Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nỗi buồn chiến tranh trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết việt nam đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.67 KB, 90 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Phạm văn tình

Nỗi buồn chiến tranh trong
tiến trình đổi mới tiểu thuyết
Việt Nam đơng đại

Luận văn thạc sĩ ngữ văn

Vinh 2008 2008


Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Phạm văn tình

Nỗi buồn chiến tranh trong
tiến trình đổi mới tiểu thuyết
Việt Nam đơng đại
Chuyên ngành: văn học Việt Nam
MÃ số: 60.22.34

Luận văn thạc sĩ ngữ văn

Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn đăng điệp

Vinh - 2008



Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một trong những cuốn tiểu
thuyết tiêu biểu của văn học Việt Nam đơng đại. Sau khi đợc trao giải thởng
của Hội Nhà văn (1991), cuốn tiểu thuyết này đà gây nên một làn sóng d luận
trong giới nghiên cứu phê bình và bạn đọc. Mặc dù ý kiến về tác phẩm này cha hoàn toàn thống nhất, nhng cả ngời khen lẫn ngời chê đều gặp nhau ở một
điểm: thừa nhận văn tài của Bảo Ninh.
1.2. Chọn đề tài: "Nỗi buồn chiến tranh trong tiến trình đổi mới tiểu
thuyết Việt Nam đơng đại", chúng tôi không chỉ xuất phát từ lòng say mª mét


1

tác phẩm văn chơng đích thực, mà còn muốn góp thêm tiếng nói khẳng định
giá trị của cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, nhất là sự đổi mới trong cái
nhìn hiện thực và quan niệm của nhà văn về thân phận con ngời thời hậu
chiến.
1.3. Hơn nữa, đặt Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh trong dòng chảy
của văn học Việt Nam đơng đại, chúng ta sẽ thấy đợc những cách tân nghệ
thuật độc đáo, có ảnh hởng sâu sắc đến t duy sáng tạo nghệ thuật của các nhà
văn đơng đại thế hệ tiếp nối Bảo Ninh.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hiện nay đà có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu về sự nghiệp văn
học của Bảo Ninh nói chung và Nỗi buồn chiến tranh nói riªng. Tuy nhiªn,
chóng ta cã thĨ nhËn thÊy ba xu hớng nghiên cứu chính sau:
2.1. Xu hớng thứ nhất
Đây là xu hớng lên án gay gắt, phủ nhận giá trị của tác phẩm trên cả phơng diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Tiêu biểu cho xu hớng này là hai
bài viết: "Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu" của Đỗ Văn
Khang (Báo Văn nghệ số 43 năm 1991) và "Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh

của Trần Duy Châu (Tạp chí Cộng sản số 10 năm 1994). Cả hai tác giả trong


hai bài viết này đều thống nhất: "Những đổi mới nghệ thuật của Bảo
Ninh nh: cấu trúc trần thuật kép, tính chất đa thanh, kỹ thuật dòng ý thức chỉ
là việc làm thuần tuý để đánh lừa bạn đọc". Trần Duy Châu trong bài viết của
mình nhấn mạnh: "Bảo Ninh đà tạo nên hình ảnh đảo ngợc của hiện thực,
chuyển đổi các giá trị, biến trắng thành đen, thay khúc ca khải hoàn của dân
tộc, thành tiếng hát bi thơng ai điếu cho những kẻ lạc loài" [11, 25]. Đỗ Văn
Khang cuối bài viết còn kết luận "thật đáng tiếc lẽ ra không nên in vội Thân
phận của tình yêu" [35, 20].
2.2. Xu híng thø hai
Xu híng này tuy cy tuy cổ vũ, khẳng định những đổi mới nghệ thuật của Bảo
Ninh, nhng lại tỏ ra khá rụt rè trong khi đánh giá các vấn đề thuộc nội dung
của tác phẩm. Nỗi băn khoăn của hầu hết các nhà phê bình đều nằm ở chỗ:
"Cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh có bị dồn nén quá nhiều chất bi
không?". Tiêu biểu cho xu hớng này là các ý kiến của những cây bút nhìn chiến
tranh quá gần, thậm chí lúc nào cũng cảnh giác với nguy cơ chiến tranh, e sợ tác
giả rơi vào tình trạng giải thiêng cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.
Nguyễn Phan Hách trong cuộc thảo luận về tiểu thuyết Thân phận của
tình yêu (Báo Văn nghệ số 37 năm 1991) đà viết: "Lùi ra xa, đứng cao hơn
một chút thì thấy có thể thông cảm đợc với tác phẩm này. Tôi cha hẳn tán
thành hoàn toàn về nội dung, nhng cái đẹp, cái tuyệt kĩ, văn chơng là văn chơng của cuốn sách đà át đi đợc những e ngại khác...".
Cũng trong cuộc thảo luận này, Vũ Quần Phơng nhận xét: "Nếu cái đáng
khen trong cuốn sách là chân thực trong tâm trạng, thì chỗ cần lu ý tác giả
cũng là tính chân thực cần có, trong khi dựng lại bối cảnh hậu phơng miền Bắc
và những trận đánh trả máy bay Mỹ. Bảo Ninh đà đánh mất cái hào khí rất đẹp
của năm tháng ấy, có thể nó ấu trĩ, nhng nó có cảm giác tác giả có những điều
không hài lòng nên có cái nhìn thiên kiến, có chỗ cực đoan. Đọc những chi
tiết khủng khiếp, đay nghiến, thấy tác giả ác, ta cha thấy đợc nhân tố làm nên

chiến thắng ở đây".
Cao Tiến Lê nhận thấy: "Nhợc điểm cũng còn nhiều điều cần nói, ví nh
Bảo Ninh chỉ viết khi rời trận địa mà quên mất khi tiến vào trận địa. Đánh Mỹ
cũng có cái hào khí thực lòng của nó chứ. Tôi ủng hộ tiểu thuyết Thân phận
của tình yêu vì trong đó nhiều thành phần đà nói hộ cho tôi, cho đồng đội của
tôi. Mặt khác, để bạn đọc biết chiến tranh có nhiều con đờng, con ®êng nµo


