
giá lại những vấn đề của quá khứ, nhiều tác phẩm đã khai thác vấn đề cải cách ruộng
đất với tinh thần trung thực của văn học, nhận thức lại những sai lầm ấu trĩ, những
mặt trái của hiện thực được xem xét kĩ lưỡng, công bằng hơn. Mảnh đất lắm người
nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Những thiên đường mù (Dương Thu Hương) là
những tác phẩm như thế. Nếu trước kia, văn học thiên về ca ngợi biểu dương, khẳng
định cái tích cực, đẹp đẽ thì bây giờ có nhu cầu bổ sung bằng khám phá mặt trái, mặt
tiêu cực và sức mạnh phê phán. Trong “Mảnh đất lắm người nhiều ma” (Nguyễn

21

Khắc Trường) đã phơi bày sâu sắc, sống động hiện thực nông thôn luôn che đậy giả
dối. Xóm Giếng Chùa đứng đầu cả xã về sự sang giàu thì đang trải qua những trận
đói vàng mắt, có nhà vì sĩ diện mà đóng cửa ăn cháo cám cả tháng, cán bộ thì vẫn
hùng hồn diễn thuyết, hùng biện với những chủ trương, nghị quyết… Văn học từ sau
1986 đặc biệt chú ý đến nông thôn Việt Nam. Một loạt tác phẩm đã lấy bối cảnh
nông thôn như: Bến không chồng – Dương Hướng, Thời Xa vắng – Lê Lựu, Phiên
chợ Giát, Khách ở quê ra – Nguyễn Minh Châu, Mảnh đất lắm người nhiều ma –
Nguyễn Khắc Trường,… Nông thôn vốn là một không gian yên bình, là nơi bảo tồn
những giá trị truyền thống của dân tộc, là nơi tình người thắm đượm sắt son. Tuy
nhiên đây cũng là nơi trói buộc con người trong những tư tưởng lạc hậu, những tập
tục, tập quán cổ hủ. Trong tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trường cũng đã phơi bày một hiện thực nông thôn rùng rợn, xung quanh mối xung
đột kéo dài nhiều thế hệ giữa hai dòng họ Trịnh Bá và Vũ Đình. Tác phẩm phơi bày
những mâu thuẫn gay gắt, với những màn đấu trí, đấu lực hừng hực lòng thù hận, lúc
này chẳng còn đâu tình hàng xóm láng giềng, tình đồng bào ruột thịt giữa hai dòng
họ. Bao cái dở của dòng họ gặp cái yếu kém và sự lợi dụng của tổ chức Đảng và
chính quyền địa phương đã xáo trộn cuộc sống của rất nhiều người, gây ra bi kịch
cho những con người lương thiện.
Nguyễn Minh Châu từng viết “nhà văn phải gắn bó với cuộc sống”, nên người
nghệ sĩ cần có một đôi mắt tinh tường và cái tâm trong sáng để nhận thức thực tại,
thấu hiểu thực tại và thấy được bản chất của cuộc sống. Nhà văn không thể nhìn cuộc
đời bằng con mắt hời hợt, phiến diện, một chiều. Không thể chỉ ca tụng cái đẹp đẽ
nhìn thấy bên ngoài mà làm ngơ hoặc bỏ qua những mặt trái của cuộc sống. Nếu nhà
văn chỉ nhìn lướt qua bên ngoài để rồi ghê sợ lánh xa những điều như vậy thì sẽ
không có những tác phẩm chân thực. Nói đến mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống
thì Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm tiêu biểu cho đề
tài này. Tác phẩm kể về hành trình đi tìm cái đẹp của người nghệ sĩ Phùng. Mấy ngày
liên tiếp, nhiếp ảnh gia Phùng chờ đợi để có thể chụp được những bức ảnh hoàn hảo.

