Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Sự khủng khoảng của tiểu thuyết đánh giá tiểu thuyết Việt Nam Đương Đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.88 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC

TIỂU LUẬN
SỰ KHỦNG KHOẢNG CỦA TIỂU THUYẾT
ĐÁNH GIÁ TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Sự khủng khoảng của tiểu thuyết đánh giá tiểu thuyết Việt Nam
Đương Đại
Giảng viên

: PGS.TS Nguyễn Trường Lịch

Học viên thực hiện

: Vũ Thị Vân

Lớp

: Cao học K51 Văn

Hà Nội -2007

1


Cuộc sống vẫn đêm ngày “đánh” vào văn chương “trăm nghìn lớp
sóng”(chữ dùng của Chế Lan Viên) và những đợt sóng ấy đã tạo nên những
bước thăng trầm của văn học mọi thời đại. Trong sự thai nghén và sinh nở của
các thể loại văn học, cho đến nay, tiểu thuyết được coi là đứa con sinh sau đẻ
muộn. Nhưng có lẽ vì thế mà nó nhận được sự “chăm chút đầy kinh nghiệm” từ


các đấng sinh thành.
Song hành cùng các thể loại khác vượt con đường “băng hoại của
thời gian” (Sêđrin), liệu tiểu thuyết có đủ sinh lực và “sức đề kháng” để trường
tồn? Bước sang thế kỷ XX, trên văn đàn thế giới diễn ra hàng loạt các cuộc tranh
luận về “Số phận của tiểu thuyết” và gần đây tại Việt Nam, câu hỏi “tiểu thuyết
đang ở đâu?” đã trở thành nỗi niềm khắc khoải của các nhà phê bình nói chung
và các nhà tiểu thuyết nói riêng. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đó là mục đích
thơi thúc người viết cầm bút…
Tiểu thuyết là gì? nó có phải là sự kéo dài của truyện ngắn như
một số người quan niệm? Cuộc du hành của tiểu thuyết trên mọi nẻo đường bắt
đầu từ “đôi chân”. Trên hành trình ấy, tiểu thuyết cũng giống như các bộ mơn
nghệ thuật khác, nó phản ánh hiện thực, nói như nhà triết học cổ đại Arixtốt thì
“nghệ thuật là sự bắt chước hiện thực”. Tiểu thuyết ra đời “khi những đường nét
cuộc sống tư bản bộc lộ rõ rệt” và được đánh dấu từ “Đơn-ki-hơ-tê” - “tất cả có
từ Cesvantes”. Tiểu thuyết được coi là sử thi của xã hội Tư bản. Tiểu thuyết đích
thực cũng giống như sử thi, địi hỏi một cảm giác tồn vẹn, một quan điểm toàn
vẹn đối với cuộc sống, đối với chất liệu nhiều mặt mà nội dung biểu hiện trong
các tình huống cá nhân vốn là cái tạo thành tiêu điểm của toàn bộ chỉnh thể.
Stendhal cho rằng: “Tiểu thuyết là tấm gương đi rong trên đường cái, phản chiếu
cả sắc thanh thiên của bầu trời lẫn rác rưởi trên đường. Vậy xin đừng kết tội tấm
gương nếu nó phản ánh bùn lầy” (Đỏ và đen), Gơgơn cũng đồng tình với quan
niệm trên khi ông lên tiếng: “chớ nên chê cái gương nếu thấy miệng anh méo
mó”.
2