1

cũng nhằm mục đích mang lại hạnh phúc cho mọi ngời và bao giờ cũng phải
trả giá rất đắt".
Lê Quang Trung cũng nêu lên quan điểm của mình: "Cuốn tiểu thuyết dữ
dội, gây ấn tợng mạnh. Tác giả tỏ ra không né tránh sự thật đau đớn, phũ
phàng và những vấn đề gai góc nhng trong cách xử lý tác giả vẫn còn có
những mâu thuẫn rối bời, đoạn khái quát về tác động của chiến tranh với con
ngời, việc nhìn nhận Phơng sau những phiêu lu, thăng trầm đà trải, sự lạnh
lùng trong miêu tả, số chi tiết và sự dồn tụ các tâm trạng rà rời, bi đát, hoảng
loạn của những ngời lính trong tác phẩm đem đến cảm giác nặng nề. Tránh đợc lối suy nghĩ một chiều này anh lại rơi vào lối suy nghĩ một chiều khác. Một
vài nhận định, triết lí trong một vài đoạn, có khi chỉ thoáng qua, song đà lộ ra
thiếu toàn diện và thiếu sự thận trọng cần thiết.
Nguyễn Kiên tuy ủng hộ Nỗi buồn chiến tranh nhng ông vẫn không
tránh khỏi sự nghi ngại: "Tác giả từng là lính chiến, sách đợc viết ra do sự
thôi thúc nội tâm, có thể tranh luận khen chê, nhng cũng rõ ràng là tác giả có
sự thành tâm muốn mọi ngời chớ lÃng quên cuộc chiến vừa qua, trong đó có
bao nhiêu ®au ®ín. Cn s¸ch cã nhiỊu ®iĨm u nh: C¸i không khí âm nhạc
trong tình yêu Kiên - Phơng có gì đó cha Việt Nam lắm. Hoặc chuyện ngời
hoạ sĩ đốt tranh hơi bị dồn ép, khiên cỡng, đoạn Kiên và Phơng ở ga tàu
Thanh Hoá nếu kéo thời điểm xảy ra mọi việc lùi lại mấy năm thì phù hợp
với hiện thực hơn. Đây là một cách viết, một bằng chứng về sự trởng thành

của văn xuôi ta".
2.3. Xu hớng thứ ba
Đây là xu hớng đánh giá cao cuốn tiểu thuyết trên nhiều phơng diện,
xem nó nh một thành tựu xuất sắc của văn học thời kỳ đổi mới. Tại cuộc thảo
luận về tiểu thuyết Thân phận của tình yêu các nhà nghiên cứu đà đánh giá rất
cao. Xin ®iĨm qua mét sè ý kiÕn ®¸ng chó ý nh sau:
Theo Trần Đình Sử, "Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh mang lại một
góc nhìn mới về chiến tranh, bổ sung cho cách nhìn đà quen, là tiểu thuyết vỊ
cc chiÕn tranh Êy (chiÕn tranh chèng Mü) víi t cách là một cuộc chiến
tranh. Tác giả đà trừu tợng bớt đi cái phần mục đích, chiến công, nhân tố
thắng lợi để chỉ kể về cuộc chiến tranh với tất cả tính chất chiến tranh của nó.
Văn học ta đà nãi nhiỊu ®Õn tÝnh chÝnh nghÜa, tÝnh anh hïng, tÝnh cách mạng
của cuộc chiến tranh, nhng cha nói đợc gì đáng kể về tính tàn bạo, tính huỷ
diệt bi thảm của nó, những tính chất không chỉ thể hiện ở cái chết nơi chiến
trận, mà còn mở rộng ra thành cái chết trong tâm hồn, tình yêu thành sự dở


2

dang. Có thể nói, tác giả lộn trái cuộc chiến tranh ra để ta đợc nhìn vào cái
phía trong bị che khuất, lấp một chỗ trống cha đợc lấp. Đây là tiểu thuyết về
nhà văn, về sự hình thành một kiểu nhà văn, dự báo những thay đổi đáng kể
của ý thức văn học. Không nghi ngờ gì, Bảo Ninh đà đóng góp đáng kể, nhiều
mặt cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại".
Một trong những cây bút nhiệt thy tuy cnh nhất trong việc đánh giá thành tựu
của Nỗi buồn chiến tranh ly tuy c nhà văn Nguyên Ngọc. Trong cuộc thảo luận về
tiểu thuyết Thân phận tình yêu (Báo Văn nghệ số 37 năm 1991), ông khẳng
định: "Cuốn sách Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh là sự nghiền ngẫm về
chiến thắng, ý nghĩa và giá trị to lớn và dữ dội của chiến thắng. Nó chỉ cho
chúng ta biết rằng, chúng ta đà làm nên chiến công vĩ đại thắng Mỹ với cái giá

ghê gớm đến chừng nào. Một đặc sắc nữa của cuốn sách này là tác giả viết với
t cách hoàn toàn của ngời trong cuộc, không đứng ngoài, đứng trên nhìn ngắm
mà đứng trong, thậm chí ở tận đáy của cuộc chiến tranh. Anh viÕt vỊ cc
chiÕn tranh "cđa anh" gÇn nh b»ng tÊt cả máu của anh. Về mặt nghệ thuật, đó
là thành tựu cao nhất của văn học đổi mới". Đây chính là ý kiến quan trọng
giúp chúng tôi nghiên cứu đề tài này trên phơng diện cách tân nghệ thuật
trong cuốn tiểu thuyết.
Trong công trình Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu cũng đánh giá rất cao
cuốn tiểu thuyết này: "Trong văn học mấy chục năm nay, có thể Thân phận
của tình yêu là quyển tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết về tình
yêu xót thơng nhất... Nỗi buồn chiến tranh thể hiện một điểm nhìn mới về
cuộc chiến tranh kéo dài 35 năm, những cảnh tả chiến tranh, những định
nghĩa về chiến tranh la liệt trong tác phẩm. Bên cạnh nỗi buồn đợc phản ánh
trong tác phẩm là nỗi buồn về tình yêu, nỗi buồn chiến tranh và nỗi buồn
tình yêu thấm vào nhau" [33, 266]. Những phát hiện này của tác giả đà gợi ý
cho chúng tôi khảo sát hệ thống những chủ đề chính trong cuốn tiểu thuyết
Nỗi buồn chiến tranh.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp lại nhìn thấy sự mới mẻ trong
cách viết và tiếp cận hiện thực của Bảo Ninh qua bài viết: "Kỹ thuật dòng ý
thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh". Theo ông, "Cho dù viết nhiều
về chiến tranh nhng xét đến cùng tinh huyết của Bảo Ninh kết tụ trong cuốn
tiểu thuyết để đời của ông Thân phận của tình yêu. Toàn bộ tác phẩm là niềm
khắc khoải không nguôi của một ngời lính bớc ra từ cc chiÕn kh¾c nghiƯt