22

Rồi một buổi sáng nọ, Phùng đã bắt gặp một cảnh “đắt” trời cho: “trước mặt tôi là
bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào
bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh sáng mặt trời
chiếu vào…một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi bối rối,
trong trái tim có gì bóp thắt vào”. Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc tràn ngập tâm
hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại, anh “tưởng chính mình
vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn”. Nhưng khi con thuyền vào bờ, vẻ đẹp toàn bích, lung linh
kia không còn nữa mà thay vào đó là một người đàn bà xấu xí, khuôn mặt mệt mỏi và
một người đàn ông thô kệch, con mắt đầy vẻ dữ tợn :“lão đàn ông lập tức trở nên
hùng hổ, mắt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày
xưa, …lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp
vào lưng người đàn bà… Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không
hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.” Cuộc sống có
nhiều mặt, nhiều vẻ nhà văn không thể nhìn cuộc sống bằng con mắt phiến diện, chỉ
nhìn thấy mặt này mà không thấy mặt kia, chỉ thấy bề ngoài mà không nắm được bản
chất bên trong. Người nghệ sĩ không thể chỉ chú trọng vào cái đẹp, cái cao cả mà bỏ
qua những mặt khác của cuộc sống.
Hòa bình lặp lại với bao điều mới mẻ nhưng cũng nhiều bức xúc, bộn bề của
thời hậu chiến, điều đó đã mở ra một hướng đi mới cho văn học. Phạm vi hiện thực
toàn diện hơn, chân thực hơn. Từ hiện thực cuộc sống mới văn học tìm đến cuộc
sống nhân sinh, thế sự đời tư mới mẻ, chân thực, đậm chất nhân văn và gần gũi với
con người. Các tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn này có thể kể đến : Cha và con,
Cuộc gặp gỡ cuối năm – Nguyễn Khải, Mảnh đất lắm người nhiều ma – Nguyễn
Khắc Trường, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra…-
Nguyễn Minh Châu… Các tác giả đã tìm đến những mảng hiện thực bộn bề của đời
thường bày tỏ ý thức trách nhiệm với cuộc đời với con người.

23
Viết về chiến tranh, bên cạnh những chiến công hiển hách, những tượng đài

chiến thắng đầy vinh quang là biết bao những đớn đau, biết bao là nước mắt, đắng
cay, tủi cực của những con người trở về từ cuộc chiến và bắt đầu lại với cuộc sống
đời thường. Giờ đây, các nhà văn không đi vào miêu tả, tái hiện lại không khí chiến
trận đầy mưa bom bão đạn nữa mà tập trung vào những số phận con người, những bi
kịch của con người trong những mảng đời riêng đã bị chiến tranh hủy hoại. Có thể
nói Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là tác phẩm xuất sắc thể hiện cái nhìn chân
thực nhất về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân ta. Ta chưa bao giờ thấy
nhà văn nào nói nhiều đến máu và cái chết trong chiến tranh như Bảo Ninh: “Máu
tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét”. Một cách miêu tả ghê rợn song nó phản
chiếu được cái màu đỏ u ám, đau đáu của cuộc chiến. Đó là máu của biết bao người
đổ xuống để đổi lấy giá trị của hòa bình. Cái chết trong Nỗi buồn chiến tranh đã gây
nên một sự ám ảnh. Ta bắt gặp nhiều hình thái của cái chết: trần truồng, biến dạng,
bê bết máu… và có cả cái chết để tỏ lòng quả cảm “thà chết không hàng… Anh em,
thà chết”. Bảo Ninh nhìn cuộc chiến tranh của nhân dân ta bằng con mắt của một
người bình thường, là người trực tiếp tham gia chiến đấu cho nên ông đã thấy được
cả hai mặt của cuộc chiến. Chiến tranh không phải lúc nào cũng đưa lại sự huy hoàng,
mà cuộc chiến ấy đã đày ải tàn nhẫn làm cho suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần. Cái giá
phải trả cho hai chữ “hòa bình” là xương máu của những người đã từng cầm súng
chiến đấu. Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh cùng những đồng đội của anh đã cảm
thấy buồn pha lẫn sự ghen tị trước tâm trạng của mọi người trong cái ngày 30 tháng 4
lịch sử ấy, và trong tâm thức sâu xa của họ, họ đã mong mỏi biết chừng nào cái ngày
chiến tranh kết thúc, bởi lẽ họ không muốn phải giết người, không muốn đổ máu:
“Hừ! Hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ nắm thịt bao anh
em mình, để chừa lại chút xương mà những người được phân công nằm lại gác rừng
lẽ là những người đáng sống nhất”[71] . Phải nói rằng trước Bảo Ninh chưa có nhà
văn nào viết về chiến tranh lại tàn khốc và táo bạo như vậy. Bảo Ninh đã đi sâu vào
từng ngóc ngách của cuộc chiến tranh, hiểu được tâm trạng của những người đang

×