Bàn về tiểu thuyết, Bêlinxki viết: “tiểu thuyết là sự phân tích nên thơ đời
sống xã hội”, Balzăc nói: “tiểu thuyết là những tấn kịch tư sản, tiểu thuyết sẽ
không là gì cả nếu trong lời nói tơn nghiêm ấy nó khơng chính xác trong những
chi tiết”. Alfred de Vigny thì cho rằng: “Lịch sử là tiểu thuyết mà nhân dân là

tác giả. Nhân vật được tạo ra bằng cách tập hợp những nét rảI rác trong cả ngàn
cá nhân được khảo sát một cách toàn diện”. Theo G.de Maupassant: “Nếu nhà
tiểu thuyết hôm qua chọn và kể về những khủng hoảng của cuộc sống, những
trạng thái gay gắt của tâm hồn, của trái tim thì nhà tiểu thuyết ngày nay viết lịch
sử của trái tim, của tâm hồn, của trí tuệ ” và “tiểu thuyết là nhà văn tạo ra cho
người đọc một ảo tưởng về hiện thực”. Georges Sand lại tâm sự: “chúng tôi tin
rằng sứ mệnh của nghệ thuật là sứ mệnh của tình cảm và tình yêu, rằng tiểu
thuyết hôm nay cần phải thay thế cho những truyện ngụ ngôn thời kỳ ấu trĩ”.
“Tiểu thuyết là cơng trình tưởng tượng một câu chuyện văn xi hay những
chuyện tưởng tượng xảy ra, sáng tác và sắp đặt để người đọc ham thích” (Từ
điển Larouse) hay “tiểu thuyết là nơi lưu giữ hình dáng cuộc đời” (Từ điển
Compton’s). Mục đích của tiểu thuyết “là tả lại cái có thật một cách nên thơ”
theo Francois Mauriac. Milan Kundera thì khẳng định: “tiểu thuyết khảo sát
không phải hiện thực mà khảo sát cuộc sống, cuộc sống không phải là những gì
diễn ra, mà cuộc sống là vùng các khả năng của con người, tất cả những gì con
người có thể trở nên, tất cả những gì con người có thể”. Robert lại nói: “tiểu
thuyết là những chuyện về những nhân vật có khát vọng. Viết trong vơ thức.” *
… Cịn rất nhiều những quan niệm khác nhau về tiểu thuyết, nhưng với phạm vi
hạn chế, bài viết chỉ xin trích dẫn một số ý kiến tiêu biểu và gẫn gũi.
Tiểu thuyết ra đời cùng với những biến động của xã hội,
chính sự phức tạp của xã hội đã tạo nên những phức tạp trong tiểu thuyết. Vì
thế, bước sang những năm cuối thế kỷ XX, hàng loạt các cuộc tranh luận về “số
phận của tiểu thuyết” đã diễn ra trên khắp các địa hạt của tiểu thuyết. Tạp chí
Anh Books and Bookmen (năm 1963) đã đăng tải cuộc tranh luận đó mà chúng ta
có thể tổng luận ngắn gọn như dưới đây.
*

Theo những tư liệu từ PGS.TS Nguyễn Trường Lịch.