3

ấy. Vì thế, nó trung thực đến tận đáy. Và cũng vì thế mà khuôn mặt của chiến
tranh là một khuôn mặt nhàu nát với bao nỗi đau chồng chất. Tên gọi hợp lí
nhất cho nỗi đau ấy phải là Nỗi buồn chiến tranh. Bởi thế, đi liền và hoà lẫn

với nỗi buồn chiến tranh là thân phận cay đắng của tình yêu. Cả hai chủ đề
này xoắn kết nhau. Nó tựa nh hai mặt của một bản thể thống nhất bị cuốn vào
vòng xoáy nghiệt ngà của cuộc chiến, tình yêu bị đày đoạ, bị đẩy tới bờ vực
của sự huỷ diệt" [68, 402]. Những khái quát mang tính phát hiện của tác giả
có ý nghĩa gợi mở giúp chúng tôi hình thành chơng 2 của luận văn.
Tác giả Nguyễn Thị Bình trong luận án Tiến sĩ của mình về Đổi mới văn
xuôi nghệ thuật Việt nam sau 1975, đà đặc biệt đề cao thành công của Bảo
Ninh trong việc "đem lại một góc nhìn hoàn toàn mới về mảng hiện thực vốn
rất quen thuộc của văn xuôi ta, xem chiến tranh nh môi trờng thử thách nhân
tính" [6, 108].
Sau luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Bình, Nỗi buồn chiến tranh đà trở
thành đối tợng nghiên cứu cho nhiều luận án, luận văn, báo cáo khoa học...
tiêu biểu là các công trình: Sự thể hiện nhân vật ngời lính trong một số tiểu
thuyết và truyện ngắn tiêu biểu của văn xuôi thời kỳ đổi mới (Đào Thị Hiên Luận văn Thạc sĩ 2000); Thân phận tình yêu nhìn từ góc độ thi pháp tiểu
thuyết (Nguyễn Thị Phơng Thanh - Khoá luận tốt nghiệp 2002); Nghệ thuật
trần thuật của Bảo Ninh qua tiểu thuyết Thân phận của tình yêu (Đỗ Đức
Hiểu - Báo cáo khoa học 2003).
Điều đáng mừng là cùng với độ lùi của thời gian, Nỗi buồn chiến tranh
đợc đánh giá cao hơn trong một cái nhìn rộng rÃi hơn. Tại cuộc hội thảo Đổi
mới t duy tiểu thuyết các nhà văn, nhà phê bình: Ma Văn Kháng, Nguyễn Phan
Hách, Trần Đình Sử, Cao Tiến Lê, Lê Quang Trung, Phạm Tiến Duật, Nguyên
Ngọc, Ngô Văn Phú, Nguyễn Kiên, Từ Sơn, Thiếu Mai, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng
Ngọc Hiến... đà đề dẫn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh nh là một ví dụ
tiêu biểu cho quá trình đổi mới t duy thể loại tiểu thuyết. Gần đây, trả lời
phỏng vấn trên Báo Sinh viên Việt Nam về văn học 10 năm qua, nhà văn
Nguyên Ngọc lại một lần nữa khẳng định: "Từ Nỗi buồn chiến tranh chúng ta
mới thực sự có tiểu thuyết hiện đại. Trớc đây về cơ bản là sử thi" (Báo Sinh
viên số 3 tháng 11/2003, tr.9).
Tóm lại, nghiên cứu đề tài: "Nỗi buồn chiến tranh trong tiến trình đổi
mới tiểu thuyết Việt Nam đơng đại", chúng tôi muốn khẳng định những cách



4

tân nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm này nh là một đóng góp đáng trân trọng
của Bảo Ninh đối với văn học Việt Nam đơng đại. Hy vọng hớng nghiên cứu
này không chỉ giúp ngời đọc có cái nhìn sâu hơn về một cuốn tiểu thuyết vốn
có số phận đặc biệt, mà còn giúp ngời đọc tránh đợc lối phê bình cắt xén, quy
chụp, hiểu sai ý đồ nghệ thuật của tác giả và giá trị t tởng trong sáng của tác
phẩm.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của luận văn là: "Nỗi buồn chiến tranh trong tiến
trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đơng đại".
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, Nhà
xuất bản Văn học, Hà Nội ấn hành năm 2006. Ngoài ra, để đánh giá Nỗi buồn
chiến tranh toàn diện hơn, chúng tôi có tiến hành so sánh tác phẩm này với
một số tiểu thuyết cùng thời về đề tài chiến tranh để thấy đợc những cách tân
nghệ thuật của Bảo Ninh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Xác định vị trí của Nỗi buồn chiến tranh trong quá trình đổi mới
tiểu thuyết Việt Nam đơng đại.
4.2. Khảo sát những chủ đề chính trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh.
4.3. Phát hiện cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp và vận dụng nhiều phơng pháp khác nhau để nghiên
cứu vấn đề, trong đó sử dụng các phơng pháp chính:

- Phơng pháp phân tích tác phẩm
- Phơng pháp thống kê - phân loại
- Phơng pháp thi pháp học
- Phơng pháp so sánh lịch sử
- Phơng pháp hệ thống - cấu trúc.
6. Đóng góp mới của luận văn
Lần đầu tiên luận văn nghiên cứu chuyên sâu cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn
chiến tranh, nhằm khẳng định những cách tân nghệ thuật của Bảo Ninh và
đóng góp của ông đối với nền tiểu thuyết Việt Nam đơng đại. Kết quả cña


5

luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu tiểu thuyết Bảo Ninh
và văn xuôi Việt Nam đơng đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn đợc triển khai trong 3 chơng:
Chơng 1. Tiểu thuyết Bảo Ninh trong sự đổi mới văn xuôi Việt Nam đơng
đại
Chơng 2. Những chủ đề chính trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
Chơng 3. Cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh

Chơng 1
Tiểu thuyết Bảo Ninh trong sự đổi mới
văn xuôi Việt Nam đơng đại
1.1. Quan niƯm míi vỊ tiĨu thut
1.1.1. Kh¸i niƯm tiĨu thut
Theo Từ điển văn học (bộ mới), tiểu thuyết đợc hiểu là "thể loại tác
phẩm tự sự, trong đó, sự trần thuật tập trung vào số phận một cá nhân trong

quá trình hình thành và phát triển của nó, sự trần thuật ở đây đợc triển khai


6

trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt "cơ cấu"
của nhân cách" [3, 1716].
Trong Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bán Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), tiểu thuyết đợc định nghĩa: "Là
tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn
không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc
đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xà hội, miêu tả các điều kiện sinh
hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng" [67, 328].
Tiểu thuyết có lịch sử phát triển lâu đời và một vị trí quan trọng trong
nền văn học thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng. Vậy tiểu
thuyết là gì? Câu hỏi đặt ra nhiều vấn đề đà khiến không ít ng ời quan tâm,
nghiên cứu và đà có nhiều quan niệm khác nhau xung quanh vấn đề định
nghĩa tiểu thuyết. Mỗi trờng phái, mỗi khuynh hớng, mỗi nhà văn đều có
định nghĩa và quan niệm khác nhau, thậm chí là trái ngợc nhau.
Theo M.Bakhtin thì tiểu thuyết đợc hiểu: "Là thể loại văn chơng duy
nhất đang chuyển biến và còn cha định hình. Những lực cấu thành thể loại
còn đang hoạt động trớc mắt chúng ta. Thể loại tiểu thuyết ra đời và trởng
thành dới ánh sáng thanh thiên bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại cha
hề rắn lại và chúng ta cha thể dự đoán đợc hết những khả năng uyển chuyển
của nó" [49, 21].
Một số tiểu thuyết gia phơng Tây quan niệm: "Tiểu thuyết giống cuộc
đời, tiểu thuyết phải giống sự thật". Cũng có ngời lại quan niệm khác: "Tiểu
thuyết phải tạo ra cái gì đó không cã thùc nhng l¹i gièng thùc". Stendhal quan
niƯm vỊ tiĨu thuyết: "Tiểu thuyết là tấm gơng lớn, truyện ngắn là những mảnh
vỡ từ tấm gơng đó, mảnh này phản chiếu trời xanh, mảnh kia phản chiếu vũng

