1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ LIÊN
TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM SAU NĂM 1986
(QUA MẢNH ĐẤT LĂM NGƯỜI NHIỀU MA CỦA
NGUYỄN KHẮC TRƢỜNG, MA LÀNG CỦA TRỊNH
THANH PHONG VÀ DÒNG SÔNG MÍA CỦA ĐÀO
THẮNG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành văn học Việt Nam
Hà Nội- 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ LIÊN
TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM SAU NĂM 1986
(QUA MẢNH ĐẤT LĂM NGƯỜI NHIỀU MA CỦA
NGUYỄN KHẮC TRƢỜNG, MA LÀNG CỦA TRỊNH
THANH PHONG VÀ DÒNG SÔNG MÍA CỦA ĐÀO
THẮNG)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Hà Văn Đức
Hà Nội- 2013
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao
chép của ai. Những nội dung của luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được
đăng tải trên các sách, báo, các trang web, khóa luận tốt nghiệp và luận văn đã được chú thích theo
danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Tác giả luận văn
Lê Thị Liên
4
Lời cảm ơn!
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt
tình từ rất nhiều phía. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hà Văn Đức – Khoa Văn học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã có những ý kiến đóng góp chân thành, sâu sắc
cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến gia đình, bạn bè – những người đã luôn
ủng hộ, động viên tôi nỗ lực để hoàn thành tốt nhất luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12/2013
Tác giả
Lê Thị Liên
5
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 8
3. Mục đích nghiên cứu 15
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 16
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 16
6. Cấu trúc đề tài 17
CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG BỐI CẢNH
VĂN HỌC THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN KHẮC
TRƢỜNG, TRỊNH THANH PHONG, ĐÀO THẮNG 18
1.1 Đề tài nông thôn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại 18
1.1.1 Văn xuôi viết về nông thôn trước đổi mới (1986) 18
1.1.2 Tiểu thuyết viết về nông thôn sau đổi mới (1986) 21
1.2 Sự xuất hiện của Nguyễn Khắc Trƣờng, Trịnh Thanh Phong và Đào Thắng
trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại 27
1.2.1 Vài nét về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khắc Trường 27
1.2.2 Vài nét về sáng tác của Trịnh Thanh Phong 28
1.2.3 Vài nét về sáng tác của Đào Thắng 29
Chƣơng 2: HIỆN THỰC NÔNG THÔN VÀ CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG
MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA, MA LÀNG VÀ DÒNG SÔNG MÍA 31
2.1 Bức tranh hiện thực cuộc sống nông thôn 31
2.1.1 Hiện thực nông thôn thời kì tiền đổi mới 31
2.1.2 Vấn đề tàn dư của cái cách ruộng đất 39
2.1.3 Hiện thực đời sống tâm linh và đời sống tính dục trong ba tiểu thuyết 44
3.2 Các kiểu nhân vật trong ba tiểu thuyết 55
3.2.1 Nhân vật tha hóa 55
6
3.2.2 Nhân vật ki kịch 64
3.2.3 Nhân vật vượt lên trên hoàn cảnh số phận 70
Chƣơng 3: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN 78
3.1 Nghệ thuật khắc họa nhân vật 78
3.1.1 Xây dựng những chi tiết ngoại hình 79
3.1.2 Khắc họa nội tâm nhân vật 85
3.2 Đặc điểm ngôn ngữ 89
3.2.1 Ngôn ngữ của người kể chuyện 90
3.2.2 Ngôn ngữ nhân vật 93
3.3 Kết cấu 98
3.3.1 Kết cấu lồng ghép 98
3.3.2. Kết cấu buông lửng để ngỏ 103
KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử văn học Việt Nam, đề tài nông thôn luôn có sức hấp dẫn đặc
biệt và là mảng hiện thực ghi danh nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Mỗi thời kì tùy
theo hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội mà nông thôn được tiếp cận dưới những góc
độ khác nhau. Trong dòng văn học hiện thực phê phán những năm 1930 – 1945,
nông thôn hiện lên với cái đói, cái nghèo, tối tăm, lạc hậu. Sau Cách mạng Tháng
Tám đến năm 1975, đề tài nông thôn được khai thác với cảm hứng ngợi ca những
mặt tích cực, tốt đẹp của cuộc sống. Sau năm 1975, đặc biệt là sau Đại hội Đảng VI
(1986) với tinh thần tự do dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật, phát huy nhân tố con
người đã mang đến cho văn chương một luồng sinh khí mới. Các nhà văn đã mạnh
dạn bày tỏ tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của mình về hiện thực. Dưới cái nhìn thế
sự, vấn đề người nông dân cũng được mổ xẻ, soi chiếu dưới nhiều góc độ. Chưa bao
giờ cuộc sống riêng tư, số phận con người lại được chú ý đến vậy. Thêm vào đó,
việc các phương tiện thông tin truyền hình của Việt Nam công chiếu hàng loạt
những bộ phim dài tập về đề tài nông thôn như: “Chuyện làng Nhô”, “Đất và
người”, “Ma làng”, “Gió làng Kình” … đã đưa hình ảnh nông thôn thời kì đổi mới
trở nên quen thuộc và hấp dẫn với người xem.
Trong hàng loạt những tác phẩm văn xuôi viết từ sau đổi mới về đề tài nông
thôn Việt Nam Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ma làng
(Trịnh Thanh Phong), Dòng sông mía (Đào Thắng) là những tác phẩm tiêu biểu, đặc
sắc. Giá trị nội dung và nghệ thuật của ba tiểu thuyết này được khẳng định bằng
việc nhận giải thưởng của Hội nhà văn (Mảnh đất lắm người nhiều ma, Dòng sông
mía) và được chuyển thể thành phim (Ma làng, Mảnh đất lắm người nhiều ma) làm
lay động bao trái tim độc giả, khán giả.
Xuất phát từ lòng yêu thích, muốn tìm hiểu về cuộc sống của con người cũng
như hình ảnh về nông thôn trong những năm sau đổi mới, đồng thời cũng mong
muốn bổ sung thêm kiến thức, giúp ích cho việc học tập, nghiên cứu sau này, chúng
8
tôi quyết định chọn đề tài “ Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn học Việt Nam
sau năm 1986 (Qua Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Ma
làng của Trịnh Thanh Phong, Dòng sông mía của Đào Thắng” cho luận văn cao
học của mình. Chúng tôi hi vọng đề tài được lựa chọn sẽ góp một tiếng nói nhỏ vào
định hướng chung của nền văn hóa nghệ thuật nước nhà, thêm một sự đồng thuận
trong thái độ của cộng đồng với vấn đề nông thôn Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sau Đại hội Đảng VI (1986) văn học Việt Nam đã có một bước chuyển mình
rất lớn lao trên tất cả các thể loại, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết. Sự nở rộ của tiểu
thuyết thời kì đổi mới, đặc biệt là các tiểu thuyết về nông thôn được coi như một
thành tựu của văn học thời kì này đã thu hút các nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý.