3



Tiểu thuyết “khủng hoảng”? Tiểu thuyết đã chết? Hay tiểu thuyết đang
phát triển? Engux Uylxơn nói: “Nếu chỉ nói đến sản phẩm sách thì tơi chưa thấy
một hình thức nghệ thuật nào phổ cập hơn tiểu thuyết. Còn nếu đề cập đến
những hình thức tác động nghệ thuật khác thì rõ ràng gần đây tiểu thuyết đã phải
nhường bước cho điện ảnh và truyền hình, xét về tính phổ cập. Là một hình thức
nghệ thuật nghiêm túc, tiểu thuyết đã lớn lên từ chủ nghĩa cá nhân Tin Lành sau
đó tiến tới chủ nghĩa nhân đạo. Cá nhân là trung tâm của tồn bộ siêu hình học;
đén bây giờ một sức mạnh chưa từng thấy đang lấn át nó, song tơi vẫn cảm thấy
q sớm để buồn rầu vì sức mạnh đó đang ngự trị - mà ngược lại, rõ ràng tiểu
thuyết giữ được vị trí của nó và, cịn gì tốt đẹp hơn là nó vẫn toả sáng rực rỡ ánh
vinh quang như ở thế kỷ thứ 19 và vẫn cịn làm sống lại chủ nghĩa cá nhân” 1.
Giơn Brâyn thì hơi lưỡng lự: “văn học - đó là một thứ mà những dự đoán hơi
xác định một chút thơi, cũng khó lịng làm được. Có thể tiên đốn những biến
đổi xã hội hoặc kinh tế nhưng bao giờ cũng sẽ còn mở ngỏ một câu hỏi: những
biến đổi đó ảnh hưởng ở mức độ nào đến sự phát triển của tiểu thuyết.” 2 Nhưng
cuối cùng ông cũng khẳng định: “Dù sao chăng nữa tôi cũng không thấy dấu
hiệu gì chứng tỏ tiểu thuyết đang mất ý nghĩa là một thể loại văn học chủ chốt” 3.
Kingxly Emix cũng cho rằng tiểu thuyết không khủng hoảng: “Không, tôi không
cảm thấy tiểu thuyết đang lâm vào tình trạng bị đe doạ; vô luận thế nào đi nữa,
giữa các thể loại văn học khác, tôi không thấy thể loại nào là địch thủ của nó, dù
ta chưa rõ những biến đổi xã hội trong tương lai sẽ ảnh hưởng đến nó ra sao. Ắt
hẳn những biến đổi ấy phải lớn lao lắm mới tước đoạt được vị trí hàng đầu của
tiểu thuyết.”4 Philip Toinby cịn e dè: “Tơi khơng dám nói tiểu thuyết đang hấp
hối nhưng tôi tin rằng trong tương lai nó sẽ tách ra ít nhất cũng là hai biến thức
về mặt thể loại”5, nhưng Natali Xarrơt thì khẳng định sự phát triển của tiểu
thuyết: “Tôi tuyệt nhiên không cho rằng tiểu thuyết đang trong cơn nguy biến.
Ngược lại, tôi tin chắc rằng, sự phát triển của điện ảnh, của truyền hình sẽ bắt
1


Các tác giả nước ngồi, Số phận của tiểu thuyết, Nxb Tác phẩm mới, 1983, tr.11-12.
Sđd, tr.13
3
Sđd, tr.13
4
Sđd tr.15
5
Sđd tr.17
2

4


tiểu thuyết từ bỏ hồn tồn cái việc mà nó hồn tồn chẳng việc gì phải lai vãng
đến, thì lại chỉ làm cho tiểu thuyết trở thành một hình thức nghệ thuật độc đáo
hơn, gạn lọc, bổ sung thêm cho nó tính độc lập.”6
Cuộc mạn đàm về “tiểu thuyết và tương lai” khơng chỉ dừng lại ở đó, nó
kéo dài đến hàng chục năm tiếp theo trên báo chí văn học. Trên các nhật báo, tạp
chí, sách… đâu đâu cũng thấy xuất hiện những cụm từ: “khủng hoảng của tiểu
thuyết”, “suy thoái của tiểu thuyết”, “tiểu thuyết trong ngõ cụt”, “những giới hạn
của tiểu thuyết”… Từ những năm 50 thế kỷ XX, đã có khơng ít những cuộc điều
tra, những hội thảo và toạ đàm quốc tế, ở đó những người tham dự bày tỏ quan
điểm của mình về tình trạng hiện thời của tỉeu thuyết và triển vọng của thể loại
này. Những cuộc gặp gỡ quốc tế của những người hoạt động văn học diễn ra ở
Eđinbua (Scôtlen), ở Xtơraxbua và Pari (Pháp), ở Viên (Áo), ở Lêningrat (Nga)
… Những bản điều tra và những cuộc toạ đàm bằng thư với sự tham gia của các
nhà tiểu thuyết xuất chúng, các nhà phê bình văn học, các nhà xã hội học, triết
học… đã tổ chức bởi tạp chí Books abroad (Mỹ), Books and bookmen (Anh),
Cuadernos de cultura (Achentina), Lettres francaises và Nouvelles litteraires

