ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ HƢƠNG THỦY
TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(QUA SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, PHAN THỊ
VÀNG ANH, LÝ LAN)
LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC
Mã số: 5 04 33
Người hướng dẫn: TS. Tôn Phƣơng Lan
Hà nội - 2004
1
MỤC LỤC
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU
3
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Lịch sử vấn đề
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
20
4. Phương pháp nghiên cứu
20
5. Đóng góp của luận văn
21
6. Cấu trúc của luận văn
21
PHẦN NỘI DUNG
22
CHƯƠNG I
TRUYỆN NGẮN NHỮNG NĂM SAU CHIẾN TRANH VÀ TRUYỆN NGẮN
NỮ THỜI KÌ ĐỔI MỚI
22
1.1. Truyện ngắn những năm sau chiến tranh
22
1.2. Truyện ngắn nữ trong thời kì đổi mới
28
1.2.1. Truyện ngắn nữ trước thời kì đổi mới
29
1.2.2. Truyện ngắn nữ trong thời kì đổi mới
32
CHƯƠNG II
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, PHAN THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN
40
2.1. Cảm hứng nghệ thuật
40
2.1.1. Cảm hứng ngợi ca
41
2.1.2. Cảm hứng bi kịch
45
2.1.2.1. Bi kịch do lịch sử
45
2.1.2.2. Bi kịch tình yêu
50
2.1.2.3. Bi kịch hôn nhân và gia đình
54
2.1.3. Cảm hứng chiêm nghiệm, triết lí
61
2.1.3.1. Triết lí về tình yêu
61
2.1.3.2. Triết lí về nhân sinh
63
2
2.1.3.3. Triết lí về giới nữ
66
2.2. Thế giới nhân vật
68
2.2.1. Nhân vật tính cách
69
2.2.2. Nhân vật cô đơn
73
CHƯƠNG III
NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, PHAN
THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN
78
3.1. Cốt truyện
78
3.1.1. Cốt truyện truyền thống
79
3.1.2. Cốt truyện tâm lí
82
3.2. Tình huống
87
3.2.1. Tình huống tâm lí
88
3.2.2. Tình huống tự nhận thức
90
3.2.3. Tình huống mang tính kịch
92
3.3. Ngôn từ nghệ thuật
94
3.3.1. Ngôn ngữ hiện thực đời thường
94
3.3.3. Ngôn ngữ mang sắc thái nữ
96
3.4. Giọng điệu trần thuật
100
3.4.1. Giọng giãi bày, tâm sự
100
3.4.2. Giọng khinh bạc, xót xa
102
3.4.3. Giọng hài hước, châm biếm
106
3.4.4. Giọng trữ tình, đằm thắm và quyết liệt
108
PHẦN KẾT LUẬN
111
DANH MỤC TÁC PHẨM TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ, PHAN
THỊ VÀNG ANH, Y BAN, LÝ LAN
114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
115
PHỤ LỤC: QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN NỮ VỀ NGHỀ VĂN
124
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Cuộc sống với tư cách là đối tượng thẩm mĩ bản thân nó luôn nằm
trong thế vận động, biến đổi không ngừng. Điều đó đòi hỏi văn học phải có
hình thức linh hoạt để theo sát bước ngoặt của sự chuyển đổi. Thế kỉ XX, cùng
với quá trình hiện đại hóa văn học, truyện ngắn đã có những biến chuyển rõ rệt
theo từng thời kì trở thành một bộ phận quan trọng làm nên diện mạo của văn
học dân tộc. Sau 1975, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, cùng với những cách tân
về nội dung và hình thức, sự xuất hiện đông đảo các cây bút nữ đã tạo nên
những dấu ấn trong đời sống văn học đương đại. Tìm hiểu truyện ngắn nữ thời
kì đổi mới trước hết là tiếp cận với sự vận động của thể loại trong tiến trình
vận động của lịch sử, cũng là một cách tiếp cận với đời sống văn học hôm
nay.
1.2. Thời kì này có sự hình thành của một đội ngũ viết mới vừa trẻ về
tuổi đời lẫn tuổi nghề và đã có được thành tựu. Cùng với các tác giả trưởng
thành trong hai cuộc kháng chiến, sự có mặt của những cây bút truyện ngắn
này khiến cho văn học có được sắc thái mới khi phản ánh cuộc sống đương đại
với những biến chuyển sâu sắc. Từ những năm cuối của thập kỉ 80 và trong
suốt cả thập kỉ 90, trên văn đàn đã xuất hiện đông đảo các cây bút nữ. Không
phải ngẫu nhiên mà nhiều người coi đây là thời kỳ “thăng hoa” của truyện
ngắn nữ và đã nhiều lần nhắc đến khái niệm “âm thịnh”. Sự có mặt đông đảo
các cây bút nữ trong đời sống văn học có thể coi là một hiện tượng đáng
mừng, đáng được khích lệ.
1.3. Trong số những nhà văn nữ chuyên viết truyện ngắn thì Nguyễn
Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan theo ý chúng tôi là những
cây bút tiêu biểu gây được sự chú ý của người đọc. Độc giả ghi nhận những
thành tựu bước đầu của họ. Sự liên tục trong việc cho ra đời các tác phẩm và
đoạt giải thưởng cao trong các cuộc thi truyện ngắn đã chứng tỏ khả năng và
4
vị trí của họ. Các tác giả này có nhiều tập truyện ngắn xuất bản, có dấu ấn
phong cách riêng. Ngoài các tập truyện ngắn in riêng, tác phẩm của họ đã
được đăng tải trên các báo và tạp chí chứng tỏ sự hiện diện thường xuyên và
tương đối liên tục trong đời sống văn học trong vòng hơn một thập niên trở lại
đây.
Sự phác vẽ “bộ tứ” này sẽ là chưa thật đầy đủ để dựng lại diện mạo của
truyện ngắn nữ bởi họ chỉ là bốn trong số rất nhiều những cây bút nữ đang
được chú ý. Bên cạnh những cây bút “đàn chị” như Lê Minh Khuê, Dạ Ngân,
Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Phạm Sông Hồng, Phạm Thị Minh Thư là sự
xuất hiện ấn tượng của nhiều nữ cây bút truyện ngắn trẻ như Trần Thanh Hà,
Nguyễn Thị Châu Giang, Phong Điệp, Dương Nữ Khánh Thương và gần đây
nhất là Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy. Tuy nhiên trong phạm vi một luận
văn thạc sỹ, chúng tôi lựa chọn bốn cây bút nữ trên đây vì cả bốn cây bút này
không có sự chênh lệch quá xa về độ tuổi nên đã bộc lộ những nét tương đồng
ở cách tiếp cận những vấn đề của đời sống. Hơn nữa, bốn tác giả vừa có sự
gặp gỡ, có những mối quan tâm chung trong cách nhìn nhận hiện thực, lại có
những đặc điểm mang tính cá biệt mà đặt trong đời sống văn học, mỗi người
đã tự tìm cho mình một lối đi riêng, một cách thể hiện dấu ấn sáng tạo. Qua
việc khảo sát truyện ngắn của bốn tác giả trên chúng tôi muốn đi tìm những
đặc điểm chung của truyện ngắn nữ, đồng thời có thể khám phá những dấu ấn
cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật của họ, từ đó có một cách hình dung về
truyện ngắn những năm cuối thế kỷ XX.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRUYỆN NGẮN SAU 1975
Với hướng nghiên cứu là truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì đổi
mới, chúng tôi xin bắt đầu bằng việc khảo sát tình hình nghiên cứu truyện
ngắn sau 1975, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, khi đời sống văn học có những
chuyển động sâu sắc.