Trong quá trình tìm hiểu các tư liệu liên quan đế đề tài, chúng tôi có được
một số tư liệu có thể tạm phân ra một số vấn đề chính sau đây:
2.1 Những ý kiến chung về sự chuyển biến của văn xuôi viết về nông thôn
Sau khi Đảng phát động cuộc đổi mới, văn học nói chung và văn xuôi viết về
nông thôn nói riêng có bước chuyển biến căn bản. Nhờ không khí dân chủ của xã
hội, chưa bao giờ tác phẩm văn xuôi lại xuất hiện nhiều và đa dạng như thời kì này.
Giới nghiên cứu, phê bình cũng được rộng đường dư luận hơn trước nên số lượng
bài viết rất phong phú. Hầu hết các bài viết đều đề cập đến những khía cạnh khác
nhau của đời sống nông thôn trước và sau đổi mới, và thống nhất ghi nhận sau Đại
hội Đảng VI (1986), văn xuôi viết về nông thôn đã có sự thay đổi đáng kể. Tác giả
Trần Cương trong bài Văn xuôi viết về nông thôn nửa sau những năm 80 [12] đã
nhận thấy có hai sự chuyển biến của văn xuôi viết về nông thôn nửa sau những năm
80 so với những năm trước đó, đó là: Sự chuyển biến trong chủ đề và sự chuyển
biến trong phạm vi bao quát hiện thực. Ở bài viết này, khi nói về chuyển biến trong
chủ đề Trần Cương đã đánh giá “ dường như lần đầu tiên xuất hiện hai chủ đề thuộc
về con người mà trước kia chưa có đó là sản phẩm con người và hạnh phúc cá
9
nhân…” [12; 36]. Ở phạm vi bao quát hiện thực tác giả cũng nhận xét: Các nhà văn
đã nhìn nhận và phản ánh hiện thực nông thôn một cách chân thực và sâu sắc.
Nhà nghiên cứu Phong Lê trong công trình Nghiên cứu văn học [38] với bài:
Tiểu thuyết mở đầu thế kỷ XXI trong tiến trình văn học Việt Nam từ tháng 8 năm
1945” đã có một cái nhìn khái quát về tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
những năm sau đổi mới, đặc biệt là những cuốn tiểu thuyết mở đầu thể kỳ XXI.
Tác giả Tôn Phương Lan trong cuốn Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX
[32] có bài Một số vấn đề văn xuôi thời kì đổi mới, tác giả có đề cập đến văn học
sau chiến tranh. Đặt đề tài nông thôn bên cạnh đề tài khác, bài viết đã chỉ ra những
đổi mới của đề tài nông thôn trong sự đổi mới chung của tiểu thuyết sau 1986.
Ngoài ra, trong bài viết này, tác giả còn nói đến một số vấn đề tồn tại của đời sống
nông thôn trong mối quan hệ dòng tộc.
Trong bài viết Về hướng tiếp cận mới đối với hiện thực trong văn xuôi sau
năm 1975, khi xác định ranh giới của tiểu thuyết trước và sau đổi mới, nhà nghiên
cứu Tôn Phương Lan cho rắng: “Lâu nay người nông dân chưa được nhìn nhận qua
vấn đề ruộng đất, vấn đề vào ra hợp tác xã, giờ đây, nhà văn được nhìn vào số
phận lịch sử của họ. Và lịch sử đất nước được hiện ra qua lịch sử cuộc đời nhân vật
trong cuộc mưu sinh, trong sự duy trì, đóng góp để làm nghĩa vụ cho tổ quốc, với
phần trách nhiệm của từng hoàn cảnh gia đình”[34; 50]. Từ góc độ đó, tác giả cho
rằng: “đã có một cách soi xét lại một thời đã qua, thông qua những số phận cá nhân
và những vấn đề của làng xã, một dòng họ” ”[34; 48], trong đó, “nổi bật lên là mối
mâu thuẫn về quyền lợi cá nhân nấp dưới vấn đề họ tộc” [34; 40]
Tác giả Lã Duy Lan trong công trình khoa học Văn xuôi viết về nông thôn –
tiến trình và đổi mới [32] đã khái quát và đánh giá về nông thôn trong suốt quá trình
phát triển từ trước và sau năm 1986. Nếu ở giai đoạn trước năm 1986, tác giả đi vào
những thành tựu và hạn chế trong việc phản ánh hiện thực thì ở giai đoạn sau năm
1986, ngoài việc giới thiệu diện mạo chung, tác giả còn tập trung đánh giá những
“đặc trưng sáng tạo về nội dung” của văn xuôi viết về nông thôn thời kì đổi mới
10
qua sự chuyển biến về chủ đề, phạm vi bao quát hiện thực và cách thể hiện nhân
vật. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá những thành tựu bước đầu về phương diện
nghệ thuật: ngôn ngữ, thể loại, phong cách chung và giọng điệu.
Tác giả Phạm Ngọc Tiến trong bài Đề tài nông thôn không bao giờ mòn đăng
trên báo Tuổi trẻ ngày 2/12/2007 cũng có cái nhìn lạc quan. Trong bài viết tác giả
đã khẳng định đề tài nông thôn không bao giờ “bạc màu”, “không bao giờ mòn”.
Bởi nông thôn Việt Nam đang từng bước chuyển mình, đáng được ghi nhận. Quá
trình nông thôn hóa, sự tác động của công nghiệp vào nông nghiệp, sự lai căng về
văn hóa…cũng có mặt tích cực và tiêu cực nên đáng để các nhà văn suy ngẫm, trăn
trở. [67].
Trong công trình nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 – 2005: Diện mạo
và đặc điểm, tác giả Lê Thị Hường đã chỉ ra được những đặc điểm chính của tiểu
thuyết giai đoạn này là sự đa dạng về hệ đề tài, trong đó đề tài nông thôn là một
trong những đề tài đã gây được ấn tượng. Các nhà văn đã gặp gỡ nhau ở vấn đề cốt
lõi của nông thôn: gia đình và dòng tộc, phong tục, nếp nghĩ, nếp sống của những
con người sống trên những mảnh đất phần lớn còn chịu sức đè của thói tục cũ. [30].