(Pháp), Paese sera (Ý)…
Trong những cuộc tranh luận về tiểu thuyết và số phận của nó, có hai cách
nhìn đối lập nhau. Một bộ phận cho rằng: “tiểu thuyết với tư cách một thể loại
văn học đã kiệt quệ, trong sự phát triển của nó, nó đang đi vào ngõ cụt, đang tiêu
vong”7. Một số khác có quan niệm lạc quan: “với tư cách là hình thức giàu sức
chứa đựng nhất cả về tư tưởng lẫn về nghệ thuật, tiểu thuyết, trong những mẫu
mực ưu tú của nó đã và sẽ khơng mất chỗ đứng xứng đáng của nó, sức tác động
của nó đến ý thức và tình cảm con người”8.
Làm quen với những bằng cứ về sự “khủng hoảng” của tiểu thuyết, các
nhà lý thuyết và phê bình đã kết án từ hình dạng sáng tác văn học này từ những
lập trường hết sức khác nhau. Các “chiến binh hung hăng” của chủ nghĩa môđen
tư sản và đủ loại biến thức của “chủ nghĩa tiền phong” tuyên bố là đã lỗi thời
6

Sđd tr.16
E.F.Tơrutsenkô, Thời đại hiện nay và số phận của tiẻu thuyết, Sđd, tr.355.
8
E.F.Tơrutsenkô, Thời đại hiện nay và số phận của tiẻu thuyết, Sđd, tr.355
7

5


loại tiểu thuyết xã hội của chủ nghĩa hiện thực từng đạt đến đỉnh cao nhất ở thế
kỷ XIX trong sáng tác của Balzăc, Đichken, Đôxtôiepxki, Tônxtôi và các nhà cổ
điển khác, đồng thời, theo nhìn nhận của họ, nó đã khơ cạn các khả năng của nó
với tư cách một thể loại văn học. Tiểu thuyết truyền thống bị đối lập bởi tiểu
thuyết môđen. Được tuyên bố như các “cha đẻ” của tiểu thưyết thế kỷ XX,
Proust, Joyce, Kafka - những bậc thầy đã trở thành “tiên khu” của các trào lưu
mơđen, hình thức chủ nghĩa và suy bại của văn học đương đại. Sự phản kháng

chống tiểu thuyết truyền thống thể hiện rõ trong những vấn đề nhân vật, cốt
truyện, thời gian …
Nguyên nhân sự khủng hoảng tổng quát của tiểu thuyết như một thể
loại sáng tác ngôn từ, các tác giả cho rằng là do những ý niệm bị biến đổi về thế
giới, ở tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật đối với đời sống tinh thần con
người. Về người đọc, trong cuốn “Tiểu thuyết” của Giooc-giơ-Giăng, tác giả
nghiên cứu khá kỹ vấn đề thụ cảm của người đọc đối với thể loại chủ đạo của
văn học và tác động đến số phận của nó trong thế giới tư sản - thế giới “công
nghiệp sách”, thế giới của thương mại, quảng cáo, đồng thời cùng với những thứ
đó là ảnh hưởng đến tiểu thuyết từ phía khoa học, từ phía thơng tin gia tăng, từ
phía truyền thanh, truyền hình, điện ảnh và thời gian dành để đọc bị mất đi do
ngồi trước máy thu hình. Jăng-Pie Mônie trong “Trạc tuổi giao thời của tiểu
thuyết” đã đối chiếu nhiều phim và tiểu thuyết khi tiến hành khảo sát quan hệ
qua lại của điện ảnh và văn học. Cùng với những biến động trong xã hội thì
ngơn ngữ cũng thay đổi. Tuổi thọ của tiểu thuyết ngày càng ngắn lại và số lượng
tiêu thụ cũng giảm nhanh chóng. Những cốt truyện hay, hấp dẫn thì dường như
đã được khai thác hết từ thế kỷ XIX rồi. Gôlman giải thích sự khủng hoảng là do
kinh tế thị trường biến thành kinh tế của các tơrơt và cacten.
Vậy làm thế nào để tiểu thuyết bắt nhịp được với đời sống hiện đại? Sau
hàng loạt những cuộc điều tra xã hội học, R.Burnơf và R.Kelle đã đi đến kết
luận: nhà tiểu thuyết cần phải hiểu thời mình và biểu hiện hiểu biết đó, anh ta
cần thâm nhập sâu vào ý nghĩa của cái được miêu tả… tiểu thuyết cần có sự
cộng hưởng xã hội.
6