5
Từ sau bước ngoặt lịch sử 1975, đời sống văn học đã có những biến
chuyển mạnh mẽ. Cùng với các thể loại khác, truyện ngắn đã có sự chuyển
động và góp phần làm nên diện mạo mới cho văn xuôi giai đoạn này. Khảo sát
truyện ngắn thời kì đổi mới, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận với xu hướng đổi
mới cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Nhiều cuộc tranh luận xung quanh các vấn
đề của truyện ngắn, các tác phẩm cụ thể đã diễn ra tạo nên một đời sống văn
học sôi động. Nhiều công trình nghiên cứu về sự vận động của truyện ngắn
sau 1975 đã giúp cho người đọc thấy được những bước đi của thể loại trong
tiến trình văn học dân tộc.
Ngoài các công trình chuyên biệt về thể loại truyện ngắn như luận án
tiến sĩ của Lê Thị Hường với đề tài Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1975 - 1995 (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
1995); Bình luận truyện ngắn của Bùi Việt Thắng (Nxb Văn học,1999) đã có
rất nhiều bài viết đề cập đến nhiều vấn đề của truyện ngắn in trên các báo và
tạp chí chuyên ngành. Các bài viết này ở nhiều góc độ khác nhau đã đề cập
đến thành tựu của truyện ngắn, những đóng góp và thách thức của thể loại
trong đời sống văn học đương đại.
Quan tâm tới sự vận động của các thể loại văn xuôi thời kì này, nhiều
nhà nghiên cứu đã tìm hiểu sự vận động của truyện ngắn trong dòng chảy của
văn học những thập niên cuối thế kỷ XX. Đa phần các bài viết đều có đồng
quan điểm trong việc ghi nhận vị trí quan trọng của truyện ngắn đối với quá
trình đổi mới văn học đương đại. Lý Hoài Thu trong bài viết Sự vận động của
các thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới đã khẳng định đây là thời
kì lên ngôi của truyện ngắn. Cắt nghĩa về điều này, bà cho rằng: “Trong nhịp
độ của đời sống công nghiệp hiện đại, dưới sức ép của các phương tiện nghe
nhìn, truyện ngắn đã phát huy được ưu thế của mình một cách hiệu quả” [112].
Nhà nghiên cứu Bích Thu khảo sát những thành tựu của truyện ngắn sau 1975
từ các phương diện cốt truyện, kết cấu, quan niệm nghệ thuật về con người,
6
ngôn ngữ trần thuật đã đưa ra một cái nhìn tương đối toàn diện về thể loại này.
([108] - Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975).
Bên cạnh các bài viết, các công trình mang tính tổng quan (chẳng hạn
như luận án tiến sỹ của Nguyễn Thị Bình với đề tài Những đổi mới của văn
xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 [7], luận án tiến sỹ của Lê Thị Hường
Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1995
[36]; Mấy nhận xét về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Bùi Việt Thắng [102])
là sự khảo sát quá trình phát triển của thể loại ở từng giai đoạn, từng thời kì và
thậm chí là trong từng năm. Nhìn lại văn xuôi 1992, nhà nghiên cứu Mai
Hương nhận thấy: “Năm 1992, truyện ngắn vẫn đang là thể loại văn xuôi thu
hút được sự quan tâm của cả người viết và công chúng” [35]. Trong khi khảo
sát văn xuôi 1998, Bích Thu cho rằng năm 1998 vẫn là “năm được mùa của
truyện ngắn” [110]. Theo sát sự vận động của truyện ngắn đương đại, Bùi Việt
Thắng đã nhận diện bước đi của thể loại trong thời gian 5 năm (1995 - 1999)
qua bài viết Một bước đi của truyện ngắn [103]. Ở bài viết này, ông nhấn
mạnh đến sự phong phú về tác phẩm và tác giả trong sự kế tục của các thế hệ
cũng như phát hiện những khuynh hướng tìm tòi thể hiện trong sáng tác truyện
ngắn. Ông đặc biệt nhấn mạnh đến các khuynh hướng phong cách cổ điển,
phong cách trữ tình, phong cách hiện thực, phong cách ảo.
Có thể coi “mảnh đất ươm mầm” các tài năng sáng tạo truyện ngắn là
các cuộc thi truyện ngắn liên tục được tổ chức trên các báo và tạp chí trong
nhiều năm liền. Bên cạnh việc tham dự của các nhà văn là sự quan tâm của các
nhà phê bình. Ngay sau khi các tác phẩm được đăng tải, nhiều nhà phê bình đã
có ý kiến phản hồi tạo nên những hiệu ứng tích cực cho đời sống văn học.
Nhiều bài viết xung quanh vấn đề này đã được đăng tải kịp thời khích lệ tinh
thần sáng tạo của các cây bút: Tản mạn bên lề cuộc thi (Phạm Xuân Nguyên.
Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1993); Những truyện ngắn hay (Lý Hoài
Thu. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 12/1993); Một cuộc thi về người lính, vì
người lính và vì một nền văn học đổi mới, lành mạnh. Báo cáo tổng kết cuộc
7
thi truyện ngắn 1992 - 1994 (Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1994); Truyện
ngắn dự thi 1989 - 1990 - những nhận xét sơ lược đầu tiên (Lê Thành Nghị.
Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1989)
Có thể nói, sự xuất hiện của các cây bút trẻ trong hơn một thập niên gần
đây là một tín hiệu đáng mừng, chứng tỏ sự quan tâm và nhập cuộc vào nhiều
vấn đề của đời sống của người viết trẻ - lớp nhà văn trưởng thành sau chiến
tranh. Khi tìm hiểu sáng tác của lớp nhà văn trẻ này, các nhà nghiên cứu một
mặt khẳng định những đóng góp của họ, mặt khác còn đề cập đến những thách
thức trong sáng tạo nghệ thuật ở họ. Nhà văn Bùi Hiển - một nhà văn dày dạn
kinh nghiệm sáng tác truyện ngắn đã khẳng định những đóng góp đáng kể của
các cây bút trẻ cho sự đổi mới văn xuôi, khẳng định những lợi thế của các nhà
văn trẻ bởi những điều kiện thuận lợi của hoàn cảnh xã hội nhưng đồng thời
ông cũng chỉ ra những khuynh hướng cách tân chưa thực sự mang lại giá trị
nghệ thuật ở các cây bút trẻ này [27]. Tuyết Ngân trong bài viết Thập kỷ 90 và
sự bùng nổ của văn học trẻ [74] đã khẳng định và lý giải về sự bùng nổ của
những giọng điệu mới mẻ trong dòng văn học trẻ ở thập niên 90. Chị đặc biệt
lưu ý đến các cây bút trẻ đang được độc giả chú ý như Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Dương Phương Vinh, Phan Triều Hải, Nguyễn Bình
Phương, Trần Thanh Hà; đề cao sự hăm hở và quyết liệt trong việc trong việc
mổ xẻ những vấn đề của đời sống nhưng cũng không quên cảnh báo các nhà
văn trẻ này về việc khai thác quá liều một số đề tài nhất định hay là sự bắt
chước quá lộ liễu tác phẩm nước ngoài trong nội dung, ý tưởng, thậm chí cả
câu chữ.