Nhân dịp cuộc thi tiểu thuyết lần 2 (2002- 2004) kết thúc, báo Sài Gòn giải
phóng đã có cuộc trao đổi với Chủ tịch hội nhà văn Việt Nam – nhà thơ Hữu Thỉnh.
Trong cuộc trao đổi, nhà thơ đã khẳng định: Có mùa gặt mới của tiểu thuyết nông
thôn đầu thế kỷ XXI. Nét mới của cuộc thi tiểu thuyết lần 2 là các nhà văn đã có sự
mở rộng biên độ khi viết về nông thôn. Họ “đặt nông thôn Việt Nam trong những
biến cố của dân tộc đầy bão táp theo chiều dài lịch sử”, “với độ mở và góc khuất
mà trước đó nhiều nhà văn chưa có điều kiện để truyền tải tới bạn đọc. Những yếu
tố đó tạo nên bộ mặt và sức bền của nông thôn Việt Nam. Qua Dòng sông mía,
Cánh đồng lưu lạc… đã chứng tỏ được “ sức sống của dân tộc, cốt cách của người
nông dân được phác họa một cách sắc sảo” [65].
Như vậy, văn xuôi và tiểu thuyết viết về nông thôn từ sau năm 1986 đã thực
sự hồi sinh, để lại nhiều dấu ấn qua mỗi giai đoạn, mỗi tác giả và mỗi tác phẩm.
11
Phải khẳng định rằng, văn xuôi và tiểu thuyết viết về nông thôn giai đoạn này đã
không dẫm lên những lối mòn quen thuộc, mà đã có sự chuyển mình, hứa hẹn nhiều
thành tựu ở những giai đoạn sau.
2.2 Những ý kiến đánh giá về Mảnh đất lắm người nhiều ma, Ma làng, Dòng
sông mía.
Văn xuôi viết về nông thôn đã gây được sự chú ý đông đảo dư luận. Hầu như
những tác phẩm viết về nông thôn và người nông dân xuất hiện trên văn đàn, đều
để lại nhiều dấu ấn đối với bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình.
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi tập trung khái quát lại lịch sử nghiên cứu vấn
đề nông thôn sau năm 1986 – cái mốc đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong đời sống
xã hội. Sự ra đời của khá nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại (truyện ngắn, tiểu thuyết)
về đề tài nói trên đã thu hút sự quan tâm của người đọc. Tuy nhiên, đó hầu hết là
những bài viết có quy mô nhỏ, đăng trên các báo, tạp chí, mạng internet… Vấn đề
chung nhất các bài viết chỉ ra là: văn xuôi viết về nông thôn thời kì đổi mới tập
trung nhận thức lại thực tại xã hội đã qua (giai đoạn từ 1954 đến trước năm 1986).
Nguyễn Khắc Trường là cây bút trẻ của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Khởi đầu với các tập truyện Cửa khẩu, Thác rừng, Miền đất mặt trời nhưng thể loại
truyện ngắn này không đem lại thành công cho ông. Đánh dấu sự thành công trong
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khắc Trường phải kế đến cuốn tiểu thuyết Mảnh đất
lắm người nhiều ma , với cuốn tiểu thuyết này Nguyễn Khắc Trường đã mang đến
cho văn đàn một tiếng nói mới, trực diện và sắc sảo. Khảo sát các tư liệu đã thu thập
được, chúng tôi nhận thấy các tài liệu nghiên cứu về Nguyễn Khắc Trường hầu như
mới chỉ là ý kiến thảo luận, các bài viết đăng rải rác trên các báo, tạp chí và các bài
phỏng vấn trực tuyến chưa mang tính toàn diện, hệ thống. Ngoài ra cũng còn phải
kể đến một số bài được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam, kịch bản phim Mảnh đất
lắm người nhiều ma đã được công chiếu dưới cái tên Đất và người” của hãng phim
Truyền hình Việt Nam vào tháng 1 năm 2003. Tuy các ý kiến đánh giá, phê bình đôi
khi khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, nhưng nhìn chung cũng khá thống nhất
12
khi đánh giá về giá trị của cuốn tiểu thuyết này. Đáng chú ý là các ý kiến thảo luận
về Mảnh đất lắm người nhiều ma do báo Văn nghệ tổ chức ngày 25 tháng 1 năm
1991. Trong cuộc thảo luận này các nhà nghiên cứu xem xét, đánh giá tác phẩm
dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Có ý kiến đưa ra sự đánh giá tổng quát về
tác phẩm và khẳng định tài năng của Nguyễn Khắc Trường (Hà Minh Đức), đánh
giá tác phẩm ở chiều sâu văn hóa của nó (Bùi Đình Thi), cũng có ý kiến xem xét,
đánh giá tác phẩm ở khía cạnh đóng góp của nó với đề tài nông thôn (Phong Lê), ở
nghệ thuật trần thuật và cách tổ chức cốt truyện (Trần Đình Sử, Trung Trung
Đỉnh,…) Có thể dẫn ra một số nhận xét tiêu biểu. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Mạnh khẳng định: “Đã lâu lắm rồi mới xuất hiện một tác phẩm viết về nông thôn
Việt Nam theo đúng mạch của Tắt đèn, Chí Phèo…Mảnh đất lắm người nhiều ma là
cuốn tiểu thuyết hấp dẫn nhờ nghệ thuật kể chuyện. Sự dẫn dắt tình tiết, sự tổ chức
các tình huống đã tạo được nhiều bất ngờ… [58;430 – 431]. Hà Minh Đức cũng
khẳng định: “Nguyễn Khắc Trường đã viết về nông thôn với cách nhìn chân thực,
chủ động làm bộc lộ qua những trang viết một nông thôn có nhiều chuyển động, xáo
trộn, đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, tranh chấp nhau giữa các thế lực” [58;
424]. Với Phong Lê “Cuốn sách đặt ra và gây được ấn tượng ở các vấn đề chìm và
nổi, ở bề mặt và bề sâu trong sự đan xen đó. Không chỉ là chất thơ mà còn là bi
kịch, và là những bi kịch gọi nhau, Không chỉ những con người nhân danh đủ dạng
trong thế bài trừ tiêu diệt lẫn nhau mà còn là đủ những dị dạng, bị đẩy ra hoặc bị
hút vào những giao tranh quyết liệt đó”. Và “sức hấp dẫn của cuốn sách là ở một
số vỉa mới mà nó khai thác, gắn bó với những vấn đề chung, vừa thực sự, vừa lưu
cữu của nông thônn chúng ta”.[58; 426]. Bên cạnh những ý kiến bình luận trên,
trong cuộc thảo luận còn có các ý kiến đóng góp của Ngô Thảo, Hoàng Ngọc Hiến,
Hồ Phương, Nguyễn Phan Hách,… Nhìn chung những bài viết này đều có nhận
định chung là ý thức dòng họ là vấn đề nổi bật trong các vấn đề về hiện thực nông
thôn được phản ánh trong tác phẩm. Ngoài ra còn các bài viết trên báo và tạp
chí,…đánh giá tiểu thuyết này, hầu hết các ý kiến mới chỉ thể hiện những ấn tượng
chung nhất, khái quát nhất về tác phẩm.