Tương lai của tiểu thuyết là một vấn đề nổi cộm, yêu cầu phải đổi mới là
tất yếu và tiểu thuyết mới ra đời. A.R.Grillet, một đại diện tiêu biểu cho tiểu
thuyết mới cho rằng: tiểu thuyết truyền thống đã bước vào giai đoạn khủng
hoảng, “nghệ thuật không bao giờ là sự minh hoạ một sự thực hoặc một câu hỏi

đã biết trước mà là đặt ra những câu hỏi chưa hề được biết đến” và phải thay đổi
hình thức của tiểu thuyết. 9 Ơng chỉ rõ “phân tích tâm lý nhân vật” và “chiều sâu”
của sự việc khơng cịn sức hấp dẫn nữa. Từ đó, chủ trương miêu tả là chính và
chỉ miêu tả trên bề mặt sự việc. Về nhân vật, ông muốn loại bỏ những nhân vật
xưa với cả một tấm lý lịch cụ thể, với sự phát triển tâm lý trong những hoàn
cảnh cụ thể, bởi “loại tiểu thuyết các nhân vật thuộc về quá khứ, nó thể hiện một
thời đại: thời đại đánh dấu đỉnh cao của cá nhân.” Người kể chuyện cũng nên
biến mất dưới hình thức tàng hình, nhưng anh ta vẫn bị phát hiện ra do những
vết tích khá rõ ràng: những lo lắng, những ám ảnh và những cảnh anh ta tưởng
tượng ra. Thời gian là ván đề lý thú hơn cả. Ngay từ Marcel Proust và Kafka,
quá khứ và hiện tại đã xen kẽ, lẫn lộn tạo thành cơ sở tổ chức của cốt truyện.
Viết về thời gian, các nhà tiểu thuyết mới dùng động từ thời hiện tại, thứ tự thời
gian thì hồn tồn bị phá vỡ, thời gian hồ lẫn ảo giác. Đặc biệt, khơng thể bỏ
qua từ ngữ, bởi có nó mới có vinh quang của tác phẩm. A.R.Grillet quan niệm:
“nghệ thuật khơng phải là một ci phong bì có màu sắc sáng chói ít hoặc nhiều
để trang trí “bức thơng điệp” của tác giả, một chất sơn quét trên tường, một thứ
nước xốt để rưới cá. Nghệ thuật không phục tùng bất cứ một công việc nào
thuộc loại đó, cũng như khơng phục tùng bất cứ chức năng định trước nào”.
Tên tuổi các nghệ sĩ bậc thầy của tiểu thuyết thế kỷ XX: M.Gorki,
A.Tôlxtôi, M.Sôlôkhôp, R.Rôlăng, Gôlxuôrthy, Đraizơr, Maria Puimanôva… và
sự tồn tại của các kiệt tác văn chương thế giới đã khẳng định: “tiểu thuyết chưa
kiệt quệ… tơi khơng thấy có căn cứ để nói đến sự suy sụp của loại hình văn học
rộng lớn này” (Yarôxlav Ivaskêvich). Và quả thật “khi tâm hồn một người có xu
hướng nhận thức tâm hồn một người khác thì sự miêu tả nghệ thuật là cần thiết
cho người ta” (Anna Zêgơrx).
9

Lê Phong Tuyết, Alain-Robbe-Grillet và sự đổi mới tiểu thuyết, Nxb Khoa học xã hội, H.1995, tr.18-19.