nớc đục" [75, 68].
Trong công trình Khảo về tiểu thuyết, Phạm Quỳnh từng quan niệm:
"Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự ng ời ta, hay
phong tục xà hội các sự lạ ly kỳ, đủ làm cho ngời đọc hứng thú". Nh vậy,
theo Phạm Quỳnh, phạm vi của tiểu thuyết là vô cùng rộng rÃi, bất cứ sách gì
không phải là sách dạy học, sách lý luận, sách khảo cứu, thi ca còn lại là tiểu
thuyết mà tiĨu thut vÉn cã thĨ bao gåm c¸c s¸ch kia vì trong một cuốn tiểu
thuyết cũng có chỗ nghị luận, chỗ khảo cứu, chỗ ngâm vịnh. Định nghĩa này


7

rộng rÃi, song cha thật chính xác trong khi nghiên cứu về tiểu thuyết Việt
Nam đơng đại.
Từ những quan niệm trên, chúng tôi dẫn ra cách hiểu về tiểu thuyết một
cách ngắn gọn nh sau: "Tiểu thuyết là sự sống, cuốn tiểu thuyết là một hình
ảnh về đời sống và đồng thời nó cũng là sự biểu hiện về tâm hồn. Tiểu thuyết
là sự h cấu nhng phải dựa vào sự hiểu biết cuộc đời của nhà văn, vận dụng sự
hiểu biết, kiến thức đó h cấu nên một cuốn tiĨu thut hiĨu nh mét chun cã
thËt, ®Ĩ khi ®äc ngêi ta cã thĨ thÊy cc sèng xung quanh m×nh ®ang hiĨn
hiƯn trong ®ã. Mét t¸c phÈm tiĨu thut thêng dài và rắc rối hơn các thể loại
khác, khi viết tác giả thờng phải vận dụng rất nhiều lối văn khác nhau, vì thế
ngời viết tiểu thuyết phải có kiến thức rộng".
Đúng nh M.Bakhtin nhận xét "tiểu thuyết là một thể loại đang chuyển
biến và còn cha đợc định hình, một thể loại văn học mở". Do đó, những cách
hiểu về tiểu thuyết này là những cứ liệu quan trọng giúp chúng tôi có đợc "đờng dẫn" trong việc nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đơng đại.
1.1.2. Quan niệm truyền thống và hiện đại về tiểu thuyết
1.1.2.1. Quan niệm truyền thống về tiểu thuyết
Khi nghiên cứu về những cái mới trong tiểu thuyết thế kỷ XX, Hoàng
Ngọc Tuấn đà đề cập đến những quan niệm truyền thống về tiểu thuyết một

cách khái quát gồm những điểm chính sau đây: "Thứ nhất: Tiểu thuyết theo
quan niệm truyền thống thờng đợc viết bằng văn xuôi và mang tính cách hiện
thực, chủ yếu nhằm vào việc nghệ tả một cách đầy đủ và trung thực những
kinh nghiệm trong đời sống con ngời. Thứ hai: Loại văn xuôi hiện thực này
chủ yếu giải trí ngời đọc bằng cách kể chuyện, qua đó, ngời đọc thích thú theo
dõi những phát triển và diễn biến đời sống của một hay nhiều nhân vật. Thứ
ba: Những phát triĨn vµ diƠn biÕn trong tiĨu thut thêng xÈy ra theo trình tự
thời gian dựa trên một chủ đề mang tính đạo đức hay luân lý. Thứ t: Tính cách
mỹ học của tiểu thuyết nằm trong vẻ đẹp về hình thức, phản ánh ngôn ngữ gọn
gàng, súc tích, tính nhất quán giữa tổng thể và các phân đoạn, sự phát triển
hợp lý và tinh tế từ phần này đến phần kia. Thứ năm: Vẻ đẹp về hình thức có
tác dụng làm cho cuộc kể chuyện đợc mạch lạc, trôi chảy, hợp lý và làm tăng
khả năng lôi cuốn ngời đọc vào cõi "hiện thực" h cấu của câu chuyện" [70,
74].


8

Trong tiĨu thut trun thèng, cèt trun lµ mét u tố rất quan trọng.
Điều này có thể thấy rõ trong tiểu thuyết thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kû
XX, thËm chÝ trong thËp niªn 90 cđa thÕ kû XX, vai trò của cốt truyện rất lớn
trong các tác phẩm tự sự Việt Nam. Các tác phẩm này coi trọng cốt truyện và
thờng đợc triển khai nội dung theo lớp lang, trình tự theo một quy trình chặt
chẽ, nhằm tập trung làm nổi rõ tính cách của "nhân vật trung tâm" hay để
chứng minh cho một triết lý nhân sinh nào đó. Để phản ánh hiện thực, tiểu
thuyết truyền thống chú ý đến các chi tiết "nh thật" vì họ coi tiểu thuyết nh
một tấm gơng phản chiếu trung thực hiện thực đời sống. Ngôn ngữ trong tiểu
thuyết vì thế là loại ngôn ngữ giàu tính tả thực.
Quan niệm trun thèng xem kÕt cÊu tiĨu thut theo lèi ch¬ng hồi là
chính, kết thúc mỗi tập, mỗi chơng hồi bao giờ cũng là đỉnh điểm của sự mâu

thuẩn, thắt nút, cao trào, quy mô đồ sộ và khả năng bao quát phản ánh hiện
thực vô cùng bề thế. Tiểu thuyết thờng quan tâm đến những cái kỳ ảo, hoang
đờng hoặc đẫm chất sử thi hoành tráng, thể hiện theo tôn ti trật tự từ mở đầu
đến kết thúc, xong xuôi hoµn tÊt vµ thêng cã kÕt thóc cơ thĨ râ ràng và thờng
là có hậu theo một môtíp định sẵn, không thể phá vỡ khuôn mẫu. Tiêu biểu là
các tác phÈm mÉu mùc nh: Tam qc diƠn nghÜa (La Qu¸n Trung), Hồng lâu
mộng (Tào Tuyết Cần), Hoàng Lê nhất thống chí (dòng họ Ngô Gia Văn
Phái)... có sự đan xen rõ nét giữa văn học, lịch sử và triết học.
Về phơng diện nhân vật, quan niệm truyền thống xem tiểu thuyết thờng
xây dựng những nhân vật mang "tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển
hình" ví nh: Tào Tháo, AQ, Bảo Ngọc, Thuý Kiều, Tú Bà, Sở Khanh... Nhân
vật thờng có mẫu mực định trớc, chia thành nhiều tuyến và đặc tính thiện - ác
rõ ràng. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những đặc tính chung chung. Những ngời
hiền lành thì lời nói, vóc dáng thanh nhÃ, dịu dàng, những kẻ ác thì mọi cử
chỉ, hành tung đều thâm hiểm, thiếu rõ ràng. Nhân vật trong tiểu thuyết truyền
thống thờng đi liền với lý tởng luân lý, đạo đức, bên này tốt đẹp có Thuý Kiều,
Từ Hải... bên kia xấu xa có Hồ Tôn Hiến, Tú Bà, Sở Khanh... Những nhân vật
chính diện thờng tốt đẹp, có lý tởng, ớc mơ, hoài bÃo, đại diện cho cái Chân Thiện - Mỹ.
Quan niệm "văn dĩ tải tải đạo" và "tính quy phạm" đà chi phối mạnh mẽ
đến quá trình tái hiện cốt truyện, kết cấu tác phẩm và xây dựng nhân vËt trong
tiĨu thut trun thèng. Mäi cèt c¸ch con ngêi đều đợc quy định bởi tính
khuôn mẫu, do đó tiểu thuyết truyền thống thiếu đi sự sinh động, sáng tạo vµ