13
Dòng sông mía của Đào Thắng thì mang lại cho người đọc những trang viết
thú vị về nông thôn Việt Nam. Lý Hoài Thu trong “Dòng sông mía – Một không
gian tiểu thuyết vừa quen thuộc vừa mới mẻ in trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, số
623 năm 2005 đã đi từ nét quen thuộc: quen thuộc từ hình ảnh dòng sông, cùng
“bức tranh thu nhỏ của một vùng dân cư có nghề chính là trồng mía, làm đường”
để chỉ ra những nét mới mẻ, độc đáo của Dòng sông mía. Tác giả Lý Hoài Thu
cũng đã chỉ ra sự sáng tạo của Đào Thắng về giá trị nội dung, và những phương
thức biểu hiện của tác phẩm: nghệ thuật xây dựng nhân vật, không gian và thời
gian, điểm nhìn trần thuật để từ đó khẳng định: “đặc tính nổi bật nhất của Dòng
sông mía … là sự khác lạ độc đáo”. Tác phẩm thực sự đã mở ra hướng tiếp cận
mang ý nghĩa cách tân về mặt thể loại. Cùng nghiên cứu về Dòng sông mía, Nhà
phê bình Trần Mạnh Hảo trong bài “Dòng sông mía của Đào Thắng hay tiếng nấc
của sông Châu Giang” đăng trên Tạp chí Nhà văn số 7 năm 2005 có nhận định:
“Dòng sông mía chính là làng quê trồng mía để bán và để nấu đường của tác giả
tái hiện lên sinh động từ thời Tây thực dân, qua cách mạng, kháng chiến, hòa
bình, cải cách ruộng đất, chống Mỹ, hòa bình và cuối cùng đến chiến tranh biên
giới với Trung Quốc…”’
Trần Lệ Thanh trong bài: “Ma làng “và sự trăn trở của một ngòi bút với quê
hương” in trên báo Văn nghệ trẻ số tháng 2 năm 2003 đã làm rõ hơn giá trị của “Ma
làng” về cả phương diện nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà văn Trịnh
Thanh Phong. Và những phát hiện trong bài viết của tác giả Trần Lệ Thanh cũng đã
gợi hướng cho chúng tôi rất nhiều khi thực hiện đề tài này. Trong bài viết tác giả
Trần Lệ Thanh cho rằng nội dung chính của tác phẩm Ma làng là: “Đằng sau việc
miêu tả những mâu thuẫn dai dẳng, sự tranh chấp, đố kị giữa làng trên xóm dưới,
tộc này họ kia chi phối đời sống nông dân, đằng sau những mánh khóe hiểm ác
những mưu mô toan tính của những người có thế lực có quyền thế, lợi dụng đúng
chỗ đứng của mình để thu lợi… Tác phẩm trong một chừng mực nào đó đã phản
ánh được thực trạng khá đau đớn vẫn còn diễn ra trong đời sống tinh thần của một
số làng quê nông thôn.”, tác giả bài viết cũng cho rằng:“Cái làm nên sức hấp dẫn
14
của Ma làng là ở tấm lòng của tác giả, ở cái nhìn xã hội vừa nghiêm khắc vừa hiền
lành đôn hậu của nhà văn. Đặc biệt cái làm nên sức nặng của ngòi bút Trịnh Thanh
Phong chính là ở chỗ, tuy luôn day dứt, trăn trở trước những số phận, những cảnh
đời, mảnh đời vụn vỡ, những tác giả không bao giờ thỏa hiệp với cái xấu” [49].
Chính điều này chi phối đến giọng điệu, nghệ thuật xây dựng nhân vật. Bên cạnh
nội dung tác giả bài viết cũng đề cập sơ bộ nhất vài nét nghệ thuật tự sự trong Ma
làng như lối trần thuật “Bằng nhiều chi tiết, qua lối trần thuật độc đáo giàu sức
gợi”, giọng điệu “Nghe và cách miêu tả những nhân vật này, thấy được thái độ vừa
trân trọng, cảm thông vừa nghiêm khắc phán xử của nhà văn”, “giọng điệu mỉa mai
bông tếu cũng trở thành một phương thức khá quen thuộc của nhiều cây viết”, kết
cấu tác phẩm của Trịnh Thanh Phong được nhận xét “Trịnh Thanh Phong có được
một phần kết luận hợp lý”… Tuy đây là những đánh giá rất sơ lược về nghệ thuật
trong Ma làng nhưng nó cũng đã gợi ý cho chúng tôi trong khi tìm hiểu những
phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Trịnh Thanh Phong.
Triệu Đăng Khoa trong bài: Hỏi chuyện nhà văn tác giả “Ma làng” Báo
Nông nghiệp nông thôn số tháng 9 năm 2008: Khẳng định sức hấp dẫn của tác
phẩm “Ma làng” với mọi thế hệ người đọc. Sức hấp dẫn mà tác phẩm Ma làng có
được do nội dung mà nó phản ánh đó chính là những mưu mô toan tính, những biến
thái tinh vi của bọn phú hào mới mang tư duy của người nông dân. Cùng với đó là
cách xây dựng nhân vật cũng như tấm lòng của nhà văn đối với người nông dân.
Trung Trung Đỉnh trong bài: Tiểu thuyết ma làng và những thói tục mới ở
làng quê trên báo văn nghệ trẻ số tháng 3/2003 đã đề cập khá rõ nét về nội dung
cũng như những mâu thuẫn được đề cập đến trong tác phẩm Ma làng. Tác giả bài
viết khẳng định nhà văn Trịnh Thanh phong đã viết về nông thôn Việt Nam thời
hiện đại với những thói tục xưa cũ được cải biến thành thói tục thời nay. Đó là
“những thói tục mâm trên mâm dưới, họ hàng chú bác anh em cô dì giằng dịt lôi
kéo nhau vào việc làng, việc nước… bọn phú hào mới của làng xã tranh thủ đục
nước béo cò, xâu xé nhau bằng những chức vụ…” mâu thuẫn được phản ánh trong
cuốn sách là : “một bên là thân phận những người nông dân ngàn đời nay vẫn chưa
15
ra khỏi lũy tre làng… một bên là bọn quan chức dùng mọi thủ đoạn mưu mô chước
quỷ nắm các chức quyền trong làng ngoài xã”. Đây cũng là nội dung bài viết Tiểu
thuyết “Ma làng”- Bức tranh quê trước ngày đổi mới của tác giả Minh Hòa trên báo
Tuyên Quang số ra ngày 28 tháng 9 năm 2007.