Sự có mặt của thể loại truyện cực ngắn (hay còn gọi là truyện ngắn mi
ni - một biến thể của thể loại truyện ngắn) cũng không nằm ngoài sự quan tâm,
nghiên cứu của giới phê bình văn học. Tìm hiểu về truyện ngắn sau 1975, các
nhà nghiên cứu cũng đã chú ý đến sự hiện diện của thể loại truyện cực ngắn
trong đời sống văn học và coi đó như một nhu cầu tất yếu xuất phát từ cả chủ
thể sáng tạo lẫn đối tượng tiếp nhận. Trong nhiều bài viết, các tác giả đã dành
8
sự quan tâm đặc biệt cho thể loại này (Truyện cực ngắn. Đặng Anh Đào [11],
Truyện rất ngắn - tác phẩm nghệ thuật. Nguyên Ngọc [53] ). Trong hai bài
viết về các thể loại văn học đương đại Quá trình văn học đương đại nhìn từ
phương diện thể loại [3], Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học
thời kì đổi mới [112], các tác giả Vũ Tuấn Anh và Lý Hoài Thu đều khẳng
định sức hấp dẫn của thể loại này bởi sự hàm súc, cô đọng của ý tưởng, tính
biểu tượng, sự vận dụng các thủ pháp xung đột.
Truyện ngắn sau 1975, không chỉ là thể loại thu hút sức sáng tạo của
giới sáng tác mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình chuyên và không chuyên. Còn nhiều vấn đề còn có thể tiếp tục tranh
luận, có những ý kiến chưa thống nhất nhưng nhìn chung các tác giả đã có
cùng quan điểm trong việc khẳng định những thành tựu của truyện ngắn trong
quá trình đổi mới văn học, cùng có một niềm tin vào sự phát triển của thể loại
trong thế kỷ mới. Những kết quả nghiên cứu trên đây về thể loại truyện ngắn ở
một thời kì văn học còn khá mới mẻ và chưa ổn định là một trong những tiền
đề để chúng tôi tiếp cận với đề tài nghiên cứu của mình trên phương diện thể
loại.
2.2. TRUYỆN NGẮN NỮ THỜI KÌ ĐỔI MỚI QUA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN
CỨU
2.2.1 CÁC BÀI VIẾT VỀ ĐỘI NGŨ CÁC CÂY BÚT NỮ
Trong tiến trình vận động của truyện ngắn dân tộc thế kỷ XX, cùng với
thời gian, các cây bút nữ đã dần chứng tỏ khả năng và vị trí của họ trên văn
đàn. Từ sau cách mạng tháng Tám, nhất là từ những năm 60, các thế hệ nhà
văn từ Nguyệt Tú, Nguyễn Thị Cẩm Thạnh, Vũ Thị Thường, Nguyễn Thị
Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Lê Minh Khuê đến Dạ Ngân, Y Ban, Võ
Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan bằng vào các
sáng tác của mình đã tạo nên dấu ấn đậm nét trong đời sống văn học. Là một
bộ phận cấu thành diện mạo của văn học thời kì đổi mới nói chung và văn
9
xuôi nói riêng, truyện ngắn của các cây bút nữ đã tạo được dư luận trong đời
sống văn học.
Những thập kỷ gần đây, cùng với sự xuất hiện ngày càng đông đảo của
các cây bút nữ, trên lĩnh vực lý luận, yêu cầu nghiên cứu về đặc điểm sáng tác
của các nhà văn nữ đã được đặt ra. Trong bài viết Suy nghĩ về đặc điểm của nữ
văn sỹ [51], Phương Lựu đã chỉ ra những đặc điểm tính nữ trong văn học. Trên
cơ sở kế thừa thành tựu nghiên cứu của tâm lí học nữ giới, tâm lí học sáng tạo
nghệ thuật, giải phẩu học, ông khẳng định đặc điểm giới tính trong văn học là
có thật. Với bài viết mang tính lí luận này, ông đã có những kiến giải sâu sắc
về đặc điểm của nữ văn sỹ. Ông cho rằng, bên cạnh những lợi thế trong sáng
tạo nghệ thuật như giàu tình cảm, óc tưởng tượng phong phú, óc quan sát tinh
tế phụ nữ còn có những hạn chế như diện sống không thật rộng, có lợi thế về
tình cảm, song chưa tìm được sự cân đối hài hoà với trí tuệ, thiếu năng lực tư
duy tổng thể dẫn đến phạm vi phản ánh trong sáng tác của các nhà văn nữ
thường mang tính tự truyện.
Tạp chí Văn học số 6/1996 đăng tải tường thuật buổi toạ đàm Phụ nữ và
sáng tác văn chương trong đó tập trung ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình lẫn sáng tác như Văn Tâm, Đặng Anh Đào, Lê Minh Khuê, Ngô Thế
Oanh, Lại Nguyên Ân, Đặng Minh Châu, Phạm Xuân Nguyên, Vương Trí
Nhàn. Trong số những ý kiến được nêu ra, ý kiến của Vương Trí Nhàn đã tìm
được sự đồng thuận của nhiều người. Lí giải về sự xuất hiện của đông đảo các
cây bút nữ sau 1975, sự gắn bó của họ đối với thể loại văn xuôi của một số cây
bút nữ trong đó có Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ ông cho rằng:
“phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần gũi với cái lỉnh
kỉnh dở dang của đời sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có - tốt, dịu dàng,
rộng lượng thì không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai
bằng - từng cây bút nữ đã tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá
sớm”.
10
Sự góp mặt của những cây bút văn xuôi nữ những năm gần đây đã tạo
nên những âm sắc mới cho đời sống văn học và điều này đã được ghi nhận:
“Trong những trang viết của các tác giả nữ đương đại ta luôn tìm thấy những
vang hưởng mạnh mẽ hiện thực thời đại chúng ta đang sống Và cũng trên
những trang viết của họ, ta tiếp nhận được một nữ tính phức tạp hơn nhưng
đồng thời cũng phong phú hơn những gì ta vẫn quan niệm trong quá khứ”
[121, tr8].