9

cá tính. Điều này đà đợc so sánh với các quan niệm hiện đại về tiểu thuyết
trên các phơng diện: cốt truyện, kết cấu và nhân vật.
1.1.2.2. Quan niệm hiện ®¹i vỊ tiĨu thut
NÕu nh quan niƯm trun thèng vỊ tiểu thuyết coi cốt truyện là yếu tố cơ

bản nhất, mäi vÊn ®Ị chØ tËp trung xoay quanh cèt trun và kết cấu thì quan
niệm hiện đại về tiểu thuyết lại cho rằng, để phản ánh chân thật hiện thực ấy tiểu
thuyết không thể dựa vào trình tự lớp lang của cốt truyện hay kết cấu trong sáng
tạo nữa mà phải phá vỡ, vợt thoát ra ngoài sự bó buộc của yếu tố này. Nhà văn có
thể mở đầu, kết thúc tuỳ theo cảm hứng và trong tiểu thuyết hiện đại điều quan
trọng là vấn đề h cấu nghệ thuật bởi "điều cốt yếu của tiểu thuyết là tạo ra một
cuộc đời tởng tợng, nhng cuộc đời đó cần phải thực, để cho giống thực tại và
nhắc nhở cái thực tại đó nếu bất cần ta có thể quên đi" [5, 315].
Theo quan niệm hiện đại thì tiểu thuyết phải bóc trần tất cả những gì đằng
sau tấm màn hào nhoáng che phủ thế giới, nó không đơn giản là mô tả hiện
thực ở những góc khuất tiêu cực. Tiểu thuyết hiện đại không chủ tâm khai thác
bề mặt sự kiện mà chủ tâm truy tìm những tầng sâu của ý thức con ngời trớc
những vấn đề xà hội. Thế giới bên trong con ngời không chỉ là một cõi nhỏ bé
và khép kín trong những định chế của ý thức hệ t tởng và văn hoá. Ngợc lại, nó
có thể là một thế giới vô biên sâu thẳm. Hơn thế nữa, nó thờng đặt những chủ
đích t tởng đằng sau tấm màn đa sắc của nghệ thuật ngôn từ. Trật tự tuyến tính
giả định của hiện thực bên ngoài bị triệt tiêu, để từ đó một trật tự khác của thế
giới bên trong đợc nhìn thấy đúng nh chính nó. Đó là một thế giới phi thời gian,
không gian, bất định, năng động và vĩnh viễn bất khả đoán.
Theo M.Kudera thì "tiểu thuyết suy xét hiện hữu chứ không phải hiện
thực. Hiện hữu không phải là cái gì xẩy ra, hiện hữu là thế giới của những khả
hữu con ngời, bất cứ cái gì con ngời có thể trở nên, bất cứ cái gì hắn có khả
năng làm. Tiểu thuyết gia là ngời vẽ bức bản đồ sự hiện hữu bằng cách khai
phá khả hữu này hay khả hữu kia của con ngời" [47].
Với quan niệm hiện đại về tiểu thuyết, hiện thực chỉ là cái nền cho sự
diễn biến những cuộc đời, những số phận, những trạng thái tinh thần phát
triển. Nguyên tắc quan trọng của tiểu thuyết hiện đại là tìm kiếm một phơng
thức phản ánh không lệ thuộc vào thực tại khách quan. Tiểu thuyết không chỉ
tái hiện lại hiện thực mà còn nỗ lực vơn đến sáng tạo những hiện thực mới,
một thực tại ảo chỉ có trong suy nghĩ, thả cho trí tởng tợng của mình bay bổng

để tạo ra những vùng không - thời gian chỉ tuân theo logic nội tại. Tiểu thuyết


10

hiện đại không hề loại trừ tiểu thuyết hiện thực, bởi tiểu thuyết hiện thực chỉ là
một khoảng đất rất nhỏ. Mọi quá trình lý giải tác phẩm dựa vào sự so sánh với
thực tại, chính vì vậy mà có những khe hở, những khoảng cách giữa văn bản
và thế giới thực, giữa nghệ thuật và cuộc sống. T tởng hậu hiện đại đà đi đến
kết luận: "Tất cả những gì đợc coi là hiện thực, trên thực tế không gì khác hơn
chính là sự hình dung về nó".
Quan niệm hiện đại về tiểu thuyết của M.Kudera có nhiều điểm tơng
đồng với M.Bakhtin khi coi tiểu thuyết là thể loại tiếp xúc với khu vực hiện tại
đang diễn ra, cha định hình và còn nhiều biến đổi. Do đó, nó phá bỏ khoảng
cách sử thi, nó dân chủ trong quan hệ thẩm mỹ với hiện thực, với đối tợng và
độc gi¶. NÕu nh quan niƯm trun thèng vỊ tiĨu thut coi trọng cốt truyện thì
tiểu thuyết hiện đại lại coi trọng yếu tố nhân vật. Nhà văn phải mô tả, thể hiện
nhân vật một cách đa diện, phức tạp, cha hoàn thành giữa hành động và tính
cách, ngoại hình và nội tâm. Nhân vật của tiểu thuyết hiện đại không có thời
gian để kể lể sự tình mà tất cả đang cuốn vào vòng xoáy của sự kiện, hành
động... khó tóm thuật để kể lại. Nhà văn chủ yếu khai thác chất kết dính
những mảnh rời của tâm trạng nhân vật, những gấp khúc quanh co của đời ngời. Điều nữa, ở tiểu thuyết hiện đại, trong quá trình sáng tác nhà văn đà khách
quan tuân theo sự phát triển của tính cách nhân vật hợp logic chứ không gò nó
vào cốt truyện định sẵn và nh thế cốt truyện trở thành phơng tiện góp phần bộc
lộ tính cách nhân vật.
Tiểu thuyết hiện đại có khả năng khái quát toàn diện mọi khía cạnh, ngõ
ngách của đời sống, sinh hoạt vật chất lẫn tinh thần của con ngời và xà hội.
Bởi thế, tiểu thuyết hiện đại đà phát hiện ra thủ pháp "đồng hiện" và kỹ thuật
"dòng ý thức" trong nghệ thuật sáng tạo tiểu thuyết và gọi đó là sự "đột khởi
của thời gian", hay "bắt đợc thời gian". Tiêu biểu cho hớng sáng tác này là các