7



Tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Trở lại với những năm đầu thế kỷ XX, sự tiếp xúc với phương Tây như
một cơn gió mạnh khiến “cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay”, sự
gặp gỡ ấy là “cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế
kỷ”10. Hàng loạt những biến đổi diễn ra trong khắp các mặt trận: kinh tế xã hội,
tư tưởng, văn hố, lối sống… Tiếp theo đó là sự thắng lợi của hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ “trấn động địa cầu” đưa hồ bình lập lại trên
toàn lãnh thổ nước nhà (1975). Đất nước ta bắt đầu thay da đổi thịt để bước vào
công cuộc đổi mới (1986). Cho đến ngày nay, đất nước ta vẫn không ngừng phát
triển quan hệ ngoại giao với các quốc gia trên tồn thế giới với mục tiêu: “hồ
bình, hợp tác và phát triển”, các luồng tư tưởng cũng từ đó theo vào.
Bêlinxki cho rằng: “Nếu như có tư tưởng của thời đại thì cũng có những
hình thức của thời đại”. Vậy hình thức của thời đại ngày nay là gì? Khơng phải
ngẫu nhiên ở Trung Quốc người ta gắn liền hình thức thể loại với các thời đại
như: Tống từ, Hán phú, Đường thi, tiểu thuyết Minh Thanh… Từ khi nước ta
đổi mới (từ đại hội VI - 1986), văn học Việt Nam chuyển biến rõ rệt. Người ta
cho rằng việc tìm một cách thức thể hiện văn chương hợp thời giống như việc ăn
mặc hợp thời vậy. Nếu chỉ khăng khăng với một cách viết, một thể loại thì khác
gì “bức sốt nhưng mình vẫn áo bơng”? Có phải đã qua rồi thời của truyện ngắn,
đã đến lúc các nhà văn phải bươn trải trên con đường của tiểu thuyết? Quả thật
là sau những thành công của các tên tuổi như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường… thì tiểu thuyết thực sự khởi
sắc.
Nếu “tất cả có từ Cesvantes” thì ở Việt Nam tiểu thuyết bắt đầu từ “Phiên
chợ Giát” của Nguyễn Minh Châu. GS. Đỗ Đức Hiểu coi đây là “một tâm trạng
lớn, là những cảm xúc và những suy tư sâu thẳm, một văn bản đa thanh, một tác
phẩm nghệ thuật mở, và một bức tranh lạ lùng … có một tầm cỡ lớn”. Để có
những bước đột phá ấy, Nguyễn Minh Châu từng mạnh dạn “ai điếu” một chặng

đường trì trệ của nền văn nghệ lỗi thời và nhà văn dám nhìn thẳng vào thực
10

Hồi Thanh, Hồi Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, H.1999, tr.15.