Để có cái nhìn toàn diện về sáng tác của các nhà văn nữ, đã có nhiều bài
viết đăng tải ý kiến của chính các nhà văn nữ (Lan man với Nguyễn Thị Thu
Huệ [80], Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ [91], Gặp gỡ các nhà văn trẻ
[58] ). Ở bài viết Chúng tôi phỏng vấn 4 cây bút nữ [91], các cây bút nữ Võ
Thị Hảo, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Hồ Thị Hải Âu đã bộc lộ những suy
nghĩ của mình về những khó khăn và thuận lợi đối với người phụ nữ khi họ
tham gia sáng tác văn học. Những thông tin từ các bài phỏng vấn đã giúp cho
độc giả và người nghiên cứu có sự hình dung đầy đủ hơn về cuộc đời và sáng
tác của các nhà văn nữ.
Nhà văn Nguyễn Thị Như Trang đã có sự khái quát về Thành tựu và đội
ngũ các nhà văn nữ Việt Nam qua bài viết đăng trên báo Văn nghệ số ra ngày
18/8/1990. Bà đặc biệt nhấn mạnh đến đóng góp của các nhà văn nữ trong
chiến tranh chống Mỹ đối với nền văn học nước nhà. Công trình Các nhà văn
nữ [54] của nhóm tác giả Lê Thị Đức Hạnh, Vân Thanh, Phan Diễm Phương
đã khái quát, giới nhiều nhiều gương mặt văn xuôi nữ trong đó tập trung vào
lớp nhà văn chống Mỹ như Thanh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Dương Thị
Xuân Quý, Bích Thuận, Lê Minh. Các nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu quá
trình sáng tác của từng nhà văn để thấy được những đóng góp của họ cho nền
văn học nước nhà.
Nhà nghiên cứu Bích Thu trong Văn xuôi của phái đẹp [109] đã khẳng
định sự tiếp nối về đội ngũ của các nhà văn nữ, cũng như sự vận động đổi mới
11
của các nhà văn từ cách nhìn về hiện thực và con người, những ưu thế riêng
của giới tính trong sáng tạo nghệ thuật, trong cách lựa chọn đề tài và xử lí tình
huống.
Nguyễn Thị Thành Thắng đã có những phác thảo về diện mạo truyện
ngắn đương đại với sự góp mặt của các cây bút nữ (Phác thảo vài nét về diện
mạo truyện ngắn đương đại và sự góp mặt của một số cây bút nữ [101]).
Trong bài viết này, chị tập trung vào vấn đề sự lên ngôi của một số cây bút nữ
và hướng tiếp cận đời sống trong truyện ngắn của họ. Hoàng Thị Hồng Hà tìm
hiểu xu hướng “tự nghiệm” trong truyện ngắn nữ. Chị chú ý đến mảng hiện
thực của những “cái tôi đàn bà” phong phú mà phức tạp và sâu sắc đầy tính
nữ, từ đó khám phá các cách biểu hiện của nhân vật xưng tôi trong tác phẩm
(Truyện ngắn nữ và xu hướng tự nghiệm [18]).
Bùi Việt Thắng là người dõi theo sát sao sự phát triển của thể loại
truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn các cây bút nữ trẻ. Trong loạt bài viết tản
mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ (Khi người ta trẻ I, Khi người ta
trẻ II), ông đã chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong sáng tác của các nhà văn
nữ. Theo ông: “làm nên đặc trưng riêng của những cây bút nữ trẻ là cái nhu
cầu đến như là mê say được tham dự, được hòa nhập vào những nỗi niềm đau
khổ và hy vọng của con người” [102, tr190]. Từ những quan sát truyện ngắn
trên Văn nghệ trẻ trong nhiều năm liền, Bùi Việt Thắngcho rằng: “Đã hình
thành một tỷ lệ giữa phái yếu và phái mày râu là 2/3 - một tỷ lệ đáng gờm bởi
nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn trẻ hôm nay (và văn chương nói chung) mang
gương mặt nữ” [102, tr206].
Là người quan tâm tới sự đổi mới của văn học, nhìn nhận văn chương
của các nhà văn nữ như một hiện tượng xã hội, Huỳnh Như Phương trong bài
viết Văn chương nữ giới - một cách thế hiện ở đời khẳng định: “Qua văn
chương, người phụ nữ không muốn để cho nam giới độc quyền kết luận về ý
12
nghĩa cuộc đời này, độc quyền đau khổ trước những bi kịch và độc quyền tìm
cách ứng phó với những tình huống bi kịch đó” [89, tr136].
Với kinh nghiệm cá nhân của một người viết nữ, khảo sát Tuyển tập 35
truyện ngắn nữ chọn lọc, trên cơ sở phân tích các hình thức biểu hiện của nhân
vật nữ trong các sáng tác của Trầm Hương, Ngô Thị Kim Cúc, Lê Minh Khuê,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Ngọc Liên, Lý Lan nhận định: “Đặc điểm
trong những truyện ngắn của các nữ tác giả trẻ là hiện thực xã hội đang thay
đổi nhanh chóng quyết liệt và ảnh hưởng đến từng cuộc đời, ít nhiều làm vỡ
những giấc mộng lớn, mộng con với thái độ chung là chấp nhận như một
chuyển động tất yếu của thời đại” [43, tr103].
Bên cạnh những bài viết trên các báo và tạp chí, truyện ngắn nữ thời kì
đổi mới cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn tốt nghiệp đại
học, luận văn thạc sỹ như Nhân vật nữ trong truyện ngắn ba tác giả nữ Y Ban,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo; Những đóng góp của những cây bút nữ
trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới; Hạnh phúc đời tư trong truyện ngắn của
một số cây bút trẻ nữ. Nhìn chung các luận văn này đã đánh giá được đóng
góp của các cây bút nữ trong thời kì đổi mới.
Có thể nhận thấy là qua các bài viết và công trình nghiên cứu, từ những
góc độ khác nhau, các tác giả đã có sự nhìn nhận trên nhiều bình diện của
truyện ngắn các cây bút nữ, đề cập đến những đặc điểm nổi bật trong sáng tác
của họ. Các bài viết đã khẳng định sự tiếp nối về đội ngũ cũng như những đặc
điểm của giới tính bộc lộ qua cách nhìn hiện thực và con người. Tuy nhiên,
trong phạm vi một bài viết hoặc công trình đó, các tác giả mới dừng lại ở
những nhận định ban đầu, chưa có điều kiện khảo sát một số lượng tác phẩm
phong phú hơn hoặc đi chuyên sâu vào các tác giả tiêu biểu để từ đó có những
kiến giải cụ thể. Cũng cần phải nói thêm rằng, cũng có ý kiến trái chiều khi
bàn về sáng tác văn học của các nhà văn nữ (như ý kiến của Nguyễn Thanh
Sơn trong Phê bình văn học của tôi [93]). Nếu như các cây bút nữ thời kì đổi
13
mới vẫn đang trong quá trình vận động thì tác phẩm của họ vẫn còn có những
“vùng đất mới” thậm chí ngay ở vùng đất đã được thâm canh vẫn cần được
tiếp tục có những kiến giải từ phía người đọc.