tác giả: Bảo Ninh, Đào Thắng, Nguyễn Bình Phơng...
Nh vậy, đi sâu tìm hiểu sự tơng đồng và khác biệt giữa quan niệm truyền
thống và hiện đại về tiểu thuyết là một việc làm rất có ý nghĩa, giúp ngời đọc
thấy đợc quy luật kế thừa và phát triển của văn học. Những tinh hoa của tiểu
thuyết truyền thống là nhịp cầu kết nối với tiểu thuyết hiện đại. Qua đó, thấy
đợc những giá trị to lớn về những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam đơng đại, hoàn tất quá trình hiện đại hoá văn học nớc nhà.
Nh vậy, từ quan niƯm trun thèng vỊ tiĨu thut coi träng cèt truyện,
đến quan niệm hiện đại về tiểu thuyết buông lỏng cốt truyện và coi trọng nhân


11

vật trong tiểu thuyết hiện đại là một nhận thức đúng hớng và hợp thời. Với quá
trình hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam và thế giới, quan niệm đó
cũng trùng hợp với những quan niệm của các nhà nghiên cứu phê bình lý luận
văn học nổi tiÕng nh M.Bakhtin, M.Kundera ...
1.2. Mét sè khuynh híng trong tiểu thuyết Việt Nam về đề tài
chiến tranh
1.2.1. Khuynh hớng sử thi
1.2.1.1. Sử thi với t cách là một thể loại
Trong lịch sử văn học nhân loại, sử thi là thể loại ra đời sau thần thoại.
ó ly tuy c "loại tác phẩm tự sự dài xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học của các
dân tộc, nhằm ngợi ca sù nghiƯp cđa nh÷ng ngêi anh hïng cã tÝnh chất toàn
dân và những vấn đề trọng đại đối với dân tộc trong buổi bình minh của lịch
sử... Các nhân vật chính của sử thi là những anh hùng, những tráng sĩ tiêu biểu
cho sức mạnh thể chất và tinh thần, cho trí thông minh và lòng dũng cảm của
cộng đồng. Đợc miêu tả khá tỉ mỉ, đầy đủ từ cách ăn mặc, trang bị, đi đứng
đến những trận giao chiến với kẻ thù, những chiến công lừng lẫy và đôi khi cả
những sinh hoạt đời thờng của họ nữa. Điều đáng chú ý là tất cả những cái này

đều đợc mêu tả trong những vẻ đẹp kì diệu khác thờng" [67, 285]. Thể loại sử
thi đó vĩnh viễn một đi không trở lại, nhng những nét cơ bản của nó (về cảm
hứng, về cách xây dựng hình tợng, sự trang trọng về giọng điệu và ngôn ngữ)
vẫn ảnh hởng đến văn học muôn đời sau.
1.2.2.2. Khuynh hớng sử thi trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975
Cái gọi là khuynh hớng sử thi trong văn học hiện đại khác với thể loại sử thi
thời cổ đại. Nó chỉ giữ lại một số yếu tố "gen" nhất định của thể loại này nh việc
đề cập đến những vấn đề lịch sử trọng đại mang tính toàn dân, liên quan đến sự
sống còn của cộng đồng. Điều này có thể thấy rõ trong văn học cách mạng Việt
Nam giai đoạn 1945 - 1975. Những sự kiện lịch sử cơ bản trong văn học giai
đoạn này là chống giặc ngoại xâm và xây dựng chủ nghĩa xà hội. Đó là hai đề tài
thiêng liêng và cao cả của văn học thời kỳ này. Nhân vật trung tâm là những con
ngời vì sự nghiệp chung, quên mình vì nghĩa lớn. Họ luôn chấp nhận sự hy sinh
quyền lợi, hạnh phúc cá nhân cho sự sống còn của dân tộc. Do sự quy định của
lịch sử, văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 chủ yếu đợc viết theo khuynh
hớng sử thi và cảm hứng lÃng mạn. Ra đời và phát triển trong không khí sục sôi
của cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống Pháp - Mỹ vô cùng ác liƯt vµ kÐo dµi,


12

văn học giai đoạn này phản ánh các sự kiện lịch sử lớn, số phận của toàn thể
cộng đồng với quy mô sử thi, mang tầm vóc rộng lớn.
Khuynh hớng sử thi là nhân tố cơ bản trong việc tạo nên bớc tổng hợp
mới của văn học hiện thực xà hội chủ nghĩa, là yếu tố chủ đạo chi phối mọi
thể loại trong văn học, nhất là tiểu thuyết. Các tiểu thuyết viết về chiến tranh
trong giai đoạn này đà phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong hai
cuộc kháng chiến. Từ tiểu thuyết Đất nớc đứng lên (Nguyên Ngọc) đến Dấu
chân ngời lính (Nguyễn Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Tháng
ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải)... tiÕp tơc viÕt vỊ nh÷ng con ngêi anh hïng

chèng Mü gan dạ, quả cảm, ngợi ca những cuộc hành quân vĩ đại, những cuộc
chia tay lớn mang đậm dấu ấn của lịch sử dân tộc:
Lớp cha đi trớc, lớp con sau
ĐÃ thành đồng chí chung câu quân hành
(Tố Hữu)
Dân tộc anh hùng đà sản sinh ra những con ngời anh hùng tiêu biểu nh:
anh hùng Núp trong Đất nớc đứng lên (Nguyên Ngọc); Tnú trong Rừng xà nu
(Nguyễn Trung Thành)... Họ đều là những con ngời bình dị nhng luôn khao
khát tự do, mang trong lòng ý chí kiên cờng, bất khuất của con ngời Tây
Nguyên. Trong các tiểu thuyết: Hòn đất (Anh Đức), Ngời mẹ cầm súng
(Nguyễn Thi), Dấu chân ngời lính (Nguyễn Minh Châu)... các nhà văn xây
dựng hình tợng ngời lính nh những tợng đài tráng lệ của lịch sử. Còn những
ngời phụ nữ bình thờng nh chị Sứ, chị út Tịch thì khi lịch sử cần họ cũng trở
thành những ngời anh hùng, với phơng châm "giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh". ở họ kết tinh tất cả những vẻ đẹp truyền thống của ngời phụ nữ Việt
Nam: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".
Văn häc viÕt theo khuynh híng sư thi thêi kú 1945 - 1975 là nền văn học
phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu, hớng về đại chúng, phản ánh những sự kiện
lịch sử to lớn, trọng đại cho nên việc viết về hai đề tài lớn là: chống giặc ngoại
xâm và xây dựng chủ nghĩa xà hội là nhiệm vụ thiêng liêng cao cả. Mỗi nhà
văn đều mong muốn phản ánh, khám phá, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, viết lên những trang sử bằng thơ về cuộc sống lao động và chiến đấu
của dân tộc ta. Văn học thời kỳ này là bức tranh chân thực đẹp đẽ của lịch
sử, mỗi tác phẩm là bài ca mang âm hởng hào hùng về khí thế đấu tranh của
dân tộc ViƯt Nam. Con ngêi trong tiĨu thut 1945 - 1975 là những con ng ời luôn "khoác bộ áo xà hội", luôn trùng khiết với địa vị xà hội của mình là