8


trạng “cái hành lang vừa hẹp vừa thấp” làm tắc nghẽn bước tiến chung của văn
chương nước nhà và bào mịn thị hiếu cảm xúc thẩm mỹ của cơng chúng.
“Phiên chợ Giát” thực chất cái mới có được ở đối tượng và nội dung phản ánh.
Tác phẩm có tầm khái quát rộng lớn về xã hội và con người trong một khoảng
thời gian khá dài của lịch sử và một không gian rộng lớn của đất nước, tuy nhiên
dung lượng tác phẩm lại rất súc tích. Truyện khơng dừng lại ở cuộc đời của lão
Khúng mà được mở rộng trên khắp các bình diện khác, gắn thân phận nhân vật
chính với bối cảnh chung của xã hội. Diện phản ánh của tác phẩm đã được mở
rộng, khơi sâu. Từ một cái nhìn rộng hơn, những tiểu thuyết đề cập đến chủ đề
lịch sử luôn nằm ở trung tâm mối quan tâm của đời sống văn học ở Việt Nam.
Những năm đầu đổi mới, các tác phẩm cuối cùng có giá trị như những di chúc
tinh thần của nhà văn Nguyễn Minh Châu là những sáng tác như những tiểu
thuyết cô đọng trong tình thế chạy đua với thời gian để chiến thắng cái chết:
Phiên chợ Giát và Cỏ lau. Tiếp theo đó là bài Hãy viết lời ai điếu cho một giai
đoạn văn nghệ minh họa là những tác phẩm đánh dấu lựa chọn dứt khoát của nhà
văn về một thay đổi triệt để của đời sống văn học.
Với nhu cầu nhận thức lại thực tại, nhà văn Lê Lựu viết Thời xa vắng,
mạnh dạn bước vào đề tài số phận con người bình thường trong mối quan hệ
giằng xé giữa tự do của trái tim mỗi con người. Thực tại ở đây là những vùng
hiện thực mà trước đây do nhu cầu của lịch sử nên chưa được chú ý đúng mức.
Những vùng hiện thực đó đến nay trở nên sơi động và cấp thiết địi hỏi được
nhận thức và phản ánh sâu sắc. Thời xa vắng có phải là thời mà con người bị

kiềm toả, chính ở nơi sâu thẳm của trái tim, nơi mà lẽ ra con người phải được tự
do nhất cho dù là thầm kín, thì thời ấy, con người cũng khơng có quyền đó. Lời
bộc bạch muộn màng của Giang Minh Sài như lời ốn thán của một kiếp người
khơng có hạnh phúc: “Nửa đời người yêu cái người khác yêu, nửa còn lại đi u
cái mình khơng có, đến bây giờ mới biết mình là thế nào thì đã…”
Đến Mùa lá rụng trong vườn, Ma Văn Kháng đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi “sống như thế nào trong mối tương quan giữa con người và hoàn cảnh”. Nhà
văn tái hiện lại đời sống trong một gia đình Việt Nam hiện nay, đặt câu chuyện
9


gia đình trước ánh sáng của những quan hệ xã hội. Mùa lá rụng trong vườn là sự
đột phá vào mảng hiện thực này, là một khám phá mới trong đời sống văn học
bấy giờ. Các thế hệ trong gia đình ơng Bằng đã biến thiên theo dịng đời. Người
sống tốt lên, người lại hèn kém đi, trong đó vợ chồng Đông-Lý nổi lên như một
sự báo động khẩn cấp, với lối sống tầm thường: “đời có gì là phải có nấy”. Nội
tâm, ngoại hình, tính cách, hành động và ngôn ngữ của Lý tiêu biểu cho lớp thị
dân hãnh tiến. Từ một người con dâu đảm đang, tháo vát, Lý đã trượt dốc theo
những cuốn hút của cuộc sống phương Tây. Lá vàng rụng, lá vàng rơi đó là sự
rơi rớt của đạo lý không chỉ ở khu vườn nhà ơng Bằng mà nó đang rơi ở khắp
các gia đình trước bão táp kinh tế thị trường.
Vài năm sau những sáng tác của Nguyễn Minh Châu, cuốn tiểu thuyết của
Bảo Ninh đã gây nên một làn sóng dư luận dữ dội. Nhiều tờ báo đăng tảI các bài
phê phán Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là “điên loạn rối bời”, và những
ám ảnh về chiến tranh của nhân vật chính là “bơi nhọ qn đội”. Nhưng rồi
người ta lại liên tục tái bản và tiểu thuyết đó được ghi vào danh sách những cuốn
sách bán chạy bởi quan niệm về đổi mới tiểu thuyết đã được chấp nhận. Nét mới
của tác phẩm là ở kết cấu đa tuyến, nhiều tầng nhiều lớp và dừng lại sâu ở tình
trạng con người - chủ điểm của tiểu thuyết. Nhân vật cựu chiến binh Kiên là một
hiện tượng đặc biệt có ý nghĩa tiêu biểu. Trên một phương diện, Kiên mang