2.2.2. CÁC BÀI VIẾT VỀ TÁC GIẢ PHAN THỊ VÀNG ANH, NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y
BAN, LÝ LAN
Nằm trong diện khảo sát các vấn đề về truyện ngắn sau 1975 và các tác
giả nữ, truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, Y
Ban - bốn cây bút nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, cũng được các
nhà phê bình, nghiên cứu quan tâm.
2.2.2.1. VỀ Y BAN
Nhận định về sáng tác của Y Ban, trong bài viết Một giọng nữ trầm
trong văn chương Bùi Việt Thắng cho rằng: “Trong nhiều gương mặt nữ viết
văn gần đây, người đọc vẫn dành cho Y Ban nhiều cảm tình đặc biệt” [102].
Cũng ở bài viết này, ông đặc biệt nhấn mạnh đến lối viết của chị: “Y Ban có
một lối viết của riêng mình, chị chú ý khai thác thể hiện những tâm trạng điển
hình của nhân vật trong những trạng huống tiêu biểu”.
Trong bài viết gần đây trên báo Văn nghệ số ra ngày 5/7/2003 Y Ban và
những thân phận đàn bà, Xuân Cang đã phân tích và lí giải những đặc điểm
trong sáng tác của Y Ban trong khi xây dựng nhân vật nữ. Ông xem Y Ban là
người phụ nữ viết văn đầy nhạy cảm, chị cảm nhận được những biến thái tinh
vi trong tâm hồn con người.
Báo cáo kết quả cuộc thi viết tiểu thuyết và truyện ngắn về đề tài Hà
Nội, nhà văn Hoàng Ngọc Hà đánh giá cao tác phẩm của chị: “Y Ban (giải B)
lại có một lối kể chuyện thật thản nhiên, không bình phẩm mà dẫn người đọc
vào những suy tư và tự xem lại cách sống của mình” [19].
14
Tại cuộc hội thảo Truyện ngắn hay 1998 do Trường Đại học Hồng Đức
tổ chức, truyện ngắn Sau chớp là dông bão của Y Ban đã thu hút được nhiều ý
kiến đánh giá từ phía người đọc. Từ một truyện ngắn, Vũ Thị Oanh (giảng
viên đại học Hồng Đức) đã có cái nhìn rộng hơn về sáng tác của Y Ban: “Theo
tôi sáng tác Y Ban không đặt ra những vấn đề to tát, cũng không đại ngôn, mà
thường chỉ là những điều mắt nhìn và trái tim suy nghĩ nhưng thường để lại
những ám ảnh có lúc xa xót như những nhát cứa, có lúc hồi hộp, dịu ngọt. Đã
gặp một lần - những người có trái tim nhạy cảm không dễ mấy ai quên” [67].
Qua các bài viết về Y Ban, có thể nhận thấy, các tác giả mới dừng lại ở
việc khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu, ở đặc điểm nhân vật nữ, những đặc
trưng của giọng điệu mà chưa khảo sát một cách toàn diện tác phẩm của chị.
*
Y Ban đến với văn chương không phải là chủ định ngay từ ban đầu bởi
trước khi là nhà văn, là phóng viên, chị đã tốt nghiệp Y khoa và đã từng gắn
bó với nghề y ở cương vị giảng dạy. Chị bắt đầu viết văn từ năm còn học lớp
8 với những mẩu chuyện nhỏ. Chị trở thành một cây bút được bạn đọc chú ý
khi Bức thư gửi mẹ Â u cơ được gửi dự thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ
quân đội (1989 - 1990) và đoạt giải thưởng. Ba năm sau, năm 1993, chị lại tiếp
tục gặt hái thành công. Tập truyện Người đàn bà có ma lực của chị đã đoạt
giải B cuộc thi viết về Hà Nội của Nhà xuất bản Hà Nội. Cho đến nay, chị vẫn
là cây bút sung sức ở thể loại truyện ngắn và là một gương mặt tiêu biểu cho
truyện ngắn nữ thời kì đổi mới. Chị liên tục cho ra nhiều tập truyện: Người
đàn bà có ma lực, Đàn bà sinh ra trong bóng đêm, Cẩm cù, Miếu hoang, Chợ
rằm dưới gốc dâu cổ thụ và gần đây nhất là tập truyện Cưới chợ và những
truyện ngắn mới.
2.2.2.2. VỀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Nhìn nhận Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ “độc đáo và tài hoa”, Hồ
Sỹ Vịnh đã tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên bình diện thi pháp:
15
Truyện ngắn Thu Huệ được viết theo thi pháp mở thể hiện qua việc xây dựng
nhân vật, qua cách xây dựng cốt truyện. Thu Huệ độc đáo ở ngôn ngữ miêu tả
đời sống, ở việc miêu tả những tình huống trào lộng, ở lối viết cô đặc. Từ
những phát hiện đó, ông cho rằng Thu Huệ đang chuẩn bị cho mình một
phong cách: “Nếu phong cách nghệ thuật là một đại lượng thẩm mỹ, thể hiện
sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện
biểu hiện nghệ thuật, các yếu tố độc đáo lặp đi lặp lại, nói lên cách nhìn, cách
cảm trong sáng tạo của một nhà văn, của một tác phẩm cụ thể , thì ở Thu
Huệ, người đọc tìm thấy những dấu hiệu đó” (Thi pháp truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ [126]). Bên cạnh đó, ông còn chỉ ra những mặt chưa
được ở cây bút này như một số tác phẩm còn thiếu tính khái quát, còn sa vào
lối miêu tả kể lể.
Chùm truyện ngắn dự thi Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1994 của
Nguyễn Thị Thu Huệ đã được đánh giá cao với những nhận xét: “Truyện nào
của chị cũng hấp dẫn. Chị viết về sự kiếm tìm hạnh phúc của con người trong
đời sống thực tại, lý giải, cắt nghĩa sự tha hóa của đạo đức. Văn phong của chị
tinh tế, gần gũi” (Một cuộc thi về người lính, vì người lính và vì một nền văn
học đổi mới, lành mạnh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1994). Bùi Việt
Thắng khảo sát 5 truyện ngắn dự thi ở nhiều khía cạnh khác nhau từ bình diện
phản ánh, đặc điểm của nhân vật nữ, giọng điệu đến nghệ thuật xây dựng cốt
truyện. Về giọng điệu của cây bút nữ này, ông cho rằng có một cái gì đó
không thuần nhất, không đơn giản, thậm chí có khi đối chọi nhau trong văn
Thu Huệ. Ông viết: “Truyện ngắn Thu Huệ luôn có hai mặt như thế - vừa “bụi
bặm trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm”, “vừa táo tợn, vừa thanh khiết”,
“văn Thu Huệ có độ căng của nhịp điệu, câu thường ngắn, ít ẩn dụ điển tích,
cấu trúc đơn giản, thông tin cao” (Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút nữ
trẻ [102]). Khảo sát 5 truyện ngắn dự thi, Dương Quỳnh Trang lại quan tâm
16
tới việc xây dựng hình mẫu người đàn ông trong sáng tác của Thu Huệ. Chị đã
có bài viết Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của một cây bút nữ
[116].