Nhìn chung, mỗi công trình, bài viết đề cập, đánh giá ở những khía cạnh, góc độ
khác nhau, nhưng đa số đều thống nhất khẳng định giá trị từng tác phẩm. Từ những
ý kiến, những bài viết về tác phẩm, chúng tôi cảm nhận được sự thành công của cả
ba tác giả và sự đóng góp to lớn của họ cả về phương diện nội dung và phương diện
nghệ thuật, mở ra một hướng tiếp cận mới, cách nhìn mới về hiện thực nông thôn
thời kỳ hội nhập.
Xung quanh đề tài này còn có 1 số công trình nghiên cứu khoa học: khóa
luận tốt nghiệp của sinh viên, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Tuy nhiên, về việc
nghiên cứu ba tác phẩm này, chúng tôi nhận thấy rằng trong những bài nghiên cứu
và những ý kiến trên mới mang tính chất gợi mở, chưa mang tính chuyên sâu,
chuyên biệt về đề tài nông thôn thời kì đổi mới dưới sự so sánh, đối chiếu giữa các
tác phẩm nói chung và giữa ba tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn
Khắc Trường) , Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Dòng sông mía (Đào Thắng) nói
riêng. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi sẽ cố gắng để có
một cái nhìn sâu sắc và cụ thể hơn về đề tài nông thôn qua ba tiểu thuyết này, đồng
thời cho thấy sự tìm tòi của ba tác giả cũng là sự đóng góp của họ về phương diện
đề tài và thể loại.
3. Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn đề tài Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn học Việt Nam sau
năm 1986 (Qua ba tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường),
Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Dòng sông mía (Đào Thắng)), luận văn nhằm mục
đích tìm hiểu diện mạo nông thôn trong thời kì đổi mới, đồng thời phát hiện những
đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật của ba tác phẩm trên nói riêng và trong
văn xuôi Việt Nam viết về đề tài nông thôn trong giai đoạn này nói chung. Từ đó sẽ
16
thấy được những đóng góp quan trọng của những sáng tác viết về đề tài nông thôn
đối với quá trình vận động và đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau 1986.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi trong đề tài này là những vấn đề
về nội dung và nghệ thuật trong ba tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma
(Nguyễn Khắc Trường), Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Dòng sông mía (Đào
Thắng). Tuy thời điểm sáng tác của mỗi tác giả không trùng lặp, nhưng tác phẩm
của họ lại gặp nhau ở ý tưởng tái hiện lại gương mặt nông thôn một thời đã qua với
những cái “có thật”. Qua đó thế hệ sau có thể biết thêm về làng quê xưa và nay có
đặc điểm gì đã biến chuyển, có đặc trưng gì vẫn bảo tồn bền vững trở thành hồn cốt
của nông thôn Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiếp cận đề tài xuất phát từ đặc điểm tiểu thuyết viết về nông thôn, chúng tôi
tập trung khai thác bức tranh hiện thực và các kiểu nhân vật được thể hiện trong
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Ma làng của Trịnh Thanh
Phong và Dòng sông mía của Đào Thắng.
Ngoài việc tập trung khảo sát ba tác phẩm trên chúng tôi còn tiến hành khảo
sát một số sáng tác về nông thôn trong văn học Việt Nam trước và sau năm 1986
viết về đề tài nông để có cái nhìn so sánh, đối chiếu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, luận văn vận
dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử - xã hội
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- phương pháp so sánh, đối chiếu
17
- Phương pháp nghiên cứu loại hình
6. Cấu trúc đề tài
Trong đề tài này, ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chúng
tôi chia làm 3 chương:
Chương 1: Tiểu thuyết viết về nông thôn trong bối cảnh văn học thời kì đổi
mới và sự xuất hiện của Nguyễn Khắc Trường, Trịnh Thanh Phong, Đào Thắng.
Chương 2: Hiện thực nông thôn và các kiểu nhân vật trong Mảnh đất lắm
người nhiều ma, Ma làng, Dòng sông mía.
Chương 3: Tiểu thuyết viết về nông thôn nhìn từ góc độ phương thức biểu
hiện.
18
CHƢƠNG 1:
TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG BỐI CẢNH VĂN
HỌC THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN KHẮC
TRƢỜNG, TRỊNH THANH PHONG, ĐÀO THẮNG
1.1 Đề tài nông thôn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
1.1.1 Văn xuôi viết về nông thôn trước đổi mới (1986)
Thời kỳ 1930- 1945: Xã hội Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này đã có sự
biến đổi to lớn, từ chế độ thuần nhất phong kiến đã chuyển sang chế độ thực dân
nửa phong kiến. Nghĩa là có sự thay đổi trong cơ cấu xã hội, cơ cấu kinh tế và cơ
cấu giai cấp, nhưng riêng ở nông thôn Việt Nam thì nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, quan hệ sản xuất phong kiến gắn liền với sự tồn tại của giai cấp địa chủ và
nông dân về cơ bản vẫn là như trước. Điều đáng nói là sự áp bức giai cấp ở đây (cụ
thể giữa địa chủ và nông dân), ngày một gay gắt hơn, căng thẳng hơn. Bức tranh
này chúng ta có thể nhận thấy rõ qua nhiều tác phẩm kí sự, truyện ngắn, đặc biệt là
những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của các tác giả tiêu biểu thuộc trào lưu hiện thực
phê phán như : Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan); Tắt đèn (Ngô Tát Tố); Chí
Phèo (Nam Cao)….Tập hợp lại, đó là một toàn cảnh tiêu biểu, bao quát được thực
trạng của nông thôn Việt Nam xảy ra trước Cách mạnh tháng Tám 1945.
Bức tranh toàn cảnh nông thôn của các nhà văn hiện thực như những đàn
chim én báo hiệu mùa xuân cách mạng sắp tới gần. Ở những tác phẩm này, ngoàigiá
trị hiện thực còn chứa đựng giá trị nhân đạo hết sức sâu sắc. Đó là những đòi hỏi về
quyền sống, quyền làm người. Đó là sự quan tâm đến số phận của những kiếp người
bé nhỏ, đầy bất hạnh. Đó là ý thức phản kháng của nhân vật khi bị dồn vào những
bước đường không còn lối thoát.