những đặc điểm của kiểu nhân vật - chủ thể của tiến trình lịch sử (người tình
nguyện tham gia chiến tranh), ở khía cạnh khác, anh ta lại là nạn nhân của lịch
sử (trong chiều kích của những mất mát khơng gì bù đắp được của người đã đi
qua chiến tranh) và ở một bình diện khác, trong cái dáng vẻ dửng dưng, lãnh
đạm của một kẻ xa lạ tham gia chiến tranh, là kẻ hiếm hoi đi qua toàn bộ cuộc
chiến với một số phận kỳ lạ được tự ý thức, anh ta là kẻ quan sát - chứng nhân
của lịch sử, điều được anh ta lãnh nhận như một thiên mệnh thiêng liêng. Thế
giới tinh thần của Kiên hoà trộn giữa những trạng thái tâm lý và những suy
tưởng và chủ âm ‘‘nỗi buồn chiến tranh’’, vừa là hình chiếu của những vết
thương tinh thần của con người trong chiến tranh vừa là tâm trạng bàng bạc
trong những suy tư về chiến tranh. Ở đây, rõ ràng một mặt con người được soi
10


sáng từ bên trong thông qua những kỹ thuật mô tả đời sống tâm lý, mặt khác
được phản ánh từ nhiều góc độ để nêu bật được những khía cạnh phức tạp của
con người trong những tình thế và hồn cảnh lịch sử - một khuynh hướng tiêu
biểu của tiểu thuyết đương đại ở Việt Nam. Cách hành xử với cốt truyện táo bạo
nhất diễn ra khi tác giả phá vỡ tính liên tục về thời gian và nhân quả của các
biến cố trong cốt truyện. Tính phức tạp của kỹ thuật tiểu thuyết đương đại còn
được gia cố thêm bằng sự linh hoạt trong việc luân chuyển giữa trần thuật từ
ngôi thứ nhất và trần thuật từ ngôi thứ ba. Điều này kéo theo sự đa dạng về
giọng trần thuật với sự đồng hiện của các loại lời của người trần thuật, nhân vật
gián tiếp tự do - sự pha trộn giữa lời của người trần thuật và lời nhân vật. Những
hiện tượng hình thức nói trên phản chiếu một sự thay đổi trong bản chất của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại. Không phải vô lý khi một trong những môtip được
sử dụng trong tự sự (từ Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai đến Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh) là con người sống lại không gian quá khứ, tìm lại ‘‘thời gian đã
mất’’ của cuộc đời mình và sự phân rã cốt truyện trở thành một hiện tượng phổ
biến. Lịch sử tan vỡ thành những mảnh vụn ý thức cá nhân và nhà văn trở thành

người đi gom nhặt những mảnh vụn đó từ bóng tối cuả các thân phận.
Tiểu thuyết Việt Nam đang đối mặt với nhu cầu phát triển lên một tầm
mới về chất. Đó là một nhu cầu cấp bách và khơng ai có thể phủ nhận. Tất cả
những người có thực tâm với tương lai của tiểu thuyết đều chia sẻ một mối ưu
tư: Tiểu thuyết của chúng ta đang ở đâu? nó đang phát triển theo hướng nào?
Chúng ta thiếu gì, cần gì ở thể loại này? Cho dù có nhiều biến động, song tiểu
thuyết Việt Nam đã từng khởi sắc và khơng vì lẽ gì mà có sự trượt dốc. Những
kiến thức lý luận tiểu thuyết tràn ngập khắp nơi, trong khi hiện thực đang vận
mình biến đổi thì tương lai của tiểu thuyết không thể rẽ vào ngõ cụt. Chúng ta
chờ đợi một sự khởi sắc mới và lâu bền của thể loại này trong nay mai.

11



×