Gần đây, ngay sau khi tập truyện Nào ta cùng lãng quên được xuất bản,
bài viết Lãng quên và hy vọng - nhân đọc Nào ta cùng lãng quên, tập truyện
ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ đã được đăng tải trên Tạp chí Văn hóa - Văn
nghệ công an số 12/ 2003. Phê bình tập truyện này, tác giả bài báo đã viết:
“Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tương đối đặc biệt, nó
toát ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ” [31].
Nhìn chung, có thể nhận thấy, tác giả của các bài viết đều khẳng định
khả năng nắm bắt hiện thực tinh tế và thuyết phục của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ có sức hấp dẫn riêng với người đọc nhờ lối
viết và giọng điệu độc đáo, ấn tượng.
*
Nguyễn Thị Thu Huệ là một trong số những tác giả gặt hái được thành
công khi tuổi còn rất trẻ. Năm 1993, chị nhận giải thưởng của Báo Tiền phong
trong cuộc thi Tác phẩm tuổi xanh khi chị ở tuổi 27. Cùng năm đó, chị giành
được giải A trong cuộc thi viết về đề tài Hà Nội của Nxb Hà Nội. Năm 1994 là
năm thành công của chị với hai giải thưởng lớn: giải nhất cuộc thi truyện ngắn
Tạp chí Văn nghệ quân đội cho chùm tác phẩm gồm 5 truyện ngắn và tặng
thưởng của Hội nhà văn Việt Nam cho tập truyện Hậu thiên đường. Đến với
văn chương khá sớm và cho đến nay, chị đã ra mắt bạn đọc bốn tập truyện
ngắn: Cát đợi, Hậu thiên đường, Phù thủy, Nào ta cùng lãng quên.
2.2.2.3 VỀ LÝ LAN
Lý Lan lớn lên ở vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn, dạy học, viết văn và dịch
thuật là những công việc chị từng làm. Đã từng có thời gian dài gắn bó với
nghề dạy học nhưng công chúng lại biết đến chị nhờ văn chương. Với Lý Lan,
“viết văn khiến mình quan tâm đến con người và hoàn cảnh sống của họ” [42].
Ngoài sáng tác truyện ngắn chị còn viết truyện cho thiếu nhi, viết kí và tiểu
17
thuyết. Hiện nay chị đã là tác giả của hàng chục đầu sách. Bên cạnh các tập
truyện ngắn in riêng như Quá chén, Đất khách, Phượng, Thả diều, Chút lãng
mạn trong mưa; truyện ngắn của chị còn được tuyển chọn vào các tập truyện
ngắn khác như Cỏ hát (In chung với Trần Thùy Mai, Nxb Tác phẩm mới,
1984; Những ngày cuối năm. Tập truyện ngắn thành phố. Nxb Văn nghệ Tp.
Hồ Chí Minh, 1984; Truyện ngắn hay tuyển chọn, Nxb Công an nhân dân
1996; Truyện ngắn hay và đoạt giải (1957 - 1997), Nxb Văn học - Tạp chí
Văn nghệ quân đội, 1997; Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học 2001;
Truyện ngắn nữ thập niên 90, Nxb Phụ nữ 2000,
Trong phần viết tổng luận cho cuốn sách Các nhà văn nữ [54] của nhóm
tác giả Lê Thị Đức Hạnh, Vân Thanh, Phan Diễm Phương, Lý Lan được nhắc
đến như là một cây bút đang được nhiều người chú ý. Trong cuộc thi truyện
ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội 1989 - 1990, truyện ngắn Ngựa ô của Lý Lan
đã được nhà văn Xuân Thiều đánh giá cao: “đọc truyện này làm ta liên tưởng
tới Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu hoặc Vĩnh biệt Gunxarư của
Aimatốp. Chẳng hiểu Lý Lan có cảm hứng qua cái đẹp của các nhà văn vừa
nhắc tới không, mà tôi cứ nghĩ rằng “cái tạng” của Lý Lan rất dễ bắt gặp sự
rung động của các nghệ sĩ từng để lại cho đời những tác phẩm bất hủ”, “khác
với một số nhà văn viết về con người và nông dân Nam bộ, Lý Lan đã đem
đến cho người đọc ấn tượng về sự dịu hiền, sự ấm áp và cả sự tinh tế của nông
thôn Nam bộ” [106].
Đọc tập truyện ngắn và kí Một góc phố tàu của Lý Lan, Vũ Đức Tân
cho rằng: “Chị viết truyện ngắn khá tự nhiên, bao giờ cũng mong mình có
nhiều công chúng hơn. Lối viết của Lí Lan khá gần với phong cách hiện đại
[97].
Là người tuyển chọn trong số các tác phẩm truyện ngắn và kí của Lý
Lan vào tập Một góc phố Tàu, Vương Trí Nhàn đã có sự nghiên cứu khá kĩ
lưỡng sáng tác của chị trên nhiều bình diện như sự ảnh hưởng của môi trường
sống đến quá trình sáng tác của Lý Lan, những phạm vi hiện thực được phản
ánh trong sáng tác của chị cũng như một số phương diện về hình thức thể hiện.
18
Trên cơ sở nhận diện các tác giả văn xuôi Nam bộ như Hồ Biểu Chánh, Lý
Văn Sâm, Sơn Nam, Trang Thế Hy, ông cho rằng: “có thể Lý Lan không hoàn
toàn cố ý, nhưng văn xuôi của chị chính là nằm trong cái mạch đó của văn
xuôi Nam bộ. Cây bút nữ này đã tiếp nhận một cách hồn nhiên kinh nghiệm
của người đi trước, trong hoàn cảnh của mình, thêm vào đó những sắc thái
mới, làm nên một giọng điệu mới”(Mạch sống tự nhiên - một vài cảm nhận về
văn xuôi Lý Lan [85]). Ông đặt niềm tin vào cây bút này: “có thể tin là trước
mắt chúng ta, một phong cách đã hình thành, một mạch văn đã khơi nguồn và
đang chảy xiết” [85].
Quan tâm tới lối viết của Lý Lan, đặc biệt là cách tạo dựng không khí
cho truyện kể, Bùi Việt Thắng nhận định: “Lý Lan viết truyện ngắn rất tự do,
dường như không câu nệ khuôn phép nào. Đọc Lý Lan tôi nhớ đến nhận xét
của nhà văn Đỗ Chu: mỗi truyện ngắn trở thành một mảnh phân thân. Truyện
ngắn Lý Lan vừa như một cái gì liên tục mà đứt đoạn, mơ hồ mà rõ ràng - có
thể đó là lối viết dựa vào dòng ý thức” [118, tr9].
Khi tìm hiểu sáng tác của Lý Lan, các tác giả thường quan tâm tới giọng
điệu, cách kể chuyện và lối viết. Điều này đã được khẳng định là đặc trưng tạo
nên dấu ấn của nhà văn nữ này.