Cách mạng tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Với thắng lợi này, nước ta từ một nước thuộc địa đã trở thành một nước độc lập
dưới chế độ dân chủ cộng hoà, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người
dân độc lập, tự do, làm chủ nước nhà. Và một điều mà chúng ta dễ nhận thấy là bộ
19
mặt của nông thôn Việt Nam đã có những thay đổi to lớn. Thành công của cuộc
Cách mạng đã đem đến cho người nông dân cuộc sống mới, sinh mệnh mới. Giờ
đây ruộng đất đã được trao tận tay với quyền làm chủ và họ bắt đầu quá trình xây
dựng và kiến thiết cuộc sống mới. Nhưng cũng trong giai đoạn này, người nông dân
lại phải tiếp tục tham gia vào cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp, giải phóng
đất nước. Chính vì vậy, trong những năm này, văn xuôi viết về nông thôn hầu như
không tách riêng ra thành một mảnh rõ rệt với văn xuôi nói chung. Đề tài nông thôn
cũng nằm trong đề tài kháng chiến, hoà quện trong một cái tên chung là văn xuôi
kháng chiến.
Các làng quê giờ đây trở thành hậu phương vững chắc, tiếp sức cho tiền
tuyến, đảm bảo thắng lợi cả về vật chất lẫn tinh thần. Những bà mẹ hậu phương trở
thành mẹ chung, sẵn sàng chở che, nuôi dấu chiến sĩ bồ đội; những người phụ nữ-
người vợ đảm đang vừa lo tăng gia sản xuất, vừa lo chiến đấu; những lớp trai trẻ
bừng bừng khí thế ra trận Tất cả những gương sáng đó đều có mặt trong một thể
loại văn học mang đậm tính thời sự- đó là thể ký. Có thể kể đến Truyện và ký (Trần
Đăng); Nhật ký ở rừng (Nam Cao); Ký sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng); Tuỳ bút
kháng chiến (Nguyễn Tuân) Đây đều là những tác phẩm tiêu biểu của thể loại ký
trong giai đoạn văn học này.
Ngoài ra trong giai đoạn văn học này, văn xuôi lấy bối cảnh trực tiếp là nông
thôn còn có các truyện ngắn Thư nhà (Hồ Phương); Làng (Kim Lân); Con Trâu
(Nguyễn Văn Bổng) đều là những sáng tác tiêu biểu có giá trị.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được
giải phóng, Đảng ta đã chủ trương chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trước khi bắt đầu những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc phải
bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế-xã hội do
bị tàn phá nặng nề. Một số vấn đề lớn được đặt ra là làm sao đáp ứng được những
nhu cầu của con người sau những năm tháng chiến tranh, đồng thời vẫn phải củng
cố, giữ vững mục tiêu của Đảng của cách mạng.
20
Nông thôn Việt Nam trong giai đoạn này nổi bật lên hai sự kiện quan trọng:
đó là Cải cách ruộng đất và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp. Hai sự kiện này
thể hiện rất rõ trong văn học. Văn xuôi viết về nông thôn trong cải cách ruộng đất
có các sáng tác: Bếp đỏ lửa (Nguyễn Văn Bổng); Nông dân với địa chủ (Nguyễn
Công Hoan); Ông lão hàng xóm (Kim Lân) Đây là những tác phẩm của các tác giả
có quá trình và có thành tựu sáng tác từ trước cách mạng.
Văn xuôi viết về phong trào hợp tác xã nông nghiệp cũng có những sáng tác
tiêu biểu của các tác giả như: Đào Vũ với Cái sân gạch và Vụ lúa chiêm; Vũ Thị
Thường với Cái hom giỏ và Gánh vác; Nguyên Khải với Tầm nhìn xa, Mùa lạc,
Hãy đi xa hơn nữa, Gia đình lớn; Nguyễn Kiên với Đồng tháng năm và Vụ mùa
chưa gặt…
Thời kì 1964 – 1975: Giai đoạn này cả nước bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Nông thôn vừa là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam tiền tuyến vừa
sẵn sàng chiến đấu giữ vững nền độc lập, bởi vậy văn xuôi viết về nông thôn trong
giai đoạn chống Mỹ ít nhiều mang âm điệu sử thi anh hùng. Đây là thời kỳ văn xuôi
viết về nông thôn có được nhiều thành tựu cả về tác phẩm lẫn đội ngũ sáng tác, có
thể kể đến: Nguyễn Thị Ngọc Tú với Đất lành, Buổi sáng; Chu Văn với Bão Biển,
Đất mặn; Nguyễn Khải với Chủ tịch huyện; Nguyễn Minh Châu với Cửa
sông…Nhìn chung, qua các tác phẩm trên đã phản ánh được hiện thực nông thôn
sống động với nhiều sự kiện và chi tiết tiêu biểu, nêu được những tấm gương sáng
về nhiệt tình cách mạng và khí thế chống Mỹ cứu nước của hậu phương. Đặc biệt
qua các tác phẩm của Chu Văn (Bảo biển) hay Nguyễn Khải (Chủ tịch huyện) đã có
cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về người nông dân.
Văn xuôi viết về nông thôn giai đoạn 1975 – 1985 bắt đầu chuyển động với
các tiểu thuyết Nhìn dưới mặt trời (Nguyễn Kiên); Bí thư cấp huyện (Đào Vũ). Đây
là hai tác giả có quá trình viết về nông thôn từ rất sớm, nhưng những vấn đề được
lựa chọn đưa vào thời điểm đó thực sự là những vấn đề xã hội bức thiết: đó là hiện
tượng ô dù, tham ô được nhắc tới để mọi người cùng nhận thức và tìm cách loại bỏ
21
(Nhìn dưới mặt trời); đó còn là nỗi khổ cực của người nông dân do cách thức làm
ăn ở hợp tác cũ khi chưa có khoán được đề cập khá quyết liệt (Bí thư cấp huyện ).
1.1.2 Tiểu thuyết viết về nông thôn sau đổi mới (1986)
Năm 1986 được xem là mốc lớn đánh dấu sự đổi mới toàn diện của đất nước.
Diện mạo của đất nước dần dần được thay đổi, dần dần được thoát khỏi thời kì
khủng hoảng kinh tế, xã hội chuyển sang thời kì phát triển mới. Tuy nhiên, thời cơ
bao giờ cũng đi đôi với thách thức. Khi đất nước tiến hành đổi mới với mong muốn
Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, cũng có nghĩa là sự giao lưu văn
hóa quốc tế chưa bao giờ diễn ra sâu rộng như lúc này. Cùng một lúc nhiều luồng
văn hóa, tư tưởng của nước ngoài lại xâm nhập vào nước ta. Trong quá trình giao
lưu, tiếp xúc, chúng ta vừa nhận những yếu tố văn hóa tích cực vừa tiếp nhận những
yếu tố tiêu cực ngoài ý muốn.