13

"những con ngời đơn trị, dễ hiểu đúng với quan niệm con ngời kiểu sử thi"

(M.Bakhtin).
Có thể nói, văn học viÕt vỊ chiÕn tranh theo khuynh híng sư thi vµ cảm
hứng lÃng mạn, các nhà văn đi sâu khắc hoạ thành công hình tợng ngời lính
cách mạng, mang trên vai mình trọng trách lớn lao của lịch sử dân tộc. Bởi
vậy cảm hứng chủ yếu là cảm hứng ngợi ca những chiến công, những con ngời
vì cộng đồng vợt lên mọi thử thách tạo nên những kỳ tích phi thờng.
Xẻ dọc Trờng Sơn đi cứu nớc
Mà lòng phơi phới dậy tơng lai
(Tố Hữu)
Trong chiến đấu, con ngời ở giai đoạn này luôn nghĩ đến ngày chiến
thắng, trong khó khăn gian khổ thiếu thốn, họ cũng luôn nghĩ đến những ngày
độc lập, tự do và chủ nghĩa xà hội. Bằng cảm hứng lÃng mạn cách mạng và
viết theo mạch chảy của khuynh hớng sử thi, với niềm tin phơi phới vào tơng
lai, văn học giai đoạn này gieo vào lòng ngời những hy vọng lớn, giúp họ quên
đi những ngày gian khổ, hy sinh của chiến tranh làm nên những chiến công
hiển hách, mang lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nớc xà hội chủ nghĩa.
Nh vậy, trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, các nhà văn chủ
yếu viết về đề tài chiến tranh và hình tợng ngời lính theo khuynh hớng sử thi
và cảm hứng lÃng mạn cách mạng. Đây chính là đặc điểm nổi bật nhất mà văn
học giai đoạn này không thể thiếu. Theo đờng lối lÃnh đạo của Đảng về văn
nghệ và đà quay quán tính của bánh xe lịch sử, văn học giai đoạn này viết về
chiến tranh ít khi viết đến những tổn thất, đau thơng mà chủ yếu đi sâu ca ngợi
những con ngời cùng với những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Và những gì khuất lấp của văn học giai đoạn 1945 - 1975 sẽ đợc văn
học giai đoạn thời kỳ đổi mới kế thừa, bổ khuyết làm cho bức tranh văn học
viết về chiến tranh đợc toàn diện hơn. Đến văn học Việt Nam giai đoạn sau
1975, khuynh hớng sử thi viết về đề tài chiến tranh vẫn cha mất hẳn. Nó vẫn
đợc các nhà văn tiếp tục phát triển theo một t duy nghệ thuật mới và xem nó
tồn tại nh một quán tính nghệ thuật trong suốt chiều dài của lịch sử văn học

Việt Nam.
1.2.2. Khuynh hớng thế sự - đời t
Nếu nh văn học giai đoạn 1945 - 1975 chủ yếu đợc viết theo khuynh hớng sử thi và cảm hứng lÃng mạn, xây dựng những con ngời điển hình phù hợp


14

với lịch sử dân tộc một thời đạn lửa thì văn học giai đoạn sau chiến tranh vẫn
tiếp tục sáng tác về đề tài chiến tranh và ngời lính cách mạng nhng ở một góc
độ tiếp cận mới. Những tác phẩm này đà bắt đầu xuất hiện bi kịch cá nhân với
sự hi sinh mất mát, bi kịch tình yêu tan vỡ do "hội chứng chiến tranh". Nhà
văn đợc tự do viết về những góc khuất, những mạch ngầm mà văn học giai
đoạn trớc cha có điều kiện khám phá. Đó là những mặt trái và nghịch lý của
đời sống con ngời hậu chiến, nhìn thấu vào sự thật lịch sử, soi chiếu vào
từng số phận cá nhân cụ thể để phản ánh, thể hiện bản chất ý nghĩa cuộc
sống.
Văn học giai đoạn này đà có sự thay đổi, đầu tiên là đổi mới về t duy
nghệ thuật, từ t duy sư thi chun sang t duy tiĨu thut, tõ cảm hứng cao cả
sang cảm hứng thế sự đời t. Với việc thay đổi cách viết này, tiểu thuyết đà đạt
đợc nhiều thành tựu đáng kể nh: Ký sự miền đất lửa (Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ
Lân - 1978); Cha và con (Nguyền Khải - 1979); Đứng trớc biển (Nguyễn
Mạnh Tuấn - 1982); Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh - 1984); Mùa lá rụng
trong vờn (Ma Văn Kháng - 1984), Thời xa vắng (Lê Lựu - 1986); Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh - 1991); ăn mày dĩ vÃng (Chu lai - 1992)... đà đánh dấu
một bớc chuyển biến mới trong việc quan tâm, thể hiện những vấn đề của
cuộc sống cá nhân con ngời thời hậu chiến, cùng với tất cả những bi kịch
nghịch lý trong đời sống hàng ngày.
Cũng với khuynh híng viÕt vỊ sè phËn cđa nh÷ng ngêi lÝnh thời hậu
chiến bằng cảm hứng thế sự đời t, Chu Lai đà gặt hái đợc không ít những
thành công qua tác phẩm Ăn mày dĩ vÃng. Con ngời ở đây hiện lên dới nhiều

góc độ, dáng vẻ khác nhau. Trong cuộc sống đời thờng, họ cũng chẳng có
nhiều may mắn, chủ yếu là bất hạnh và bi kịch. Thông điệp lớn nhất mà nhà
văn muốn gửi tới ngời đọc là hÃy tiếp tục tôn vinh những giá trị làm nên chiến
thắng, hÃy trân trọng những số phận đà đi qua chiÕn tranh.
Sè phËn ngêi lÝnh thêi hËu chiÕn trong tiÓu thuyết của Chu Lai thể hiện ở
những điểm sau: Thứ nhất, những ngời lính bị mặt trái của cơ chế thị trờng xô
đẩy nhng không gục ngÃ, vẫn kiên định một lòng hớng đến cái thiện, trụ vững
trớc cuộc đời bằng bản lĩnh của ngời lính. Thứ hai, những con ngời không vợt
qua đợc chính bản thân mình, sẵn sàng thoả hiệp với cái xấu để đi ngợc lại với
lợi ích của cộng đồng. Thứ ba, những ngời lính trở về thành danh trên con đờng xây dựng sự nghiệp mới, hoà nhập đợc với cuộc sống hiện tại. Thứ t, số
phận của những ngời lính không thể hoà nhập với guồng quay của cơ chế thị