2.2.2.4 VỀ PHAN THỊ VÀNG ANH
Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn học, bố là nhà thơ Chế Lan Viện,
mẹ là nhà văn Vũ Thị Thường, Vàng Anh đã có những lợi thế để phát huy
niềm đam mê và khả năng sáng tạo văn học của mình. Phan Thị Vàng Anh
được độc giả đặc biệt chú ý kể từ khi chị tham gia cuộc thi truyện rất ngắn trên
tạp chí Thế giới mới. Nhận định về cây bút này, Tuyết Ngân đã viết: “Những
năm đầu thập kỉ 90, văn đàn “nổi sóng” vì những truyện ngắn “Kịch câm”,
“Đất đỏ” cho đến “Hoa muộn” của nhà văn trẻ Phan Thị Vàng Anh. Khi đó
chị mới ngoài 20 tuổi. Những truyện ngắn của chị đã khiến các nhà văn lớp
19
trước và độc giả phải bàng hoàng vì giọng điệu cũng như ý tưởng mới lạ của
nó” [74].
Tập truyện ngắn Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh được tặng
thưởng của Hội nhà văn và khi viết lời giới thiệu cho tập truyện này, Huỳnh
Như Phương đánh giá: “sự xuất hiện của Vàng Anh đã đem đến một không
khí mới cho đời sống văn học hồi bấy giờ”. Sức hấp dẫn mà truyện ngắn Phan
Thị Vàng Anh có được là nhờ “Vàng Anh biết cách lạ hóa những điều quen
thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng chừng nhạt nhẽo” [90, tr6].
Trong bài viết Phan Thị Vàng Anh và Trần Thanh Hà hai phong cách
truyện ngắn trẻ, từ chỗ đi sâu vào phân tích truyện ngắn Hoa muộn - tác phẩm
đưa Vàng Anh đến với giải thưởng của tạp chí Thế giới mới, Tuyết Ngân lại
một lần nữa khẳng định sự xuất hiện có ý nghĩa của Vàng Anh trong đời sống
văn học những năm gần đây: “Người ta hồ hởi đón nhận truyện ngắn của Phan
Thị Vàng Anh và tác giả cũng đáp lại sự chờ đợi của mọi người bằng cách liên
tục xuất bản những tập truyện ngắn” [73].
Cảm nghiệm về sự mỏng manh của một số mối liên hệ con người trong
đời sống hiện đại, về những con người nhỏ bé, lẻ loi trước những tình cảm hời
hợt, những đứt gãy của cuộc sống ở một số nhân vật trong sáng tác của Vàng
Anh, Nguyễn Chí Hoan trong bài viết Bơ vơ trong cái đời thường - Đọc truyện
ngắn Phan Thị Vàng Anh - Nguyễn Trọng Nghĩa cho rằng: Phan Thị Vàng
Anh đã “cố gắng bóc đi những lớp vỏ sự kiện đời sống để trực quan các mối
liên hệ - giản đơn và vô hình giữa con người” [32].
Ngay sau khi những tác phẩm đầu tay đến với bạn đọc, Phan Thị Vàng
Anh đã gây được sự chú ý của người đọc. Vàng Anh trở thành một trong số
những cây bút trẻ mà khi nói đến sự đổi mới văn học, sự vận động của thể loại
truyện ngắn, các nhà phê bình, nghiên cứu không quên nhắc đến tác phẩm của
chị. Những năm gần đây, chị ít xuất hiện hơn trên văn đàn. Chắc rằng, đây sẽ
là quãng lặng để chị lại có thể bước những bước đi vững chắc trong văn
20
nghiệp và tác phẩm của chị sẽ còn là những mảnh đất cần tiếp tục được khai
vỡ.
* *
*
Tựu chung lại, có thể nhận thấy các bài viết này mới chỉ dừng lại ở việc
khảo sát chủ yếu là những tác phẩm và tác giả cụ thể ở những tập truyện riêng
rẽ mà chưa có cái nhìn bao quát, xâu chuỗi mang tính hệ thống trên cơ sở khảo
sát một cách toàn diện truyện ngắn của các nhà văn nữ đặc biệt là truyện ngắn
của 4 cây bút nữ trên đây. Có không ít những nhận xét khá tinh tế, sâu sắc về
các cây bút nữ ra đời sau 1975, tuy nhiên những bài viết này cũng chỉ mới
dừng lại ở những gợi mở mà chưa có sự phân tích thấu đáo. Đặc biệt, chưa có
các bài viết nghiên cứu về bình diện nhân vật, về cảm hứng sáng tác cũng như
một số phương diện của hình thức tác phẩm của các chị. Vì thế, chúng tôi
mạnh dạn lựa chọn đề tài này với mong muốn bằng sự khảo sát của mình tìm
hiểu đặc điểm trong sáng tác truyện ngắn của bốn cây bút nữ, qua đó góp thêm
một góc nhìn để thấy được sự đóng góp về phương diện thể loại của các cây
bút trẻ trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát chính là truyện ngắn của bốn cây bút nữ Nguyễn
Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan. Mở rộng hơn, chúng tôi sẽ
liên hệ sang những sáng tác ở các thể loại khác của các chị. Một mặt, chúng
tôi vừa tập trung vào những đặc điểm chung của 4 cây bút nữ, mặt khác vừa đi
sâu vào từng tác giả cụ thể để có cái nhìn khu biệt. Tất nhiên, trong quá trình
nghiên cứu, chúng tôi sẽ cố gắng đặt truyện ngắn của các chị trong cái nền
chung của truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới nói chung và truyện ngắn nữ
trẻ nói riêng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
21
Chọn đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì
đổi mới (qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh,
Lý Lan), luận văn tập trung vào các phương diện: truyện ngắn những năm sau
chiến tranh và truyện ngắn nữ thời kì đổi mới; truyện ngắn bốn cây bút nữ
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan nhìn từ phương diện
cảm hứng nghệ thuật, thế giới nhân vật và đặc điểm nghệ thuật. Trong các vấn
đề trên thì việc tìm hiểu truyện ngắn những năm sau chiến tranh và truyện
ngắn nữ thời kì đổi mới là một cách tiếp cận với dòng chảy của truyện ngắn để
thấy được mạch nối và vị trí của các cây bút nữ nói chung và bốn tác giả trên
nói riêng trong tiến trình vận động của truyện ngắn nữ hiện đại. Trên cơ sở đó,
chúng tôi tập trung soi rọi vào hai phương diện quan trọng và đặc trưng của
sáng tạo nghệ thuật là cảm hứng sáng tác và thế giới nhân vật trong truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để có một cái nhìn tổng quan về truyện ngắn của bốn tác giả với số
lượng khá lớn các tác phẩm, luận văn sẽ sử dụng phương pháp thống kê, phân
loại, phương pháp loại hình, phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương
pháp so sánh đối chiếu. Với các phương pháp này, chúng tôi cố gắng tìm được
đặc trưng cơ bản nhất cũng như mối tương quan giữa truyện ngắn của các chị
với những cây bút cùng thế hệ, cùng giới, khác giới và khác thế hệ.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
5.1. Qua việc tìm hiểu cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, luận
văn sẽ cho thấy quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người của các nhà
văn nữ này, trên cơ sở đó góp phần làm sáng tỏ các đặc điểm của nữ văn sỹ.