Địa bàn nông thôn trong chiến tranh là hậu phương lớn, vững chắc, giờ đây
trước cơn lốc xoáy của cơ chế thị trường, của quá trình đổi mới và hội nhập, nhất là
khi Đảng ta đang quyết tâm đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì những mục tiêu cao cả của dân tộc thì địa bàn ấy ngày càng bị thu hẹp.
Cùng với nó là các cơ tầng văn hóa, không gian văn hóa vốn được lưu giữ từ bao
đời nay có nguy cơ bị đảo lộn, xói mòn. Người nông dân không còn thuần túy làm
nông nghiệp và sống ở nông thôn như giai đoạn trước. Nhiều người rơi vào bi kịch
thương tâm do vô tình hoặc do nhận thức. Nhiều người thất nghiệp ngay chính ở
mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình,…cùng bao hệ lụy khác. Đó cũng chính là
những trăn trở, băn khoăn của các nhà văn về một vùng đất tưởng như chỉ có sự tĩnh
lặng, yên bình.
Thực tế cuộc sống, xã hội thay đổi đã dẫn đến sự thay đổi của tư duy văn
học, bởi văn học nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Khi nhu
cầu nhận thức và thưởng thức nghệ thuật nói chung, và văn học nói riêng đã thay
đổi buộc người viết cũng phải thay đổi. Xu hướng dân chủ hóa đã làm cho các nhà
văn có điều kiện bộc lộ hết khả năng, cá tính sáng tạo của mình, đồng thời tiếp thu
22
và vận dụng những yếu tố mới mẻ của văn học nhân loại. Điều đó sẽ có ảnh hưởng
rất quan trọng trong việc xây dựng nền văn học Việt Nam đang trong quỹ đạo phát
triển và hội nhập cùng với văn học của thế giới.
Bối cảnh xã hội khiến ý thức nghệ thuật của nhiều cây bút có sự biến chuyển
rõ rệt. Nhiều nhà văn đã không còn coi trọng miêu tả sự kiện lịch sử là mục đích của
nghệ thuật mà coi trọng hơn đến hiện thực con người.
Hiện thực đời sống của xã hội đã trở thành mảnh đất đầy tiềm năng cho sự
phát triển và sáng tạo thể loại tiểu thuyết. “Nếu thừa nhận cảm hứng về con người
với những bước thăng trầm của số phận là đặc trưng nổi bật của tiểu thuyết thì rõ
ràng, tiểu thuyết thời kì đổi mới đã khơi đúng, khơi sâu vào mạch chính của thể
loại”. [51; 176]. Nửa sau thập niên 80, thập niên 90 của thế kỷ XX, đời sống văn
học xuất hiện thêm một loạt tiểu thuyết “làm cho văn đàn sôi động và sóng gió”.
Tác giả Bùi Việt Thắng thống kê, sau năm 1975 “đã xuất hiện hàng loạt nhà văn
chuyên tâm viết tiểu thuyết và có nhiều thành công đáng kể như: Chu Lai (11 tiểu
thuyết), Lê Lựu (7 tiểu thuyết), Nguyễn Khải (7 tiểu thuyết), Ma Văn Kháng (8 tiểu
thuyết)…” [51; 183].
Khi chiến tranh đã lùi xa, con người bắt đầu làm quen với cuộc sống đời
thường, thì một số nhà văn vẫn hồi ức về chiến tranh, về những năm tháng ác liệt đã
qua. Đó là Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh (1991), Chu Lai với Ăn mày dĩ vãng
(1992), Nguyễn Quang Lập với Những mảnh đời đen trắng… Song, bộ mặt chiến
tranh trong đó đã khác trước, khi các nhà văn đã dám viết về những mất mát đau
thương đầy bi lụy đằng sau mỗi chiến thắng, viết về những khao khát, những suy
nghĩ thực của những người chiến sĩ trong chiến đấu, có thể là những toan tính,
những sợ hãi và có cả những tình yêu mãnh liệt… Đó không còn là cuộc chiến được
“tô hồng” đầy lý tưởng của giai đoạn trước mà là quá khứ được tái hiện lại trong
quan niệm và nhận thức mới.
Sau chiến tranh, cuộc sống hòa bình bắt đầu với bao vấn đề mới mẻ nhưng
cũng đầy bức xúc thời hậu chiến. Điều này đã mở ra một hướng đi mới cho văn học.
23
Phạm vi hiện thực được mở ra toàn diện hơn và cũng chân thực hơn. Từ hiện thực
chủ yếu được giới hạn trong những vấn đề cơ bản của đời sống chính trị xã hội, văn
học đã tìm đến một hiện thực rộng lớn hơn của đời sống nhân sinh thế sự. Những
mảng đề tài phong phú từ hiện thực chính trị tới cuộc sống đời tư, từ sinh mệnh lớn
lao của cả cộng đồng tới số phận từng cá nhân cùng bao vấn đề bề bộn, phức tạp
của đời thường đã đem lại cho văn học thời hậu chiến một gương mặt mới mẻ, chân
thực, đậm chất nhân đạo và thật sự gần gũi với con người. Giờ đây, sự nhận thức về
con người cá nhân, về mối quan hệ giữa người với người trong cộng đồng trở thành
tâm điểm của sự chú ý, đó cũng là điểm nhìn mới cho sự nhận thức hiện thực trong
văn học. Thời gian này có những tác phẩm nổi bật như: Một cõi nhân gian bé tí,
Cha và con (Nguyễn Khải), Ngôi nhà trên cát (Dương Thu Hương), Mảnh đất lắm
người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường),
Góp phần làm nên sự phong phú, sôi động của văn đàn thời kì đổi mới là
hàng loạt tiểu thuyết viết về nông thôn – một đề tài đã trở thành truyền thống lớn
của một nước nông nghiệp như nước ta. Xin kể ra đây tên của rất nhiều tác giả và
tác phẩm: Lê Lựu với Thời xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy
sông (1994), Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma (1990),
Dương Hướng với Bến không chồng (1990), Dưới chín tầng trời (2007), Trịnh
Thanh Phong với Ma làng (2002), Hoàng Minh Tường với bộ tiểu thuyết Gia phả
của đất, gồm: Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão, Ngư phủ, và tiểu thuyết Thời của
thánh thần, Đào Thắng với Dòng sông mía (2004), Phạm Ngọc Tiến với Những
trận gió người (Sau đổi thành Gió làng Kình)…
Nhìn vào sự thống kê mang tính tương đối ở trên có thể thấy đề tài nông thôn
là đề tài có sức hấp dẫn đối với nhiều cây bút và thu được nhiều thành tựu hơn cả
trong giai đoạn này. Nhà văn, nhà biên kịch Phạm Ngọc Tiến đã công nhận rằng:
“chất dân dã của người nông dân đã tạo nên diện mạo nhân vật có tính cách khác
biệt, điển hình, sinh sắc. Hình thái sinh hoạt nông thôn dễ đưa vào tác phẩm. Đề tài
nông thôn chứa đựng nhiều vấn đề trong đó như nhân sinh, đổi đời, băng hoại đạo
24
đức…”. [68]. Vấn đề không mới, song giá trị và sức hấp dẫn nằm trong sự khám
phá của mỗi nhà văn.