15

trờng. Họ mặc cảm với quá khứ nặng nề, trở thành những kẻ ăn mày dĩ vÃng,
sống bơ vơ giữa cuộc đời cùng với những số phận cá nhân đầy bi kịch.
Viết về số phận của những ngời lính bằng khuynh hớng thế sự đời t,
tiêu biểu nhất phải kể đến tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Khi chiÕn tranh kÕt thóc, Kiªn trë vỊ víi cc sèng đời thờng, cứ tởng rằng
hoà bình sẽ mang lại nhiều may mắn và hạnh phúc cho anh, nào ngờ cuộc
sống hậu chiến đà thay đổi tất cả. Những ngời thân ®· v¾ng bãng khi anh
quay trë vỊ sau chiÕn tranh. Phơng - ngời yêu duy nhất của anh cũng không
còn là chính cô của ngày xa nữa. Cô trở thành một con ngời hoàn toàn
khác, ăn chơi trác táng hàng đêm bên cạnh những ngời đàn ông khác. Kiên
làm sao sống nổi khi hiện thực quá phũ phàng, quá khứ đau buồn về chiến
tranh thì nguyên vẹn luôn hiện hình trong anh làm anh lạc lỏng, bơ vơ giữa
cõi đời.
Kể cả Kiên - một ngời thoát ra khỏi cuộc chiến tranh ấy cũng không thể
tìm lại đợc con ngời trớc đây của chính mình nữa. Chiến tranh đà vĩnh viễn

lấy đi của anh tuổi trẻ, tình yêu và cái nhìn chân thành, trong sáng vào cõi
đời. Là "nhà văn phờng" lập dị, lấy đêm làm ngày, lấy những cơn say làm
niềm vui, an ủi cho cuộc sống hiện tại. ở con ngời anh bây giờ là sự xuống
dốc "suốt đêm anh lang thang dầm mình trong rợu, dù đà hàng trăm lần tự
cầu xin lòng mình hÃy yên lặng đi cho, thì trong tâm hồn anh vẫn không
ngừng nhói đau, những hồi tởng tan nát về thời gian sống cùng nhau sau
chiến tranh của anh và Phơng" [60, 87].
Bi kịch đời t cá nhân còn đợc thể hiện trong tiểu thuyết Thời xa vắng của
nhà văn Lê Lựu, có ai nghÜ r»ng Giang Minh Sµi - mét ngêi lÝnh kinh qua trận
mạc trong bom đạn của chiến tranh, trở về rực rỡ với ánh hào quang của sắc
quân phục trên vai, nhng lại thất bại trong cuộc sống riêng t, hạnh phúc cá
nhân gia đình, nhất là cuộc sống đó lại do chính anh lựa chọn và quyết định.
Đó chính là bi kịch của Sài trong việc chọn Châu (một cô gái gốc Hà Nội) làm
vợ và chính cuộc sống ấy đà đa đến cho Sài một bi kịch lớn: bi kịch của sự
khác biệt giữa mình và vợ. Những ngày sống bên Châu, anh giống nh đang bơi
giữa cánh đồng đầy nớc lụt mênh mông "không biết đâu là bờ, không biết khi
nào là kiệt sức và mình sẽ chết đuối vào lúc nào" [46, 278].
Bằng việc thay đổi t duy và cảm hứng sáng tác của các nhà văn Việt
Nam viết về chiến tranh, đà tạo điều kiện khắc phục những hạn chế của văn


16

học giai đoạn trớc 1975. Đặc biệt là giai đoạn sau đổi mới, các tác phẩm viết
về những "hội chứng chiÕn tranh" vÉn tiÕp tơc nh: Ký sù miỊn ®Êt lửa (Nguyễn
Sinh và Vũ Kỳ Lân - 1978); Cha và con (Nguyền Khải - 1979); Đứng trớc
biển (Nguyễn Mạnh Tấn - 1982); Đất trắng (Nguyễn Trọng ánh - 1984);
Mùa lá rụng trong vờn (Ma Văn Kháng - 1984), Thời xa vắng (Lê Lựu 1986); Bến không chồng (Dơng Hớng); Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh 1991); ăn mày dĩ vÃng (Chu lai - 1992)... là những tác phẩm thành công cho
khuynh hớng đi sâu khám phá những số phận của đời sống cá nhân con ngời
với những niềm vui, nỗi buồn, sung sớng và cả khổ đau.

Có thể nói, những nhà văn viết về chiến tranh theo khuynh hớng thế sự
đời t đà bổ sung những khoảng trống của văn học giai đoạn trớc 1975, làm cho
bức tranh đời sống hiện lên toàn vẹn, chân thực và sinh động hơn. Đây cũng là
những đóng góp lớn của các nhà văn Việt Nam đơng đại viết về chiến tranh,
trong đó có Bảo Ninh.
1.3. Bảo Ninh - cây bút có nhiều đổi mới
1.3.1. Vài nét về sự nghiệp văn học của Bảo Ninh
Bảo Ninh tên khai sinh là Hoàng ấu Phơng, sinh ngày 18/01/1952. Quê
ở Bảo Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình. Năm 1969, Bảo Ninh nhập ngũ, tham gia
chiến đấu tại chiến trờng Tây Nguyên. Năm 1989, tốt nghiệp trờng Viết văn
Nguyễn Du. Hiện nay, ông đang công tác tại Tuần báo Văn nghệ. Bảo Ninh đợc trao giải nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 cho tiểu thuyết Thân
phận tình yêu hay Nỗi buồn chiến tranh.
Sáng tác của Bảo Ninh chủ yếu là truyện ngắn và tiểu thuyết. ở thể loại
truyện ngắn, dờng nh tác phẩm nào của Bảo Ninh cũng để lại dấu ấn sâu sắc
trong lòng ngời đọc. Bùi Việt Thắng nhận định: "Bảo Ninh là một nhà văn có
duyên với truyện ngắn" [21, 337]. Bích Thu trong công trình Những thành tựu
của truyện ngắn sau 1975 cũng xem Bảo Ninh là "một cây bút văn xuôi ấn tợng với bạn đọc" [74, 32]. Đề tài trong truyện ngắn Bảo Ninh chủ yếu là mảng
đề tài chiến tranh và ngời lính. Chính ở đề tài này mà độc giả biết đến Bảo
Ninh nh một nhà văn sinh ra để viết về chiến tranh và ngời lính. Còn ở thể loại
tiểu thuyết, Bảo Ninh khá thành công với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
hay Thân phận của tình yêu - một trong những tác phẩm đợc dịch ra nhiều thứ
tiếng nớc ngoài và đợc đọc nhiều nhất trên thế giới.
Theo thống kê trong hai tập Truyện ngắn Bảo Ninh do Nhà xuất bản
Công an nhân dân ấn hành năm 2004 và cuốn Bảo Ninh lan man trong lúc kÑt



×