5.2. Khảo sát truyện ngắn bốn cây bút nữ từ phương diện nghệ thuật để
thấy được các thủ pháp nghệ thuật trong quá trình xây dựng cốt truyện.
22
5.3. Qua truyện ngắn bốn cây bút nữ, thấy được dòng chảy của truyện
ngắn nữ đương đại nói riêng và truyện ngắn nói chung trong tiến trình vận
động và đổi mới của văn xuôi thời kì đổi mới.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Phần mở đầu
Phần nội dung: gồm ba chương
Chương 1: Truyện ngắn những năm sau chiến tranh và truyện ngắn nữ
thời kì đổi mới
Chương 2: Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan
Chương 3: Nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan
Thị Vàng Anh, Lý Lan
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
và phần Phụ lục: Quan niệm của một số nhà văn nữ về nghề văn
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TRUYỆN NGẮN NHỮNG NĂM SAU CHIẾN TRANH VÀ TRUYỆN
NGẮN NỮ TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1. TRUYỆN NGẮN NHỮNG NĂM SAU CHIẾN TRANH
Năm 1975, với thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đời sống
xã hội bước sang một quỹ đạo mới. Đó là thời điểm để con người trở về với
nhịp sống thời bình. Những đổi thay của đời sống xã hội những năm sau chiến
tranh đã được tác động vào đời sống văn học, đặt văn học trước yêu cầu đổi
mới.
23
Tuy nhiên, những năm đầu sau chiến tranh, văn học vẫn còn phát triển
theo quỹ đạo cũ. Từ nửa sau thập kỉ 80 văn học mới thực sự có sự chuyển đổi:
từ tính thống nhất với tư duy sử thi là chủ đạo, dần dần văn học có sự chuyển
đổi sang tư duy tiểu thuyết; từ chịu ảnh hưởng của các quy luật chiến tranh,
văn học chuyển sang chịu tác động của các quy luật thời bình. Bước chuyển
của văn học được thể hiện qua thơ, kịch, văn xuôi, trong đó truyện ngắn là một
trong những thể loại ghi dấu rõ rệt. Là thể loại nhạy bén và xung kích trong
việc áp sát hiện thực cuộc sống, truyện ngắn lại đi sâu vào việc phản ánh “cái
hàng ngày”, “cái thường nhật”. Cùng với những chuyển động của thể loại tiểu
thuyết với sự xuất hiện của những tác phẩm từng gây dư luận như Cù lao
tràm, Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh Tuấn, Thời xa vắng của Lê Lựu,
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Thời gian của
người, Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, Mùa lá rụng trong vườn của Ma
Văn Kháng, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân,
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là sự trở lại, lên ngôi của truyện ngắn
với những cây bút lão thành, những cây bút từng có những đóng góp trong nền
văn học kháng chiến như Bùi Hiển với Ý nghĩ ban mai, Xuân Thiều Gió từ
miền cát, Người mẹ tội lỗi, Xin đừng gõ cửa, Nguyễn Kiên với Chim khách
kêu, Những mảnh vỡ, Đỗ Chu với Một loài chim trên sóng, Nguyễn Minh
Châu với Bến quê và Cỏ lau, Đặc biệt là sự xuất hiện của những cây bút trẻ -
lớp nhà văn trưởng thành sau chiến tranh, để rồi đến những năm 90, truyện
ngắn vươn lên thành một thể loại giàu sức sống trong dòng chảy của văn học
dân tộc những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi với một trong số gương mặt
xuất sắc là Nguyễn Huy Thiệp.
Sức sống của truyện ngắn được nuôi dưỡng trong không khí xã hội với
xu hướng mở rộng tính chất dân chủ. Sự bùng nổ các tác phẩm truyện ngắn
trên các ấn phẩm báo chí là môi trường để truyện ngắn dễ dàng đến được với
người đọc. Truyện ngắn được in nhiều trên các báo và các tuyển tập. Nhiều
cuộc thi truyện ngắn đã được phát động và cũng qua đó người đọc có thể tìm
24
được những gương mặt triển vọng. Bên cạnh các cuộc thi truyện ngắn được tổ
chức thường xuyên trên các báo (cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ trong
nhiều năm, báo Tiền Phong, Tạp chí Thế giới mới cho thể loại truyện ngắn
dưới 1000 chữ, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tạp chí Sông Hương) là việc
hưởng ứng của các tác giả cho cuộc thi sáng tác văn học về đề tài Hà Nội 1992
- 1993 do Nxb Hà Nội phát động, cuộc thi truyện ngắn dành cho các cây bút
mới do Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh tổ chức, cuộc thi truyện ngắn hay Tp
Hồ Chí Minh do Nxb văn nghệ Tp Hồ Chí Minh và Báo Nguyệt san Tp Hồ
Chí Minh phối hợp tổ chức trong 2 năm 1991, 1992 Một khối lượng lớn các
tuyển tập truyện ngắn có mặt trên thị trường và đang từng ngày đến tay bạn
đọc.
Dẫu rằng, với cơ chế thị trường và sự bùng nổ thông tin như mấy năm trở
lại đây, truyện ngắn với tư cách là một loại hình nghệ thuật, để đến với được
với người đọc còn là cả một thử thách khi mà con người ngày càng có nhiều
sự lựa chọn, ngày càng có nhiều mối quan tâm hơn và thời gian dành cho việc
đọc đang bị thu hẹp dần và ở góc độ này, so với tiểu thuyết, truyện ngắn quả là
có lợi thế! Sự bùng nổ của thông tin, cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ đến
đời sống văn học đã đòi hỏi ở truyện ngắn cũng như các thể loại khác một sự
đổi mới, một kiểu tư duy mới để đáp ứng một cách tiếp nhận mới từ phía công
chúng độc giả. Thực tế cho thấy là số đầu sách của các nhà xuất bản vẫn
không ngừng được mở rộng và nhiều cây bút mới vẫn chọn truyện ngắn làm
thể loại thử sức trong khi nhiều nhà văn lớp trước vẫn tiếp tục sáng tác truyện
ngắn sau những thành công trong văn nghiệp. Người đọc vẫn không thờ ơ với
truyện ngắn bởi “trong nhịp độ của đời sống công nghiệp hiện đại, dưới sức ép
từ phía các phương tiện nghe nhìn, truyện ngắn đã phát huy được ưu thế của
mình một cách hiệu quả” [112]. Vấn đề đặt ra là khi việc in ấn trở nên không
mấy khó khăn, thì sức sống của truyện ngắn lại tuỳ thuộc phần lớn vào chủ thể
sáng tạo, gánh nặng thiên chức hơn bao giờ hết lại đặt lên vai những người