Sự nổi trội của đề tài nông thôn không chỉ được đánh giá bằng tiêu chí số
lượng mà còn khẳng định bằng chất lượng nghệ thuật. Giá trị thực tế đã được khẳng
định với khá nhiều tác phẩm đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn. Mảnh đất lắm
người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường đoạt giải năm 1991, Dòng sông mía (Đào
Thắng) đoạt giải năm 2004 và trở thành hiện tượng văn học đáng chú ý nhất năm.
Ma làng của Trịnh Thanh Phong tuy không giành được giải thưởng của Hội nhà văn
nhưng đã đạt giải nhì của Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật
Việt Nam năm 2002, và được chuyển thể thành bộ phim cùng tên, khi công chiếu
được nhiều khán giả đón nhận nồng nhiệt.
Sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong sáng tạo tiểu thuyết nói chung và trong
tiểu thuyết về đề tài nông thôn từ sau năm 1986 thể hiện trên nhiều phương diện: đề
tài, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ. Đề tài chiến tranh lịch sử, dân tộc của giai đoạn
trước được thay thế bằng đề tài thế sự, đời tư. Văn học hiện thực giai đoạn 1930 –
1945 tái hiện bức tranh hiện thực đời sống tối tăm, ngột ngạt bởi sự tồn tại của
những mâu thuẫn mang tính thời đại, ở đó, người nông dân sống thân phận nghèo
khổ của con sâu cái kiến, không có quyền tự chủ trong lao động và trong sinh hoạt
bình thường. Văn học viết về thời kì đất nước xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, với mục tiêu được đặt lên hàng đầu là khích lệ niềm tin vào chế độ mới tốt
đẹp, các nhà văn tập trung tái hiện một gương mặt nông thôn trong hăng say lao
động và sản xuất. Và đến thời kì đổi mới, tiểu thuyết viết về nông thôn đã tập trung
tái hiện một bức tranh hiện thực đời sống, xã hội nơi thôn quê đầy biến động trong
việc thực thi những chính sách của nhà nước: Cải cách ruộng đất, công cuộc sửa sai,
chủ trương đưa nông dân vào hợp tác xã, thời kì bao cấp,… Trải qua mỗi biến động,
làng quê Việt Nam không còn không gian bình yên từ ngàn đời xưa mà trở nên rối
ren, náo động. Cái mới chưa được xây dựng thì cái cũ vẫn chưa thể xóa bỏ. Tiểu
thuyết thời kì này không tập trung vào mâu thuẫn giai cấp như giai đoạn trước năm
1945 mà đã chỉ ra rất nhiều mâu thuẫn khác nảy sinh trong xã hội nông thôn: mâu
25
thuẫn dòng họ, mâu thuẫn giữa các thế hệ, thậm chí là mâu thuẫn ngay trong chính
bản thân mỗi con người. Và trong mỗi trang tiểu thuyết, người đọc không chỉ thấy
niềm tin yêu và quá đỗi lạc quan của nhà văn giai đoạn trước đó mà còn đầy ắp sự
trăn trở, suy nghĩ về hiện thực đời sống nhiều phức tạp.
Trên cái nền hiện thực cuộc sống hàng ngày ấy, các nhà văn đổi mới còn
quan tâm đến vấn đề về thân phận, cuộc đời những con người; chỉ ra những “bi
kịch” mang tính nhân sinh. Nguyễn Khải viết Mùa lạc vào năm 1960 – tác phẩm
nằm trong cảm hứng lạc quan chung của văn học đương thời vốn tràn ngập tin yêu
vào cuộc sống và con người mới. Nhân vật trung tâm tác phẩm – cô Đào – được xây
dựng bằng chính niềm lạc quan và có phần lý tưởng về cuộc đời của tác giả. Trước
khi đến với “miền đất mới”, cuộc sống của người phụ nữ 28 tuổi này đầy bất hạnh
khi bị cơn lốc cuộc đời càn quét mất hết chồng con, nhà cửa, nhan sắc…Và cánh
cửa cuộc đời dường như đóng chặt lại với con người ấy. Vậy mà, nông trường Điện
Biên với cuộc sống tươi vui, nhân ái và tình yêu thương của con người đã đánh thức
niềm vui và cảm xúc trong chị. Và chính việc tái hiện cuộc đời, số phận của nhân
vật Đào là một cách để ca ngợi cuộc sống mới, tương lai tốt đẹp của dân tộc, của đất
nước. Các nhà văn đổi mới không có được niềm lạc quan toàn vẹn ấy. Họ nhìn thấy
và phản ảnh về con người và cuộc sống trong cái nhìn chân thực, từ đó phát hiện
không ít những bi kịch xót xa. Thân phận của Giang Minh Sài trong Thời xa vắng
(Lê Lựu) là thân phận mang tính bi kịch khi cả cuộc đời phải sống vì người khác,
không dám vượt thoát những quy định truyền thống để nắm giữ lấy tình yêu, hạnh
phúc thực sự cho cuộc đời mình.
Sự đổi mới tư duy tiểu thuyết thể hiện rõ ràng qua phương diện cốt truyện.
“Cốt truyện là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mỗi quan hệ và
phát triển tính cách nhân vật . Tiểu thuyết thời kì đổi mới phong phú hơn tiểu thuyết
trước đó về cách xây dựng cốt truyện. Một số tiểu thuyết (như các tiểu thuyết hồi
ức chiến tranh) lựa chọn cốt truyện giàu tâm trạng, thì các nhà văn viết về nông thôn
lựa chọn cốt truyện sự kiện giàu kịch tính. Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn
Khắc Trường), Thời xa vắng (Lê Lựu), Dòng sông mía (Đào Thắng), Ma làng